

Đại tá Phùng Văn Khầu - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Khẩu đội trưởng sơn pháo 75mm, Đại đoàn công pháo 351 trong trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
Đại tá Phùng Văn Khầu - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Khẩu đội trưởng sơn pháo 75mm, Đại đoàn công pháo 351 trong trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
Trong những ngày ác liệt nhất của Đợt 2 chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi cùng đồng đội tham gia chiến đấu bảo vệ Đồi E. Đó là khoảng thời gian đầy gian khổ, ác liệt, hy sinh nhưng rất đỗi tự hào. 65 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về 36 ngày đêm chiến đấu trên Đồi E vẫn vẹn nguyên trong tôi.
Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân thuộc dân tộc Nùng tại xã Đức Hùng, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Cuối năm 1946, theo lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Bác Hồ, tôi trốn khỏi nhà chủ nợ, về gặp cha xin phép đi theo Việt Minh. Được sự động viên, khích lệ của cha, tôi cùng với 3 thanh niên khác trong bản rời quê hương Trùng Khánh đến thị xã Cao Bằng tìm gặp bộ đội cách mạng. Sau khi đăng tuyển nhập ngũ, tôi xin vào bộ đội Pháo binh vì nghĩ đơn giản “bộ binh có súng nhỏ bắn một phát chỉ được một thằng Pháp thôi, còn pháo binh bắn một phát nhưng diệt được nhiều thằng Pháp, đất nước sẽ mau hết giặc và sớm được giải phóng”. Tuy nhiên, lúc đó do thể hình thấp bé, nhẹ cân, sức vóc có hạn, không khiêng vác được các bộ phận của pháo, từ giữa năm 1947 đến 1950, tôi được giao nhiệm vụ nuôi quân với công việc chính là quản lý bếp ăn và tiếp phẩm. Luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tôi được tuyên dương trước toàn đại đội, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng ngày 8/4/1950.
Luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tôi được tuyên dương trước toàn đại đội, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng ngày 8/4/1950.
Ngay sau đó, tôi được trên tin tưởng giao nhiệm vụ đi học làm pháo thủ để ra mặt trận chiến đấu. Tôi rất vui mừng, phấn khởi, vì mặc dù luôn hoàn thành xuất sắc vai trò “anh nuôi”, song tôi luôn mơ ước trở thành chiến sĩ pháo binh, được trực tiếp chiến đấu giết giặc ngoài mặt trận. Chính vì vậy, những ngày đầu huấn luyện rất gian nan, vất vả, nhưng tôi luôn cố gắng vượt qua, nắm chắc kỹ năng sử dụng pháo một cách thuần thục nhất. Không biết chữ, không biết sử dụng máy ngắm, tôi chỉ còn cách dùng phương pháp “kinh điển” chưa từng có là ngắm bắn trực tiếp qua nòng pháo, dùng mắt thường để ước lượng tầm và hướng bắn. Sau nhiều lần điều chỉnh rút kinh nghiệm, cuối cùng tôi cũng quen, ngắm qua nòng pháo cũng chính xác không thua gì ngắm máy. Cứ như vậy tôi từ một “anh nuôi” trở thành một trong những pháo thủ của Binh chủng Pháo binh. Kết thúc khóa huấn luyện cấp tốc, tôi được phân công nhiệm vụ là Khẩu đội phó kiêm pháo thủ số 2 (ngắm bắn) thuộc Đại đội 755, Tiểu đoàn 275, Trung đoàn 675, Đại đoàn 351.
Khi Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra, đại đội tôi đang được phối thuộc cho Trung đoàn 9, Đại đoàn 304 đóng ở Đồn Vàng (Phú Thọ), làm lực lượng dự bị của Chiến dịch Điện Biên Phủ và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hậu phương. Cuộc chiến đấu trên chiến trường Điện Biên Phủ ngày càng bước vào giai đoạn căng thẳng và ác liệt, mỗi lần nghe tin từ chiến trường báo về, tôi cùng đồng đội luôn cảm thấy xốn xang, bứt rứt, đứng ngồi không yên, chỉ mong nhanh chóng được ra trận chiến đấu.
Kết thúc đợt 1 của Chiến dịch (từ ngày 13/3 đến ngày 17/3/1954), bộ đội ta đã tiêu diệt cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Ngày 18/3/1954, chúng tôi được lệnh hành quân gấp lên Điện Biên Phủ tham gia đợt tiến công thứ 2 của Chiến dịch. Nhận được mệnh lệnh, ai nấy cũng vui mừng hò reo, vậy là chúng tôi đã có cơ hội ra trận, sát cánh cùng đồng đội chiến đấu giải phóng quê hương. Ngày 19/3, đại đội tôi hành quân với 7 xe ô-tô, 3 khẩu sơn pháo và 90 viên đạn. Quân số của đại đội có 42 người, gồm 3 cán bộ đại đội, 3 cán bộ trung đội, 2 liên lạc, 24 pháo thủ, 10 anh nuôi, quản lý. Lúc đó, tôi được đề bạt làm Khẩu đội trưởng. Như vậy, tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ mỗi khẩu đội sơn pháo 75 mm của chúng tôi chỉ biên chế 9 người, kể cả trung đội trưởng. Số còn lại của đại đội nhận súng bộ binh ở lại làm nhiệm vụ khác. Mất gần một tuần hành quân bằng cơ giới, đại đội tôi tới gần Him Lam, cách chừng 2 cây số thì dừng lại. Đơn vị được lệnh đưa pháo xuống xe. Để bảo đảm an toàn và bí mật, ban ngày chúng tôi phải giấu pháo trong rừng, khẩu pháo được tháo rời và để trong một hầm riêng.


Quang cảnh chung khu đồi Độc lập, lá cờ quyết chiến quyết thắng, phần thưởng cao quý của Hồ Chủ Tịch đang được các chiến sĩ xung kích phất cao trên nóc hầm chỉ huy địch sau khi ta tiêu diệt hoàn toàn vị trí này ngày 14/3/1954. (Ảnh: TTXVN)
Từ ngày 25 đến ngày 27/3, Đại đội vào vị trí tập kết. Khu vực Điện Biên Phủ bắt đầu mưa, đường và giao thông hào rất trơn và lầy lội. Tám pháo thủ trong mỗi khẩu đội phải khiêng pháo với trọng lượng 500kg tháo rời ra 9 bộ phận lớn nhỏ. Theo biên chế thì 4 bộ phận lớn, mỗi bộ phận phải 4 người khiêng, 5 bộ phận còn lại mỗi bộ phận phải 2 người khiêng. Nhưng vì không đủ người nên đành phải khắc phục: bộ phận khiêng 4 người nay chỉ còn 2 người khiêng, bộ phận khiêng 2 người nay phải vác, đi dọc trong giao thông hào đầy bùn nước, dài 2,5 cây số. Thời gian này, các đồng chí đại đội trưởng, chính trị viên đại đội và trung đội trưởng đi chuẩn bị trận địa bắn. Chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ đào công sự pháo trong hai đêm 28 và 29/3.
Ngày 30/3, ngay từ buổi trưa, khẩu đội tôi cùng 2 khẩu đội trong đại đội được lệnh chiếm lĩnh trận địa ban ngày. Trận địa pháo của ta bố trí gần lô-cốt địch, đại đội trưởng và trung đội trưởng ước lượng cự ly bắn khoảng 150m. Sườn đồi bị bom đạn cày xới nên hầu như không có một vạt cây, rất dễ bị lộ. Chúng tôi phải bò và dùng dây buộc vào các bộ phận pháo để kéo lên chiếm lĩnh. Nhiệm vụ đưa pháo chiếm lĩnh trận địa được hoàn thành và địch không phát hiện được.
17 giờ ngày 30/3/1954, bộ đội ta nổ súng mở màn Đợt tiến công thứ hai của chiến dịch. Khẩu đội sơn pháo của tôi được giao nhiệm vụ tiêu diệt 4 lô cốt địch, chi viện cho bộ binh mở cửa mở và xung phong đánh chiếm đồi E, với số đạn được bắn là 30 viên, tiết kiệm thì được khen thưởng, bắn quá số đạn thì phải chịu kỷ luật. Được lệnh bắn, tôi ngắm bắn phát đầu tiên vào lỗ châu mai của lô-cốt thứ nhất. Đạn gần, không trúng mục tiêu. Tôi quan sát thấy đạn nổ còn cách lỗ châu mai khoảng 10m. Tôi đề nghị được tăng thước tầm 160m và thay đổi điểm ngắm. Tôi bắn phát thứ 2, viên đạn chui thẳng vào lỗ châu mai, khói đen cuộn lên ngùn ngụt, lô-cốt 1 bị tiêu diệt, các pháo thủ ôm chầm lấy nhau sung sướng. Được lệnh, tôi chuyển sang bắn lô cốt 2, 3, 4. Rút kinh nghiệm, sau đó 20 phát bắn đạn đều đi trúng đích, góp phần tiêu diệt sinh lực địch, chi viện đắc lực cho đơn vị bộ binh của Trung đoàn 209 hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm đồi E sau gần 1 giờ chiến đấu. Kết thúc trận đánh mở màn, Đại đội 755 hoàn thành mục tiêu diệt 4 lô-cốt, một kho đạn và hàng trăm tên địch. Khẩu đội 1 của tôi tiết kiệm được 8 viên đạn được biểu dương tập thể, cá nhân tôi vinh dự được tặng Huy hiệu Bác Hồ và Huân chương Chiến công hạng Ba.

Những ngày tiếp theo là quãng thời gian khó khăn nhất, quyết liệt và gay go nhất. Đêm mồng 2/4/1954, ba khẩu đội pháo của Đại đội 755 chúng tôi được lệnh lên đưa pháo lên Đồi E đều chuyển sang phòng ngự. Toàn đơn vị đã khẩn trương, tích cực đào đắp công sự, bố trí đội hình bảo vệ Đồi E. Quân số của đại đội lúc này chỉ có 30 người. Nhiệm vụ của sơn pháo 75mm là ngắm bắn trực tiếp diệt pháo, xe tăng và bộ binh địch tăng viện phản kích. Các khẩu đội được bố trí trong công sự có nắp, kín đáo, địch không thể phát hiện được kể cả ban ngày khi ta chưa nổ súng.
Từ ngày 5 đến 17/4, Khẩu đội 1 của tôi được lệnh hàng ngày phải thực hiện bắn thăm dò xem nơi địch bố trí hỏa lực để khi có thời cơ thì tiêu diệt. Sau 12 ngày đêm, khẩu đội tôi chỉ còn lại 4 đồng chí, 5 đồng chí khác đã bị thương vong. Các khẩu đội 2 và 3, quân số còn nguyên (9 đồng chí) vì 2 khẩu đội đó chưa được lệnh chiến đấu, vẫn giữ bí mật lực lượng.
Thời gian này, các đơn vị bộ binh, công binh ngày đêm chiến đấu, làm việc quên mình đào chiến hào và hầm chia cắt bao vây, siết chặt phạm vi đóng quân của địch; đồng thời, kiên quyết đánh lui các cuộc phản kích của chúng. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng ác liệt, một vài anh em có biểu hiện dao động, tôi có lúc tưởng chừng không sống nổi. Được sự giáo dục, động viên kịp thời của cán bộ cấp trên và đồng đội, chúng tôi kiên cường bám trụ, vượt qua khó khăn gian khổ, củng cố lực lượng và tinh thần, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, góp phần giành toàn thắng cho chiến dịch.
Thời gian này, các đơn vị bộ binh, công binh ngày đêm chiến đấu, làm việc quên mình đào chiến hào và hầm chia cắt bao vây, siết chặt phạm vi đóng quân của địch; đồng thời, kiên quyết đánh lui các cuộc phản kích của chúng.
12 giờ ngày 23/4/1954, địch mở đợt phản công quy mô lớn bằng bộ binh có xe tăng và pháo 105mm yểm trợ, hòng chiếm lại Đồi E và các điểm cao chiến thuật lân cận. Trận địa pháo của địch nằm bên cạnh sông Nậm Rốm, cách khẩu đội tôi khoảng 250m. Lúc đó, pháo địch kéo ra ngoài công sự. Sau khi chuẩn bị xong, khẩu đội 2 và khẩu đội 3 mở lỗ châu mai (miệng hầm pháo). Xe tăng địch phát hiện thấy và tập trung bắn vào hai khẩu đội. Cả hai khẩu đội 2 và 3 pháo đều bị hỏng, không chiến đấu được. Các pháo thủ của hai khẩu đội đều bị thương vong (7 đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương). Lúc này, Khẩu đội 1 của tôi chỉ còn 4 đồng chí. Chỉ huy đại đội gọi tôi lên hầm giao nhiệm vụ và thông báo cho tôi biết tổn thất của đại đội. Nghe tin này, tôi đã khóc vì căm thù bọn giặc Pháp, vì thương tiếc đồng đội và hứa với Đại đội trưởng, với Chính trị viên đại đội quyết tâm trả thù cho đồng đội, sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Tôi tự nhủ phải biến hai dòng nước mắt thành hành động cách mạng, phải giữ vững ý chí của người đảng viên cộng sản, quyết tiêu diệt bằng được 4 khẩu pháo của địch. Tôi ngắm khẩu thứ nhất của địch, bắn 3 phát, trúng cả 3 viên. Khẩu 1 của địch bị diệt gọn. Địch phát hiện được khẩu đội tôi, tập trung hỏa lực bắn sập miệng cửa hầm pháo, khiến cho khẩu đội tôi không bắn được nữa. Tôi thoát ra khỏi công sự mở lại cửa hầm pháo (lỗ châu mai), sau 10 phút, pháo ta lại có thể bắn được.


Pháo cao xạ Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Pháo cao xạ Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Tôi ngắm bắn khẩu thứ 2 của địch. Phát 1 không trúng pháo mà trúng hầm đạn nên gây cháy nổ lớn. Phát thứ 2 và thứ 3 bắn trúng, tiêu diệt khẩu pháo thứ 2. Đại liên của địch bắn như vãi đạn về phía chúng tôi. Một đồng chí trong khẩu đội tôi bị thương gãy tay. Tôi cử đồng chí Chài dìu đồng chí bị thương về phía sau chân đồi E. Tôi quay nòng pháo bắn trúng 2 khẩu đại liên của địch. Tôi giục Khẩu đội phó kiêm pháo thủ nạp đạn Lý Văn Pao chạy theo đồng chí bị thương, báo tin đại liên của địch đã bị tiêu diệt cho anh em mừng và yên tâm.
Còn một mình với khẩu pháo, tôi vẫn kiên quyết đánh địch. Thông thường, để điều khiển pháo phải có tới bảy người làm nhiệm vụ, nhưng giờ chỉ còn mình tôi. Với tình thế cấp bách, tôi tự nhủ trước mắt có khẩu pháo to như thế mà không dùng thì thật lãng phí nên đã tìm cách xoay xở. Tôi ngắm khẩu thứ 3 của địch, một mình vừa làm pháo thủ ngắm bắn, nạp đạn, vừa quan sát mục tiêu, điểm nổ để điều chỉnh và bắn liền 3 phát. Khẩu pháo thứ 3 của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Đồng chí Pao quay lại, báo tin cho tôi là đồng chí Chài bị thương gãy xương. Tôi nói với đồng chí Pao: “Ta là 2 đảng viên, phải chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Địch còn một khẩu nữa thôi...”.
Xe tăng của địch bắn nhiều phát gần trúng vào lỗ châu mai. Tôi hô Pao lui ra khỏi công sự đồng thời lấy bao tải đất bịt vào lỗ châu mai. Tôi lấp được bao thứ 5 thì địch bắn trúng 5 tải đất, sức ép của đạn pháo địch làm tôi bất tỉnh. Tôi được cán bộ đại đội và Pao cấp cứu. Một lúc sau tỉnh lại, tôi hỏi Pao và đại đội là pháo có bị hỏng không? Tự nhiên tôi khỏe lên. Nhìn xuống thấy địch đang kéo khẩu pháo thứ 4 vào trong hầm. Tôi báo cáo đại đội và lệnh đồng chí Pao vào vị trí chiến đấu. Tôi bắn 1 phát trúng ngay khẩu pháo thứ 4 của địch. Như vậy, tôi và Lý Văn Pao bắn l5 viên đạn tiêu diệt được 4 khẩu pháo 105mm; 2 khẩu đại liên của địch, tiết kiệm được l5 viên đạn.
Đại đội trưởng ra lệnh cho 2 chúng tôi: tháo pháo ra, phân tán vào hầm ếch trong giao thông hào rồi lấy tất cả bao tải đất bịt kín lỗ châu mai. Tôi và Pao đang kéo khẩu sơn pháo lui nòng vào trong công sự thì xe tăng địch bắn trúng nắp bên phải công sự. Đồng chí Pao bị cắt mất đi bàn chân trái phải đi quân y điều trị. Từ ngày 26/4 trở đi, ở trên đồi E chỉ còn có Đại đội trưởng, Chính trị viên đại đội và tôi cùng khẩu sơn pháo 75mm tiếp tục chiến đấu chi viện đắc lực cho bộ binh cho đến khi chiến dịch hoàn toàn thắng lợi.

Như vậy, sau 36 ngày đêm chiến đấu trên Đồi E, khẩu đội tôi đã chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt 4 lô cốt, 5 khẩu pháo 105mm, 6 khẩu đại liên, 1 kho đạn và nhiều sinh lực địch. Kết quả này đã góp phần vào thắng lợi trong Đợt 2 cũng như thắng lợi của toàn bộ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhờ sự dũng cảm và những thành tích trong chiến đấu, tôi được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công (2 hạng Ba, 1 hạng Hai). Ngày 31/8/1955, tôi vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tôi tiếp tục tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong quá trình đó, tôi đã trải qua nhiều trận đánh lớn như Tà Cơn, Khe Sanh, Hạ Lào, Quảng Trị, rồi đến Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968... Bản lĩnh, kinh nghiệm của người chiến sĩ Điện Biên luôn được tôi giữ gìn, phát huy, giúp tôi vượt qua mọi khó khăn, thử thách ác liệt của những năm tháng chống Mỹ. Tôi luôn tâm niệm một điều, phải sống, chiến đấu sao cho xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, của Bác Hồ kính yêu và xứng đáng với những đồng đội đã khuất. Ngoài mặt trận, đối diện với hiểm nguy, nhưng nhìn thấy đồng đội bị thương vong, nhìn vào tấm Huy hiệu Bác Hồ trên ngực, tôi vẫn luôn bình tĩnh chiến đấu. Cho dù một mình một pháo cũng đánh. Đó là niềm tin luôn trong tôi khi tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ và kháng chiến chống Mỹ. Khi mình còn sống nghĩa là còn có cơ hội tiêu diệt thêm quân thù, mang lại hòa bình, tự do cho Tổ quốc, đồng bào.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tôi tiếp tục tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong quá trình đó, tôi đã trải qua nhiều trận đánh lớn như Tà Cơn, Khe Sanh, Hạ Lào, Quảng Trị, rồi đến Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968... Bản lĩnh, kinh nghiệm của người chiến sĩ Điện Biên luôn được tôi giữ gìn, phát huy, giúp tôi vượt qua mọi khó khăn, thử thách ác liệt của những năm tháng chống Mỹ.
65 năm đã trôi qua kể từ cuộc chiến đấu ác liệt trên Đồi E trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, song những ký ức về đồng chí, đồng đội đã cùng sát cánh trong những ngày “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” vẫn vẹn nguyên trong tôi. Đó là những giây phút vào sinh ra tử, trải qua thử thách của chiến tranh, đối diện với kẻ thù, đối diện với cái chết mà không hề nao núng, khiếp sợ. Nhiều đồng đội của tôi đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường để chúng ta có cuộc sống tự do, hạnh phúc. Nay dù đã tuổi cao, sức yếu, song tinh thần của người lính Cụ Hồ, tinh thần của người chiến sĩ Điện Biên vẫn luôn cháy mãi trong tôi, nhắc nhở tôi phải tiếp tục cố gắng xứng đáng với những người đã khuất. Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, xin gửi tới đồng chí, đồng đội những lời tri ân, tưởng nhớ. Lịch sử sẽ mãi khắc ghi những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.


Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, xin gửi tới đồng chí, đồng đội những lời tri ân, tưởng nhớ. Lịch sử sẽ mãi khắc ghi những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Bài: Đại tá Phùng Văn Khầu - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Khẩu đội trưởng sơn pháo 75mm, Đại đoàn công pháo 351 trong trong Chiến dịch Điện Biên Phủ
Trình bày: Ngọc Toàn
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (07/5/1954 - 07/5/2019)”
