Tám mươi năm trước, trong không khí cách mạng sục sôi của mùa thu tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ngày 28/8/1945 thành lập Chính phủ lâm thời, đồng thời đánh dấu sự ra đời của ngành ngoại giao. Từ khởi điểm thiêng liêng đó, ngoại giao Việt Nam đã vượt bao khó khăn thử thách và không ngừng lớn mạnh, trở thành “đội quân tiên phong”, binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam, gánh vác những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Từ một quốc gia bị đô hộ, phải đứng lên chống thực dân đế quốc, nền ngoại giao Việt Nam đã ra đời và trưởng thành trong gian khó. Những ngày đầu sau thành lập, chính quyền non trẻ đã đứng trước thế "ngàn cân treo sợi tóc" - thù trong giặc ngoài, giặc đói, giặc dốt bao vây từ mọi phía. Trong hoàn cảnh ấy, ngoại giao Việt Nam dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh phi thường, vận dụng nhuần nhuyễn nguyên tắc "dĩ bất biến ứng vạn biến" - kiên định về mục tiêu độc lập dân tộc nhưng linh hoạt trong sách lược. Người từng nói: “... dùng binh giỏi nhất, là đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới là đánh bằng binh”.[1] Những quyết sách táo bạo như "hòa để tiến", "phân hóa kẻ thù" đã biến nguy thành cơ, hóa giải những tình huống hiểm nghèo cho đất nước. Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946 chính là những thành tựu ngoại giao quan trọng, giúp chính quyền cách mạng giành được thời gian quý báu để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lễ ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, diễn ra tại Hà Nội, ngày 6/3/1946. (Ảnh tư liệu)
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lễ ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, diễn ra tại Hà Nội, ngày 6/3/1946. (Ảnh tư liệu)
Bước vào thời kỳ kháng chiến, ngoại giao đã phát triển thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, sát cánh cùng mặt trận quân sự và chính trị. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ngoại giao đã tranh thủ sự ủng hộ quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với phong trào độc lập dân tộc trên toàn thế giới. Ngoại giao đã biến cuộc kháng chiến của dân tộc thành biểu tượng đấu tranh cho hòa bình và công lý, lương tri của nhân loại tiến bộ.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bên cạnh việc tranh thủ dư luận quốc tế, ngoại giao đã phát triển thêm nghệ thuật "vừa đánh vừa đàm", phối hợp khéo léo giữa hai mặt trận ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, theo phương châm "tuy hai mà một, tuy một mà hai". Những cuộc đàm phán trường kỳ kéo dài từ 1968 đến 1973 đã cho tôi luyện nên nhiều thế hệ nhà ngoại giao xuất sắc, được bạn bè quốc tế cũng như đối phương nể trọng như Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Cơ Thạch….
Thắng lợi của Hiệp định Geneva năm 1954 và Hiệp định Paris năm 1973 đã trở thành những mốc son chói lọi trong lịch sử nền ngoại giao cách mạng, góp phần dẫn tới chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975, thu giang sơn về một mối, chấm dứt hơn một thế kỷ dân tộc bị đàn áp dưới ách thực dân, đế quốc.
Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, tại phiên khai mạc Hội nghị Geneva về Đông Dương, ngày 8/5/1954. (Ảnh: TTXVN)
Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, tại phiên khai mạc Hội nghị Geneva về Đông Dương, ngày 8/5/1954. (Ảnh: TTXVN)
Ngày 20/7/1954, Thứ trưởng Quốc phòng Tạ Quang Bửu (hàng ngồi thứ hai từ trái sang) thay mặt Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chiến ở Việt Nam. Ngay sau đó, Hiệp định đình chiến ở Lào và Campuchia cũng được ký kết, tại Hội nghị Geneva (Thụy Sĩ). (Ảnh: TTXVN)
Ngày 20/7/1954, Thứ trưởng Quốc phòng Tạ Quang Bửu (hàng ngồi thứ hai từ trái sang) thay mặt Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chiến ở Việt Nam. Ngay sau đó, Hiệp định đình chiến ở Lào và Campuchia cũng được ký kết, tại Hội nghị Geneva (Thụy Sĩ). (Ảnh: TTXVN)
Quang cảnh lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973, tại Paris (Pháp). (Ảnh: TTXVN)
Quang cảnh lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973, tại Paris (Pháp). (Ảnh: TTXVN)
Quang cảnh lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973, tại Paris (Pháp).(Ảnh: TTXVN)
Quang cảnh lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973, tại Paris (Pháp).(Ảnh: TTXVN)
Sau thống nhất đất nước, ngoại giao Việt Nam phải thêm một lần đấu tranh trên những mặt trận không tiếng súng để phá thế bao vây cô lập. Ở biên giới Tây Nam, Việt Nam buộc phải thực hiện nghĩa vụ quốc tế, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot, nhưng hành động chính nghĩa này lại bị các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, thực thi chính sách bao vây, cấm vận toàn diện với Việt Nam. Đất nước lại đối mặt với muôn vàn thách thức an ninh nghiêm trọng, nền kinh tế đã bị tàn phá lại phải chịu bao vây cấm vận. Các nhà ngoại giao Việt Nam một lần nữa phải kiên cường đấu tranh bảo vệ lập trường chính nghĩa và danh dự quốc gia trên tất cả các diễn đàn quốc tế.
Từ những cuộc đấu trí tại hành lang đến những bài phát biểu đanh thép trên bục Đại hội đồng Liên hợp quốc, ngoại giao Việt Nam đã kiên quyết bác bỏ mọi luận điệu sai trái, làm sáng tỏ chính sách của Việt Nam. Sau nhiều nỗ lực, ngoại giao đã hóa giải "nút thắt" Campuchia (10/1991), bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (11/1991). Tháng 7/1995, ba sự kiện lịch sử - thiết lập quan hệ với Mỹ, ký hiệp định với EU và gia nhập ASEAN - đã đánh dấu chiến thắng hoàn toàn của Việt Nam thoát bao vây cấm vận khốc liệt kéo dài gần hai thập kỷ.
Hàng vạn người dân thủ đô Phnom Penh lưu luyến chia tay các chiến sĩ Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, lên đường về nước, ngày 3/5/1983. (Ảnh: TTXVN)
Hàng vạn người dân thủ đô Phnom Penh lưu luyến chia tay các chiến sĩ Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, lên đường về nước, ngày 3/5/1983. (Ảnh: TTXVN)
Từ ngày 5-10/11/1991, Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt sang thăm Trung Quốc theo lời mời của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và đồng chí Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, và chứng kiến Lễ ký hiệp định giữa hai nước. (Ảnh: TTXVN)
Từ ngày 5-10/11/1991, Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt sang thăm Trung Quốc theo lời mời của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và đồng chí Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, và chứng kiến Lễ ký hiệp định giữa hai nước. (Ảnh: TTXVN)
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (thứ hai, từ phải sang), Tổng Thư ký ASEAN và các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN tại cuộc họp kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ bảy của ASEAN, ngày 28/7/1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan (Brunei). (Ảnh: TTXVN)
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (thứ hai, từ phải sang), Tổng Thư ký ASEAN và các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN tại cuộc họp kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ bảy của ASEAN, ngày 28/7/1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan (Brunei). (Ảnh: TTXVN)
Ngày 5/8/1995, tại Hà Nội, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Warren Christopher ký Nghị định thư, chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ. (Ảnh: TTXVN)
Ngày 5/8/1995, tại Hà Nội, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Warren Christopher ký Nghị định thư, chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ. (Ảnh: TTXVN)
Không chỉ làm tròn sứ mệnh phá bao vây, ngoại giao đã đóng góp vào tiến trình Đổi mới, góp phần tìm hướng đi mới cho dân tộc sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh. Ngoại giao đóng góp vào Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (tháng 5/1988) với những nhận định quan trọng về xu thế đấu tranh và hợp tác đan xen, góp phần cho những tư tưởng đột phá mới, đó là sự cần thiết phải có “một nền kinh tế mạnh… cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế” để bảo vệ và phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, Đảng đã khẳng định Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, mở toang cánh cửa hợp tác với tất cả các quốc gia trên thế giới. Đồng thời, ngoại giao đã chủ động nghiên cứu, đưa ra những khuyến nghị đột phá về kinh tế, đóng góp thiết thực trong việc xây dựng nền tảng lý luận của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh phát biểu tại Kỳ họp thứ 32 Đại hội đồng Liên hợp quốc tại New York (Mỹ), ngày 20/9/1977. Kỳ họp đã thông qua Nghị quyết công nhận Việt Nam là thành viên của Liên hợp quốc. (Ảnh: TTXVN)
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh phát biểu tại Kỳ họp thứ 32 Đại hội đồng Liên hợp quốc tại New York (Mỹ), ngày 20/9/1977. Kỳ họp đã thông qua Nghị quyết công nhận Việt Nam là thành viên của Liên hợp quốc. (Ảnh: TTXVN)
Bước sang thế kỷ 21, ngoại giao luôn nỗ lực duy trì môi trường hòa bình, ổn định phục vụ phát triển thông qua đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Ngoại giao chính trị đã đưa Việt Nam đã trở thành thành viên đầy đủ của cộng đồng quốc tế, đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, mở rộng mạng lưới đối tác với 37 quốc gia, trong đó có Việt Nam là đối tác chiến lược của cả 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Ngoại giao kinh tế đã trở thành nhiệm vụ trung tâm, một động lực quan trọng để phát triển đất nước với phương châm "lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ". Việc gia nhập WTO năm 2007 sau gần 12 năm đàm phán kiên trì đã đưa Việt Nam chính thức hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã thu hút được hàng trăm tỷ USD vốn FDI, trở thành một trong Top 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, là một mắt xích quan trọng trong 17 FTA gắn kết với hơn 60 nền kinh tế quan trọng trên thế giới.
Ngày 7/11/2006, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và Tổng giám đốc Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Pascal Lamy ký Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)
Ngày 7/11/2006, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và Tổng giám đốc Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Pascal Lamy ký Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)
Ngoại giao đa phương trưởng thành mạnh mẽ, khẳng định Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Không chỉ tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn như Diễn đàn tương lai ASEAN (AFF), Hội nghị Thượng đỉnh Diễn đàn Đối tác vì tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu (P4G), Việt Nam còn hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế tại các cơ chế quốc tế như Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, UNESCO,… chủ động, tích cực đưa ra nhiều ý tưởng, sáng kiến, tham gia vào giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới, tham gia sâu vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ cứu nạn quốc tế.
Ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại đã góp phần nâng cao “sức mạnh mềm” của Việt Nam, quảng bá mạnh mẽ hình ảnh đất nước, con người, thành tựu đổi mới và bản sắc văn hóa Việt Nam ra thế giới, vun đắp tình cảm tốt đẹp của nhân dân thế giới với nhân dân, đất nước Việt Nam.
Các diễn viên Việt Nam trong trang phục truyền thống của Hàn Quốc trong Đêm giao lưu văn hóa nghệ thuật Việt Nam-Hàn Quốc năm 2023. (Ảnh: TTXVN)
Các diễn viên Việt Nam trong trang phục truyền thống của Hàn Quốc trong Đêm giao lưu văn hóa nghệ thuật Việt Nam-Hàn Quốc năm 2023. (Ảnh: TTXVN)
Ngoại giao chuyên biệt là một nét mới trong kỷ nguyên hội nhập, cho thấy ngoại giao Việt Nam đã không ngừng đổi mới và thích ứng nhằm phục vụ đất nước. Ngoại giao vaccine trong đại dịch COVID-19 không chỉ chủ động trong việc đảm bảo vaccine cho người dân mà còn tích cực chia sẻ hỗ trợ các nước bạn. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, ngoại giao khoa học công nghệ, ngoại giao xanh, ngoại giao tập đoàn đã tranh thủ nắm bắt xu thế tìm cơ hội cho đất nước "đi tắt, đón đầu", trong các lĩnh vực công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, kinh tế tuần hoàn. Ngoại giao đóng vai trò khai phá, học hỏi và trở thành kênh thu thập thông tin, đưa về cho đất nước những tri thức, thành tựu tiên tiến nhất trên thế giới.
Với tinh thần "đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể", ngoại giao ngày nay là sự gắn kết toàn diện ba trụ cột Đối ngoại Đảng, Ngoại giao Nhà nước, và Đối ngoại nhân dân. Bên cạnh các kênh chính thức, các hoạt động ngoại giao học giả, ngoại giao bán chính thức của Việt Nam ngày càng sôi động, hỗ trợ hiệu quả cho việc xây dựng lòng tin, trao đổi và thăm dò các giải pháp sáng tạo cho các vấn đề khó, vấn đề mới. Ngoại giao cũng luôn đồng hành phối hợp chặt chẽ với các ngành quốc phòng, an ninh, kinh tế văn hóa, xã hội trong mọi nhiệm vụ phục vụ lợi ích quốc gia-dân tộc.
Việt Nam đóng góp tích cực vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. (Ảnh: TTXVN)
Việt Nam đóng góp tích cực vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. (Ảnh: TTXVN)
Thế giới đang có những chuyển biến sâu sắc, mau lẹ và khó lường, vận hội lớn và nhiều thách thức đan xen. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã tích lũy đủ thế và lực để bước sang một giai đoạn chiến lược mới. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ “khởi điểm của kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng… Đích đến là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu”.[2]
Với tinh thần phụng sự, ngoại giao Việt Nam đã luôn có mặt trên tuyến đầu trong mọi thời khắc đất nước cần đến, xứng đáng với niềm tin mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã giao phó. Tiếp bước truyền thống vẻ vang của các thế hệ cha anh, ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy vai trò tiên phong, thực hiện các nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên để duy trì môi trường hòa bình, ổn định, định vị đất nước vào vị trí tối ưu trong các xu hướng và trào lưu phát triển, thu hút các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài đóng góp đắc lực vào việc thực hiện hai mục tiêu chiến lược của đất nước.
Thủ tướng Phạm Minh Chính với các đại biểu dự Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Ngoại giao lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. (Ảnh: Nhandan.vn)
Thủ tướng Phạm Minh Chính với các đại biểu dự Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Ngoại giao lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. (Ảnh: Nhandan.vn)
Nhìn lại hành trình tám thập kỷ đầy tự hào của ngoại giao Việt Nam, thật khó có thể bao quát hết những giá trị tốt đẹp nhưng lắng đọng lại có thể thấy ngời sáng ba từ khóa nổi bật: Bản lĩnh, Trí tuệ, Phụng sự. Ba từ khóa này đã định vị bản sắc của ngoại giao Việt Nam và sẽ tiếp tục là lời hứa của những thế hệ cán bộ ngoại giao ngày nay với sứ mệnh kiến tạo cục diện đối ngoại rộng mở, đưa Việt Nam "sánh vai với các cường quốc năm châu" trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Ngày xuất bản: 27/8/2025
Tổ chức thực hiện: Phạm Trường Sơn
Tác giả: Nguyễn Hùng Sơn - Từ Anh Tuấn (Học viện Ngoại giao)
Trình bày: Nhã Nam