XÂY DỰNG CÁN BỘ TƯ PHÁP, BỔ TRỢ TƯ PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN NỀN TƯ PHÁP VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN MỚI, KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
PGS,TS. Trương Thị Hồng Hà
(Phó Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu tổng hợp, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học cơ quan Ban Nội chính Trung ương)
Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đang đứng trước thời cơ và vận hội mới. Để đạt các mục tiêu đặt ra nhân kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước, chúng ta phải sẵn sàng bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kỷ nguyên vươn mình đòi hỏi công tác cán bộ nói chung, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp phải được hết sức chú trọng. Tổng Bí thư Tô Lâm xác định, “cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. “Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết”(1).
Để làm rõ những vấn đề lý luận và định hướng giải pháp, bài viết tập trung phân tích ý nghĩa lý luận về kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc theo quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm để xác định thời cơ, thách thức và giải pháp xây dựng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp để đạt được mục tiêu hoàn thiện nền tư pháp trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
1. Ý nghĩa lý luận về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam và định hướng xây dựng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp để hoàn thiện nền tư pháp đến năm 2030, tầm nhìn 2045
Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là một vấn đề thời sự mang tính cấp bách về lý luận và thực tiễn, cần phải được nhận thức đúng đắn, thống nhất để từ đó có giải pháp phù hợp, khả thi, góp phần thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, đưa dân tộc Việt Nam bước lên một tầm cao mới. Vậy, về lý luận cần thống nhất quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên là gì, kỷ nguyên mới là gì, vì sao giai đoạn tới là kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam? Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam có đặc điểm, vai trò, mục đích gì?
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, “Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội-văn hóa-chính trị-tự nhiên… Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại”. Do đó, cần hiểu rằng, “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu”.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam có đích đến là “dân giàu, nước mạnh, xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.
-Tổng Bí thư Tô Lâm-
Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là:
(1) Thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao;
(2) Đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để đạt được mục đích nêu trên, điều quan trọng là xác định thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, Đại hội XIV của Đảng thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới, từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.
Vậy, khi nào bắt đầu cho kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam? Đến thời điểm đó, Việt Nam nói chung và nền tư pháp Việt Nam đã có đủ cơ sở thực tiễn để thực sự bước vào kỷ nguyên vươn lên của dân tộc chưa?
Đại hội XIV của Đảng là thời điểm bắt đầu cho kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, “Đại hội XIV của Đảng là thời điểm bắt đầu cho kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”. Bởi lẽ, dân tộc Việt Nam đã bước qua các giai đoạn phát triển, gắn với các kỷ nguyên trong lịch sử dân tộc, nhất là kỷ nguyên đổi mới được thực hiện qua gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng.
Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia-dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023, tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực.
Quy mô nền kinh tế Việt Nam năm 2023, tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực.
Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới”.
Hơn thế nữa, theo Tổng Bí thư Tô Lâm, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước.
Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc.
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã nhận mạnh về những bước trưởng thành của dân tộc Việt Nam qua lịch sử cách mạng Việt Nam, trong đó, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích (Kỳ tích về một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể chiến thắng hai đế quốc thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại).
Thêm vào đó, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Từ những vấn đề trên, có thể thấy, đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới.
Dưới góc độ của hoạt động xây dựng cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là kỷ nguyên mở ra một thời kỳ, mà ở đó mỗi cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp thực sự trong sạch, vững mạnh, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, là nhân tố thực hiện mục tiêu được Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra đến năm 2030 “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, văn minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”.
2. Thời cơ và thách thức đối với xây dựng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp để hoàn thiện nền tư pháp trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Về thời cơ
1. 40 năm đổi mới vừa qua, nhất là gần 20 năm trở lại đây, cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp đã nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta.
Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18/6/1997, của Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII), về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”.
Tiếp đó, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết lãnh đạo chặt chẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ(2). Cụ thể nhất là Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 2/1/2002, của Bộ Chính trị, “Về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết 49/NQ-TW, ngày 2/6/2005, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp”.
Nghị quyết số 49-NQ/TW đã chỉ rõ lý do vì sao phải nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, đó là: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí, có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp”. Từ đó, Nghị quyết xác định một trong những phương hướng cải cách tư pháp là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh”, “có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các… luật sư.
Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn. Đồng thời, Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng xác định nhiệm vụ hết sức chính xác: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật. Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư pháp.
2. Sau 15 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp do Đảng khởi xướng, lãnh đạo, Đảng ta đã xác định một trong những nội dung công tác cải cách tư pháp cần triển khai thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước trong thời gian tới là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên phải thực sự liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, có bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”.
Đại hội XIII của Đảng, trên cơ sở tình hình mới, nhất là trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cũng như bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng đã khẳng định quan điểm về xây dựng con người Việt Nam. Văn kiện Đại hội của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao...”(3).
Nội hàm về nguồn nhân lực chất lượng cao đã được xác định rõ hơn, đó là “nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt”(4) và đặc biệt, Đảng ta tiếp tục gắn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với “ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Đồng thời, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ 2021-2026: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định, phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật”(5).
Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định đột phá chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế; Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng…
Hiện nay, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh yêu cầu đối với cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là:
Về phẩm chất: (i) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đột phá vì lợi ích chung; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết.
(ii) Có bản lĩnh, quyết tâm cao, sẵn sàng dấn thân, hy sinh lợi ích cá nhân.
Dám đi đầu, đổi mới, loại bỏ cái cũ, cái lạc hậu; khơi thông điểm nghẽn, giải quyết vướng mắc, ách tắc trong thực tiễn, mang lại hiệu quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; giải quyết những vấn đề sai sót tồn đọng, kéo dài hoặc đột phá đối với những vấn đề mới chưa có quy định hoặc quy định chồng chéo, thiếu thống nhất, khó thực hiện.
(iii) Có năng lực cụ thể, tổ chức thực hiện, đưa chủ trương chiến lược của Đảng vào thực tiễn từng bộ, ban, ngành, địa phương (chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển hạ tầng chiến lược, cải cách triệt để thủ tục hành chính…).
Cần thấy rằng, đây là những quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư đã được bổ sung kịp thời, hợp lý gắn với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn cách mạng mới là định hướng để thấy rõ trong “nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt, trọng yếu” có nội hàm của nguồn nhân lực tư pháp, trong đó gồm cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp, ngày 7/11/2024. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp, ngày 7/11/2024. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)
Nghị quyết số 27 -NQ/TW, trong nhiệm vụ xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân xác định 10 nội dung, trong đó vấn đề xây dựng cán bộ tư pháp được đặt ở nội dung thứ 10. Đây là nội dung cuối cùng của nhiệm vụ quan trọng, được sắp xếp như vậy thể hiện tính mấu chốt với vai trò và tầm ảnh hưởng đến việc hoàn thiện 9 nhiệm vụ nêu trước đó. Cụ thể là:
(1) Phát triển nguồn nhân lực đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý;
(2) Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp;
(3) Rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử nhân luật;
(4) Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp;
(5) Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp;
(6) Đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ thẩm phán.
Nhiệm vụ xây dựng cán bộ tư pháp:
(1) Phát triển nguồn nhân lực đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý;
(2) Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp;
(3) Rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử nhân luật;
(4) Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp;
(5) Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp;
(6) Đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ thẩm phán.
Có thể thấy, 6 nội dung này vừa là yêu cầu về mặt hình thức để hình thành đội ngũ cán bộ tư pháp lớn mạnh về số lượng; đa dạng về nguồn; vừa là yêu cầu về mặt nội dung, chất lượng của cán bộ tư pháp và chức danh tư pháp về chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống.
Theo yêu cầu này, đội ngũ cán bộ tư pháp và trung tâm là cán bộ chức danh tư pháp được sự quan tâm lãnh đạo một cách nhất quán của Đảng, sự kỳ vọng của xã hội, của Nhà nước.
Do đó, hơn bao giờ hết, việc nâng cao chất lượng đào tạo chức danh tư pháp phải gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực tư pháp trong tổng thể chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia; gắn với mục đích đạt được của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Có như vậy, cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp qua công việc của mình mới thực sự là nhân tố thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước, đáp ứng nhu cầu giải quyết những phát sinh tranh chấp và tội phạm với thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp, nhất là đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới.
3. Nhờ có triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp hiện nay đang được đánh giá là lực lượng cán bộ hùng mạnh, tăng cả về số lượng và chất lượng; uy tín của cán bộ tư pháp được nâng lên. Công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện đội ngũ cán bộ tư pháp toàn diện cả về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và năng lực thực tiễn; coi trọng cả “đức” và “tài”, trong đó “đức” là gốc; chất lượng cán bộ được bảo đảm trên cơ sở thống nhất tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực. Đề cao kỷ luật, kỷ cương, nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ tư pháp; bảo đảm sự vô tư, khách quan, công bằng và phòng ngừa mọi sự thao túng của các quan hệ kinh tế, tình cảm trong giải quyết công việc (6).
4. Nâng cao chất lượng và đổi mới quy mô đào tạo chức danh tư pháp, việc đào tạo nguồn nhân lực pháp luật và nhất là tạo nguồn cho chức danh tư pháp tại hai trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh theo định hướng của Nghị quyết số 49-NQ/TW thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật đến năm 2030 đã được quan tâm và đạt được những kết quả nổi bật (7), như từng bước mở rộng quy mô đào tạo, chú trọng hoàn thiện giáo trình, phương pháp giáo dục, đào tạo luôn được đổi mới, số lượng đội ngũ giảng viên được tăng cường, chất lượng được nâng lên; cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và học tập được đầu tư trọng điểm.
Trong bối cảnh và nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực pháp luật cho xã hội, cho Nhà nước và nhất là xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực cho các chức danh tư pháp, hai trường đại học luật trọng điểm cơ bản vẫn giữ được thương hiệu, uy tín, sinh viên tốt nghiệp cơ bản được xã hội chấp nhận, có đóng góp lớn vào định hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong năm học 2022-2023, cả nước có 101 cơ sở đào tạo cử nhân luật, trong đó có 62 cơ sở đào tạo công lập và 39 cơ sở đào tạo tư thục (năm 2025 có 9 cơ sở) được phân bổ ở khắp các vùng, miền địa phương, song chủ yếu tập trung ở thành phố lớn.
Chương trình đào tạo Luật có 145 chương trình (tăng 3 lần so với 2015); quy mô đào tạo của các cấp học luật qua các năm học đều duy trì ở mức trên 100.000 sinh viên”(8); hình thức đào tạo ngày càng đa dạng cả chính quy, vừa học, vừa làm, từ xa,…
Chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo ở một số cơ sở đào tạo có nhiều cải tiến, chất lượng đào tạo ở một số cơ sở đào tạo lớn(9) có những tiến bộ đáng kể; mạng lưới cơ sở đào tạo cử nhân Luật tăng nhanh về số lượng cơ bản đã đáp ứng nhu cầu học tập kiến thức và tri thức luật về lý thuyết của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cơ quan ngoại giao và quan trọng là trong đó có nhu cầu nguồn nhân lực của cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp, đơn vị dịch vụ pháp lý…
Đây là những đóng góp lớn cho công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Như vậy, điểm lại các chủ trương của Đảng về công tác cán bộ nêu trên, cho thấy chủ trương của Đảng và quyết tâm chính trị của Tổng Bí thư là thời cơ thuận lợi cho công tác xây dựng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu hoàn thiện nền tư pháp đến năm 2030.
Về thách thức
1. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với xu thế chuyển đổi số mạnh mẽ. Yêu cầu chuyển đổi số dần trở nên cấp thiết trong thời kỳ mới, việc áp dụng công nghệ sẽ dẫn đến một nền tư pháp tốt hơn, tiến bộ hơn, gắn liền với sự tham gia của người dân và tiếng nói của xã hội. Công nghệ đã góp phần tạo ra các nền tảng, các công cụ, hệ thống hóa, phân tích các bản án, nhằm phân tích quan điểm của tòa, của từng thẩm phán, xu thế phán quyết của từng thẩm phán; Legal Robot, nhằm phân tích rủi ro, tư vấn hợp đồng; IBM Watson, nhằm tư vấn pháp lý bởi trí tuệ nhân tạo; Claudette, nhằm tư vấn pháp lý cho người tiêu dùng.
Như vậy, đã xuất hiện trào lưu sử dụng trí tuệ nhân tạo để đảm nhận nhiều dịch vụ pháp lý, thay thế con người, từ đó, dần hình thành các khái niệm, như “predictive policing” (Dự báo, điều tra tội phạm dựa trên dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo); hay “predictive justice” (đoán định tư pháp).
Đây là trạng thái mới của hoạt động tư pháp nơi mà trí tuệ nhân tạo đã, đang và sẽ thay thế dần các phần việc của con người trong cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp, giúp giảm chi phí và thời gian, thúc đẩy quyền tiếp cận công lý của người dân.
Như vậy, xu hướng sử dụng trợ lý ảo (AI), cũng như xu hướng tranh chấp dân sự, kinh tế, hành chính gia tăng, tội phạm kinh tế, chức vụ và các loại tội phạm an ninh, trật tự trị an càng nhiều tạo ra thách thức đối với không chỉ đối với cán bộ tư pháp, mà còn gây áp lực công vụ đối với cán bộ bổ trợ tư pháp.
Xu hướng này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chuyên nghiệp, tinh thông, nhân văn, liêm chính, sáng tạo, linh hoạt, kịp thời phục vụ hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp.
2. Đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp có nơi còn thiếu so với biên chế được giao; có nơi cán bộ tư pháp phải đảm đương quá nhiều công việc, quá tải về khối lượng và thời gian hoàn thành; chưa có chính sách cụ thể thu hút người có năng lực, có đủ tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan trong hệ thống tư pháp; chế độ chính sách tiền lương chưa phù hợp với lao động đặc thù của cán bộ có chức danh tư pháp, chậm được đổi mới.
Việc xây dựng cơ chế thi tuyển, bổ nhiệm các chức danh tư pháp chậm thực hiện; chủ trương mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp chưa được triển khai trong thực tiễn; trình độ, năng lực, nhất là trình độ ngoại ngữ, kiến thức pháp luật quốc tế của một bộ phận cán bộ tư pháp còn hạn chế nên chưa đủ sức giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong quá trình xét xử các vụ án, tranh chấp quốc tế; đội ngũ chuyên gia đầu ngành còn ít(10); công tác quản lý, quy hoạch, luân chuyển, bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức tuy đã được quan tâm thực hiện, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cải cách pháp luật.
Chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ. Việc thực hiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cơ quan tư pháp ở một số địa phương chậm, chất lượng không cao; chế độ tiền lương đối với cán bộ tư pháp còn bất cập, chưa phù hợp với tính đặc thù và trách nhiệm pháp lý trong hoạt động tư pháp; kinh phí cấp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng còn hạn hẹp nên chủ yếu ưu tiên cho đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu, vị trí việc làm, chức danh lãnh đạo, quản lý;
Chiều 28/11, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV tiến hành quy trình phê chuẩn đề nghị của Chánh án TAND Tối cao về việc bổ nhiệm Thẩm phán TAND tối cao đối với ông Nguyễn Quốc Đoàn và ông Lê Tiến bằng hình thức biểu quyết điện tử. (Trong ảnh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước tặng hoa chúc mừng các nhân sự vừa được Quốc hội bầu, phê chuẩn. Ảnh: VGP)
Chiều 28/11, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV tiến hành quy trình phê chuẩn đề nghị của Chánh án TAND Tối cao về việc bổ nhiệm Thẩm phán TAND tối cao đối với ông Nguyễn Quốc Đoàn và ông Lê Tiến bằng hình thức biểu quyết điện tử. (Trong ảnh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước tặng hoa chúc mừng các nhân sự vừa được Quốc hội bầu, phê chuẩn. Ảnh: VGP)
3. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng bên cạnh những tác động tích cực, cũng tiềm ẩn nhiều tác động tiêu cực, điển hình như việc du nhập nhiều văn hóa độc hại, gây ảnh hưởng không nhỏ tới lối sống và những giá trị đạo đức của người Việt Nam, dẫn đến nhiều nguy cơ, trong đó có nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống của con người nói chung và cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp nói riêng. Nhiều cán bộ, công chức tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu khả năng ngoại ngữ.
Bên cạnh đó, xu hướng phát triển kinh tế thị trường, dân chủ hóa mạnh mẽ xuất hiện nhu cầu đào tạo luật phải hướng đến thích ứng và đối phó được với thực tiễn. Xu hướng này lại đặt ra yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng đào tạo chuyên gia pháp lý về dân sự-kinh tế thương mại quốc tế, tư pháp và bổ trợ tư pháp.
4. Xu hướng trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm kỷ luật đối với cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp ngày càng đề cao, khối lượng công việc ngày càng nhiều, tính chất công việc ngày càng khó, định biên nhân lực không tăng, tình trạng chảy máu chất xám nhân lực tư pháp chất lượng cao đang xảy ra cho thấy thiếu chiến lược phát triển nhân lực tư pháp cùng với công tác đào tạo nguồn nhân lực tư pháp và bổ trợ tư pháp nếu chậm đổi mới sẽ không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nhân lực tư pháp(11).
5. Xu hướng bão hòa trong đào tạo luật, cơ chế đánh giá chất lượng lỏng lẻo, nhất là trình độ thạc sĩ, tiến sĩ dẫn đến tình trạng vừa thiếu, vừa yếu nhân lực cao; trong đó, chất lượng nguồn nhân lực tư pháp và bổ trợ tư pháp không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
6. Xu hướng đào tạo của các nước trên thế giới và khu vực đối với đào tạo luật và nghề luật là lĩnh vực đào tạo nhân lực đặc biệt, cùng với việc áp dụng pháp luật để xét xử dựa trên pháp luật thực định và án lệ đòi hỏi người học phải có kinh nghiệm nhất định, kiến thức nền tảng ở bậc cử nhân mới đủ cơ sở để học cử nhân luật; đồng thời, sau khi có bằng cử nhân luật mới được đào tạo về chức danh tư pháp nhất định. Xu hướng này đặt đào tạo nguồn nhân lực tư pháp của Việt Nam phải có sự đổi mới từ chuẩn đầu vào, chuẩn đào tạo, chuẩn đầu ra với sự kiểm soát chặt chẽ chất lượng đào tạo. Đây là thách thức lớn trong tạo nguồn nhân lực tư pháp.
Giải pháp
Để triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 27-NQ/TW đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, việc nâng cao chất lượng công tác xây dựng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp cần chú trọng vào các giải pháp sau:
1. Cần quán triệt quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm về giải pháp trong công tác cán bộ, trong đó cần “có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Đồng thời, nắm vững chủ trương của Đảng về phát triển con người, coi trọng giáo dục, đào tạo. Trong đó, về nhận thức và cách làm cần hướng đến “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam”(12).
Cần nhận thức một cách thống nhất về vai trò của công tác xây dựng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp phải bắt đầu từ công tác đào tạo nguồn nhân lực pháp luật là đào tạo nên một đội ngũ trí thức gắn với nhiệm vụ “phát triển giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ; phát triển nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài” được xác định tại Nghị quyết số 27-NQ/TW. Tiếp tục nghiên cứu để xác định việc xây dựng và phát triển nhân tài tư pháp với tư cách là phát triển một loại nhân tài pháp luật (13).
Muốn vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, có Chiến lược phát triển nguồn nhân lực tư pháp đến năm 2045 để làm cơ sở, định hướng đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam để có giải pháp phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng, trọng dụng nhân tài tư pháp và có chính sách tương ứng đối với nhân tài tư pháp, cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng các quy hoạch, kế hoạch triển khai hiệu quả Quyết định số 889/QĐ-TTg, ngày 31/7/2023, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt chiến lược quốc gia tu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, gắn với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tư pháp”.
2. Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ, phát huy đạo đức cách mạng của từng cán bộ, đảng viên, tinh thần trách nhiệm, chủ động của từng cơ quan, đơn vị trong bộ máy Nhà nước thì các mục tiêu cải cách hành chính, cải cách tư pháp được thực hiện; người dân, doanh nghiệp sẽ thực sự là trung tâm, là đối tượng phục vụ theo nguyên tắc thượng tôn pháp luật thì pháp luật sẽ đi vào cuộc sống, pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện, đầy đủ mọi quan hệ xã hội. Kết quả là xã hội sẽ vận hành và phát triển theo đúng đường lối, chính sách mà Đảng đã ban hành. Từ đó, đất nước ta sẽ đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh theo đúng Cương lĩnh và mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, năm 2045 mà Đảng ta đã đề ra. Do đó, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, công tác xây dựng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp không chỉ chú trọng vào số lượng và chất lượng, mà còn phải tập trung đào tạo lý luận chính trị, bản lĩnh, đạo đức nghề; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tư pháp chất lượng cao, nhất là đội ngũ công chức làm công tác pháp luật quốc tế; đẩy mạnh đào tạo ngoại ngữ, tin học, ứng dụng khoa học máy tính cho cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp để nâng cao cơ hội tiếp thu kiến thức tư pháp tiến bộ của thế giới và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Phát huy đạo đức cách mạng của từng cán bộ, đảng viên, tinh thần trách nhiệm, chủ động của từng cơ quan, đơn vị trong bộ máy Nhà nước thì các mục tiêu cải cách hành chính, cải cách tư pháp được thực hiện; người dân, doanh nghiệp sẽ thực sự là trung tâm, là đối tượng phục vụ theo nguyên tắc thượng tôn pháp luật thì pháp luật sẽ đi vào cuộc sống, pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện, đầy đủ mọi quan hệ xã hội.
3. Tập trung xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật về đào tạo nhân lực tư pháp làm cơ sở pháp lý, hành lang pháp lý cho việc phát triển nhân lực tư pháp quốc gia; xây dựng tiêu chí kiểm soát chất lượng đào tạo luật bảo đảm thực hiện thống nhất trong các cơ sở đào tạo luật; tăng cường giải pháp kiểm soát chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy, nghiên cứu trong các cơ sở đào tạo luật và quá trình tổ chức quy trình đào tạo; cụ thể hóa giải pháp kiểm soát quá trình cấp, công nhận văn bằng, tín chỉ và xây dựng các chương trình đào tạo liên thông giữa các hệ đào tạo; đồng thời, chú trọng áp dụng công nghệ thông tin trong đào tạo, tuyển dụng; quy hoạch, sắp xếp các cơ sở đào tạo giáo dục đại học để loại bỏ những cơ sở đào tạo luật yếu kém.
4. Thực hiện đa dạng phương thức đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước, gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, giữa đào tạo tại các cơ sở đào tạo các chức danh tư pháp với đi đào tạo thực tế tại các tổ chức nghề nghiệp tư pháp, thông qua việc cử cán bộ đi thực tập ở các tổ chức quốc tế, trung tâm trọng tài quốc tế và các hãng luật chuyên sâu về pháp luật quốc tế; chú trọng phương pháp đào tạo tại chỗ, tự học qua thực tiễn công tác.
5. Chú trọng công tác chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực tư pháp và xây dựng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp; đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin và thiết bị công nghệ hiện đại cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đáp ứng nhu cầu học tập cá nhân hóa, kết nối mọi chủ thể, đối tượng trong quá trình giáo dục, học mọi nơi, mọi lúc; đáp ứng chỉ số “thông minh” của môi trường học tập, lớp học và nhà trường.
6. Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng kiến thức luật và kỹ năng nghề luật; chú trọng tới các hình thức liên kết đào tạo theo các cấp độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ và bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp, nhất là đối với các chức danh điều tra viên, công tố viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên; tăng cường hội thảo, tọa đàm quốc tế chuyên sâu, mang tính học thuật, nghề nghiệp; chú trọng công tác hợp tác quốc tế về tố tụng hình sự, tương trợ tư pháp và trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, áp dụng công nghệ hiện đại trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Muốn vậy, cần bảo đảm nguồn lực tài chính cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ, công chức để đào tạo cán bộ pháp lý đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và đề cử được cán bộ vào các cơ quan pháp lý quốc tế, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trong các tổ chức tư pháp, pháp luật quốc tế.
7. Chú trọng công tác nghiên cứu khoa học trong cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp để hình thành đội ngũ cán bộ có phương pháp nghiên cứu, học tập và làm việc khoa học, gắn khoa học với thực tiễn, nhất là tư duy làm việc biện chứng, luôn gắn lý luận với thực tiễn; chú trọng giáo dục lý luận chính trị, trang bị kiến thức lịch sử Việt Nam và thế giới, gắn với sự hình thành, phát triển quan điểm của Đảng và pháp luật Nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống; tăng cường giáo dục liêm chính để hình thành đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp giỏi, có kinh nghiệm và uy tín. Đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh về mục tiêu được Nghị quyết số 27-Nq/TW quy định: “Bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính”.
8.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát công tác đào tạo luật trong các cơ sở đào tạo và công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ này.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tư pháp trong phạm vi quản lý của cơ quan tư pháp.
Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính.
Tổng Bí thư Tô Lâm
Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc gia “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương chủ trì, phối hợp Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức ngày 15/11/2024.
TRÌNH BÀY: BIỆN DIỆU