CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ: BIỂU TƯỢNG SỨC MẠNH CỦA DÂN TỘC KẾT HỢP VỚI SỨC MẠNH CỦA THỜI ĐẠI1

Bốn mươi năm đã qua từ khi trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành được "chiến thắng vang dội địa cầu" và kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Một vùng núi heo hút, xa xôi trên miền Tây Bắc đất nước Việt Nam bỗng trở thành một địa danh lịch sử được cả thế giới chú ý và ca ngợi.

Điện Biên Phủ, cái tên đã thành huyền thoại và khi cùng gắn với hai cái tên Việt Nam và Hồ Chí Minh, đã trở nên biểu tượng của một dân tộc anh hùng.

Chưa ai làm một bản thống kê có bao nhiêu cuốn sách, bao nhiêu bài viết về Điện Biên Phủ trong bốn chục năm qua. Cho đến gần đây, vẫn còn những cuốn sách nghiên cứu về Điện Biên Phủ ra đời.Đó là cuốn sách của một vị tướng viết về một vị tướng với nhan đề Giáp, một sự đánh giá - Tác giả cuốn sách là vị tướng người Anh, Pitơ Mắc Đônan (Peter Mac Donald). Cuốn sách được xuất bản năm 1992, trong đó tất nhiên là dành một phần quan trọng để phân tích chiến thắng Điện Biên Phủ. Và cuốn sách Những sự giống nhau trong chiến tranh: Triều Tiên, Munich, Điện Biên Phủ và những quyết định về Việt Nam năm 1965 của nhà nghiên cứu sử học Triều Tiên Yuen Foong Kong xuất bản năm 1992.

Không có gì là cường điệu khi nói rằng vì chiến thắng đó tiếp nối sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, - một bước ngoặt không những của lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức đang vùng dậy trong cuộc đấu tranh giải phóng.

Chúng ta hãy ôn lại một phần lịch sử với tính biện chứng sâu sắc của nó.

Trải qua nhiều thế kỷ, trong quá trình xâm lược các nước nhỏ yếu trên thế giới nhằm xây dựng một hệ thống thuộc địa lớn vào hàng thứ hai trên thế giới sau hệ thống thuộc địa của đế quốc Anh, đế quốc Pháp rất tự hào về những "chiến công" đã giúp chúng đặt ách thống trị trên cổ nhiều dân tộc châu Á, châu Phi và Mỹ latinh.

Trong Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation française) xuất bản ở Pháp năm 1925, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ: "Đối với nhà văn thanh cao nào muốn viết lịch sử huy hoàng của công cuộc khai hoá thuộc địa, thì cuộc chiến tranh gọi là vì công lý và chính nghĩa sẽ là nguồn tài liệu vô tận. Với một cử chỉ say sưa và hùng biện, ông Anbe Xarô nói: "Chính công cuộc chinh phục thuộc địa đã đào tạo nên phần lớn những vị tướng lĩnh vĩ đại đã đưa chúng ta đến chiến thắng và đã từng được dư luận nước Pháp ca tụng chiến công và thanh danh khi họ đưa ngọn cờ của chúng ta đi khắp đất Á, trời Phi"2.

Quang cảnh chung tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ của giặc Pháp bị quân ta tiêu diệt.

Quang cảnh chung tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ của giặc Pháp bị quân ta tiêu diệt.


Quả thật như vậy. Trong một quyển sách có tính chất tổng kết quá trình xâm lược đó, cuốn Đế quốc thuộc địa Pháp xuất bản năm 1931, Thống chế Liôtây (Lyautey), một trong những người được xem như có công lớn đối với việc phát triển và củng cố hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp đã viết những dòng mở đầu với lời lẽ huênh hoang: "Lịch sử đế quốc thuộc địa của chúng ta từ 1870 cho đến ngày nay, đó là một trong những chương hùng hồn nhất của bản anh hùng ca của chúng ta"3.

Hơn hai mươi năm sau, nếu cuốn sách đó được tái bản, có lẽ phải thêm vào "những chương hùng hồn nhất của bản anh hùng ca" đó một chương thảm sầu, ai oán nhất: đó là chương thất bại của đế quốc Pháp ở Điện Biên Phủ. Công việc đó đã được thực hiện bởi Lanien, viên Thủ tướng Chính phủ thứ 19 của nước Pháp từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và đã bị đổ nhào sau trận đại bại ở Điện Biên Phủ. Nhân dịp này, Lanien đã viết: "Trong lịch sử của mỗi dân tộc đều có những sự kiện có tính chất quyết định. Những tên gắn liền với chúng, cả những ngày tháng cũng thế, chứa đựng một ý nghĩa vượt qua bản thân các sự kiện đó. Sáng sủa hay đen tối, trước mắt mọi người, những sự kiện đó đều tượng trưng cho số phận tốt hay xấu của nước nhà.

Điện Biên Phủ là một trong những tên như thế. Ngày 7-5-1954, sau 55 ngày cầm cự khiến cho thế giới phải khâm phục, cứ điểm cố thủ đã bị hạ.

Nếu như Điện Biên Phủ đánh dấu một bước ngoặt bi thảm trong lịch sử đế quốc Pháp thì nó lại là niềm tự hào chính đáng của nhân dân Việt Nam, đã ghi thêm một trang oanh liệt vào lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm kiên cường, bất khuất của dân tộc.

--PGS. Bùi Đình Thanh--

Hai tháng rưỡi sau, Hiệp định Giơnevơ được ký kết: đó là một thất bại ngoại giao thêm vào thất bại quân sự... Điện Biên Phủ, Giơnevơ. Giữa hai tên đó, giữa hai nhật ký đó, là một trong những bước ngoặt bi thảm nhất của đời sống dân tộc chúng ta"4. Nếu như Điện Biên Phủ đánh dấu một bước ngoặt bi thảm trong lịch sử đế quốc Pháp thì nó lại là niềm tự hào chính đáng của nhân dân Việt Nam, đã ghi thêm một trang oanh liệt vào lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm kiên cường, bất khuất của dân tộc.

Nhớ lại ngày 1-9-1858, những phát đạn đại bác đầu tiên từ các chiến thuyền của Rigôn đơ Giơnuli (Rigault de Genouilly) bắn vào Đà Nẵng đã mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam của đế quốc Pháp. Sức mạnh của chủ nghĩa tư bản phương Tây lúc đó đang ở vào thời kỳ phát triển, còn chế độ phong kiến Việt Nam đã đi đến bước tàn tạ, suy vong, không theo kịp sự phát triển của thời đại mới, không còn đủ năng lực tổ chức, động viên, lãnh đạo toàn dân chiến đấu có hiệu quả chống sự xâm lược của nước ngoài nên tiếng súng xâm lược ở Đà Nẵng cũng báo hiệu sự sụp đổ của chế độ phong kiến và sự thiết lập một chế độ thuộc địa tàn bạo trên đất nước Việt Nam.

Chín mươi sáu năm sau, ngày 7-5-1954, lá cờ Quyết chiến, Quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng được cắm lên nóc hầm của tướng Đờ Cátxtơri, đặt quân địch vào một tình thế phải chấp nhận đầu hàng như báo Pháp (Nước Pháp - Người quan sát) ngày 13-5-1954 viết: "Trước hết, bản kết toán về cuộc chiến đấu ở Điện Biên Phủ đã rõ ràng. Đó là một chiến thắng quyết định và hoàn toàn đối với tướng Võ Nguyên Giáp, một sự thất bại hoàn toàn đối với Nava, Biđôn, Plêven, Lanien,... Nếu người ta nói đến sự "thất thủ" của Điện Biên Phủ thì phải gọi nó bằng đúng tên của nó "đó là một sự đầu hàng".

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao cờ Quyết chiến quyết thắng của Hồ Chủ Tịch tặng các đơn vị lập công.

Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ của giặc Pháp ở Điện Biên Phủ bị quân ta phá hủy và thu được.

Tù binh Pháp ở Điện Biên Phủ đang được đưa về hậu phương.

Bộ Tham mưu của tướng Đờ Cátxtơri không chiến đấu đến người cuối cùng: họ không thể chiến đấu được nữa vì binh sĩ của họ đã bị kiệt sức. Bản danh sách tù binh khá hùng biện về mặt đó. Nó chứng minh là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến đấu, là một sự đầu hàng không hơn, không kém của một đội quân thất vọng và suy nhược. Tình hình đó hoàn toàn khác với cuộc chiến đấu ở Đà Nẵng, Gia Định những năm 1858-1859.

Trong những trận chiến đấu không cân sức, chống đội quân xâm lược, tuy thất bại, quân dân Đà Nẵng, Gia Định vẫn thể hiện tinh thần bất khuất như bài Văn tế các tướng sĩ đánh Pháp tử trận ca ngợi: "Nghe tiếng súng non Trà (bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng) nổ dữ, những muốn săn cho hết giống lợn không tha; trông khói tàu Cần Hải (cửa biển Cần Giờ, Sài Gòn) bốc cao, những muốn chém cho hết loài cá kình mới hả. Thẳng tiến để xông pha giết giặc, cái chết coi dễ như chơi. Rút lui thì để vạ về sau, với giặc quyết không chung sống".

Như vậy, sau 96 năm đã có sự đổi thay trong các vai trò lịch sử. Từ địa vị bị áp bức và thống trị, nhân dân Việt Nam đã vươn lên, trở thành những người chiến thắng, còn đế quốc Pháp đã phải chuốc lấy một sự thất bại to lớn và nhục nhã chưa từng thấy trong lịch sử các cuộc chiến tranh xâm lược do chúng gây nên.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã minh họa hết sức nổi bật một trong những đặc điểm của thế kỷ XX là quá trình sụp đổ dồn dập của hệ thống thuộc địa dưới những đòn đả kích mãnh liệt của phong trào giải phóng dân tộc.

Cao trào cách mạng và đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã diễn ra trong những điều kiện lịch sử hoàn toàn khác trước. Lúc này, không phải là thời kỳ mà chủ nghĩa đế quốc còn được mặc sức tung hoành và "dưới pháp lý của sự bá chủ toàn thế giới hầu như buộc đám đông vô vàn các dân tộc không phải màu da trắng bất lực và nhẫn nhục phải chịu khuất phục một cách vĩnh viễn"5.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, những lực lượng phản động trong nước câu kết với quân thù đế quốc bên ngoài mưu toan thủ tiêu Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở vùng Đông Nam Á đang còn trong thời kỳ trứng nước, nhằm khôi phục chế độ thống trị của chúng.

Vấn đề đặt ra trước mắt nhân dân Việt Nam lúc đó là: tiếp tục làm cách mạng đến cùng, kiên quyết đấu tranh triệt để chống chủ nghĩa đế quốc hay nửa chừng dừng bước? Nói một cách khác, trước sức ép của chủ nghĩa đế quốc, lực lượng cách mạng Việt Nam phải áp dụng chiến lược tiến công hay chiến lược thế thủ?

Không chút do dự, Đảng ta đã vận dụng chiến lược tiến công các thế lực phản động trong nước và ngoài nước một cách rất linh hoạt và sáng tạo.

Đảng ta đã nắm vững bản chất của chủ nghĩa đế quốc không bao giờ thay đổi và vạch rõ rằng, bọn đế quốc chỉ chịu lùi bước khi nào chúng bị tiến công liên tục và thất bại dồn dập. Chúng chỉ chịu từ bỏ ý định độc ác xâm lược và nô dịch nhân dân ta khi bị giáng những đòn chí mạng.

Các vị trí của địch trên đồi Him Lam bị trúng đạn pháo của ta đang bốc cháy, các vị trí trên đồi này đã bị tiêu diệt ngay trong ngày 13/3, ngày mở đầu chiến dịch.

Các vị trí của địch trên đồi Him Lam bị trúng đạn pháo của ta đang bốc cháy, các vị trí trên đồi này đã bị tiêu diệt ngay trong ngày 13/3, ngày mở đầu chiến dịch.


Kinh nghiệm lịch sử cách mạng Việt Nam và của Đảng ta đã chỉ rõ là không được có ảo tưởng mong chờ "thiện ý" của bè lũ đế quốc, hy vọng chúng "biết điều" ban cho nhân dân ta tự do và độc lập. Thực tế của cuộc kháng chiến Việt Nam đã chỉ ra hết sức rõ ràng chính do thực hiện chiến lược không ngừng tiến công toàn diện vào đế quốc Pháp mà nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được thành quả của Cách mạng Tháng Tám, giải phóng được một nửa đất nước và bồi dưỡng được lực lượng của bản thân để tiếp tục đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên. Không có chiến lược tiến công đó thì cũng không có được chiến thắng Điện Biên Phủ, và vì có Điện Biên Phủ nên quân thù mới phải chịu ngồi đàm phán với ta ở Giơnevơ và buộc phải rút lui khỏi một nửa đất nước Việt Nam.

Do đó, có thể nói rằng Điện Biên Phủ là kết quả hợp với quy luật phát triển lịch sử của một dân tộc không sợ hy sinh, dũng cảm chiến đấu để giành lấy những quyền cơ bản của con người là độc lập, tự do, hạnh phúc.

Một điều quan trọng khác là ý nghĩa bài học của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đối với việc vận dụng đường lối đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc của các dân tộc bị áp bức.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chính phủ ta đã từng ngồi đàm phán với Pháp ở Hà Nội, ở Đà Lạt, ở Phôngtennơblô. Đảng và Chính phủ ta cũng đã nhiều lần tỏ rõ ý chí của nhân dân Việt Nam mong muốn giải quyết vấn đề Việt-Pháp một cách hòa bình nhưng đều không có kết quả, đế quốc Pháp vẫn không ngừng lấn tới. Trước sự lấn tới đó của quân thù, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã trả lời lại bằng cách cầm lấy vũ khí tiến hành một cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài, gian khổ để hoàn thành sự nghiệp cách mạng.

Đảng ta đã đề ra đường lối đấu tranh vũ trang đúng đắn và nhân dân ta đã hành động theo đường lối đó.

Khởi đầu cuộc chiến đấu, sự so sánh lực lượng giữa ta và địch rõ ràng là chưa có lợi cho ta. Tướng lĩnh của đội quân xâm lược Pháp đã từng khoác lác là sẽ tiêu diệt các lực lượng vũ trang của nhân dân Việt Nam trong vòng một tháng.

Nhưng, mặc cho bọn tướng lĩnh của xâm lược Pháp huênh hoang, mặc cho những kẻ hoài nghi khiếp sợ trước vũ khí của đế quốc, quân đội và nhân dân ta tràn đầy tinh thần chiến đấu cách mạng, vẫn vững bước tiến lên theo đường lối đấu tranh vũ trang của Đảng.

Chính đường lối đấu tranh vũ trang đúng đắn, thành phần chủ yếu trong đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tinh thần chiến đấu cách mạng của nhân dân là nhân tố quyết định đã tạo ra Điện Biên Phủ.

Toàn bộ Bộ chỉ huy địch ở Điện Biên Phủ đi đầu là tên tướng Đờ Cátxtơri ra hàng.

Toàn bộ Bộ chỉ huy địch ở Điện Biên Phủ đi đầu là tên tướng Đờ Cátxtơri ra hàng.

Sự nghiệp của những người anh hùng đã lập nên ở Điện Biên Phủ nói lên một sự thật: mặc dù có vũ khí hiện đại, chủ nghĩa đế quốc vẫn có thể bị đánh bại. Sự tập trung những lực lượng tinh nhuệ của đội quân xâm lược Pháp được trang bị những vũ khí tối tân nhất, sự tăng cường viện trợ đến mức cao nhất của bọn can thiệp Mỹ cuối cùng vẫn không cứu vãn được sự sụp đổ của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ nói riêng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung đã chứng minh lời tiên đoán của Lênin: "Mặc dù họ còn yếu, mặc dù bọn người châu Âu đi áp bức có vẻ bất khả chiến thắng khi chúng đem dùng vào cuộc đấu tranh mọi cái kỳ diệu về kỹ thuật và nghệ thuật quân sự, nhưng cuộc chiến tranh cách mạng do các dân tộc bị áp bức đang tiến hành, nếu thật sự thức tỉnh được hàng triệu người lao động và bị bóc lột, thì cuộc chiến tranh đó sẽ đưa lại nhiều khả năng, nhiều cái kỳ lạ đến mức là sự giải phóng các dân tộc phương Đông ngày nay hoàn toàn có thể thực hiện được trong thực tiễn"6.

Với chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân Việt Nam đã góp một phần cống hiến quan trọng vào sự nghiệp chung của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, đã đánh lùi một bước và đánh đổ một bộ phận của chủ nghĩa đế quốc xâm lược, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức phát triển lên một giai đoạn mới cao hơn.

Chỉ không đầy 6 tháng sau khi bị thất bại ở Việt Nam, đế quốc Pháp đã phải đương đầu với sự vùng dậy không có gì kìm hãm nổi của nhân dân Angiêri. Ngày 1-11-1954, ngọn lửa chiến thắng Điện Biên Phủ đã vượt qua các đại lục và đại dương đến núi rừng Ôrét (Aurès) nhóm lên cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân Angiêri.

Cùng chung cảnh ngộ bị thực dân Pháp thống trị trong 124 năm, nhân dân Angiêri đánh giá cao ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ.

"Với chiến thắng Điện Biên Phủ, những người anh em Việt Nam đã trả thù cho những liệt sĩ của chúng tôi. Thất bại của thực dân Pháp cổ vũ mạnh mẽ nhân dân Angiêri. Người Angiêri bước lên con đường mà những người anh em Việt Nam đã vạch ra. Lửa cách mạng bùng cháy rất nhanh khắp Angiêri. Chiến thắng của nhân dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ bảo đảm chắc chắn cho sự chiến thắng thực dân Pháp của nhân dân Angiêri.

Không thể nào đánh giá được đầy đủ những ảnh hưởng của Điện Biên Phủ. Thật vậy, Điện Biên Phủ đã giúp cho các dân tộc thuộc địa hãnh diện ngẩng cao đầu. Điện Biên Phủ là một trong những nền tảng vững chắc của Hội nghị Băngđung" (trích bài phát biểu của Bí thư quốc vụ, Thiếu tá Tư lệnh Ôma Uxêđích (Omar Oussedich), Trưởng phái đoàn quân sự nước Cộng hòa Angiêri sang thăm Việt Nam).

Ngọn lửa Điện Biên Phủ còn vượt cả Thái Bình Dương đến tận cửa ngõ đế quốc Mỹ, và từ núi rừng Xiêra Maextơra (Sierra Maestra) của đất nước Cuba anh hùng đã xuất hiện một cuộc đấu tranh võ trang thắng lợi làm đảo lộn tình hình ở vùng biển Caribê và đưa Mỹ latinh từ trước vẫn được xem như hậu phương an toàn của đế quốc Mỹ vào một tình thế sục sôi cách mạng.

Thứ trưởng Ngoại giao Cuba Hécto Rôđơrighết Lompác trong chuyến thăm Việt Nam năm 1961 đánh giá: "Lịch sử của nhân dân Việt Nam, trải qua hơn 1.000 năm đấu tranh quyết liệt chống sự bất công của những chế độ xã hội khác nhau, chống ách thống trị nước ngoài đã rèn luyện nên tinh thần bất khuất của nhân dân Việt Nam, nêu gương cho nhân dân các nước đấu tranh giành tự do và giành quyền tự do quyết định vận mệnh của mình.
Tiêu biểu cho tinh thần đó là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.

Trong lúc mặt trận Điện Biên Phủ diễn biến một cách ác liệt trên đất nước các bạn thì nhà lãnh đạo cách mạng của nước Cuba chúng tôi cùng với vài trăm người yêu nước đã đoàn kết được chung quanh mình toàn thể nhân dân Cuba để chiến đấu chống lại những lực lượng hiếu chiến phản động đang bị các bạn đánh bại".

Với chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân Việt Nam đã góp một phần cống hiến quan trọng vào sự nghiệp chung của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, đã đánh lùi một bước và đánh đổ một bộ phận của chủ nghĩa đế quốc xâm lược, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức phát triển lên một giai đoạn mới cao hơn.

Thắng lợi của nhân dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ rõ ràng là một cống hiến to lớn vào phong trào giải phóng dân tộc, góp phần vào việc Liên hợp quốc ra Nghị quyết về phi thực dân hóa trên toàn thế giới năm 1960.

Thắng lợi đó cũng làm cho đế quốc Mỹ lo sợ qua nhận định của Tổng thống Kennơđi: "Qua nghiên cứu, chúng ta thấy rằng cách mạng giải phóng dân tộc là một sự kiện cơ bản của thời đại chúng ta. Sức mạnh to lớn nhất trên thế giới, đó là lòng khao khát vươn lên độc lập dân tộc. Ngày nay cuộc chiến đấu không phải diễn ra ở châu Âu, mà là ở châu Á, châu Phi và Mỹ latinh"7.

Trong phong trào đó, như tài liệu mật Lầu Năm Góc đã vạch rõ: "Việt Nam là nơi duy nhất trên thế giới mà chính quyền Kennơđi phải đương đầu với một cố gắng phát triển rất tốt của cộng sản nhằm đánh đổ một chính phủ thân phương Tây. Đây là một thách thức không thể bỏ qua". Kennơđi còn nói rằng: "Aixenhao đã phải chịu những hậu quả chính trị của Điện Biên Phủ và sự tống cổ những người phương Tây khỏi Việt Nam năm 1954. Ngày nay, tôi không thể cho phép (?) có một thất bại như năm 1954 nữa"8.

Với những quan điểm nói trên, Kennơđi và tiếp theo là Giônxơn, Níchxơn, Pho, lao vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đã sử dụng tất cả binh khí, kỹ thuật quân sự hiện đại nhất, trừ vũ khí nguyên tử, đã xuất tất cả các tướng lĩnh tài giỏi nhất, các nhà chính khách, ngoại giao cừ khôi nhất, đã huy động vào cuộc chiến tranh 3 triệu lượt lính Mỹ, năm triệu công nhân Mỹ làm việc trong 22.000 xí nghiệp phục vụ chiến tranh, 260 trường đại học và viện nghiên cứu cộng tác với những chương trình phục vụ chiến tranh, tổn phí chiến tranh lên đến gần 900 tỷ đôla theo sự tính toán của giáo sư kinh tế Mỹ Rôbớt Oaren Stiven (Robert Warren Stevens) trong tác phẩm Hy vọng hão huyền, thực tế phủ phàng. Những hậu quả kinh tế của chiến tranh Việt Nam.
Nhưng sức mạnh kinh tế - quân sự - kỹ thuật đó đã không giúp Mỹ thực hiện được những mục tiêu mong muốn. Trái lại, càng làm cho Mỹ ngày càng "lún sâu trong vũng lầy" như đầu đề cuốn sách của Đavít Hanbenxtam đã được tặng giải thưởng Pulítgiơ năm 1964, và cuối cùng không tránh khỏi thất bại.

Ngay từ đầu năm 1964, khi Mỹ còn đang tiến hành "chiến tranh đặc biệt", một nhà báo Mỹ, Giêm Arônxơn đã viết trên tờ Người bảo vệ dân tộc: "Ngày nay, Oasinhtơn đang ở ngưỡng cửa của một Điện Biên Phủ mới".


Cuối năm 1967, rơi vào cái bẫy Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh, cho rằng đó là hướng tiến công chính của ta, Giônxơn và các tướng lĩnh Mỹ quyết tâm bảo vệ Khe Sanh bằng mọi giá, vì cái bóng ảm đạm của Điện Biên Phủ đối với quân đội Pháp luôn luôn ám ảnh tâm trí họ. Cuối cùng, dù có tránh được một Điện Biên Phủ ở Khe Sanh, Mỹ bị thất bại nặng nề trước đòn Tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968) và đã phải chịu thua một trận "Điện Biên Phủ trên không" - sau khi bị quân và dân ta đập tan cuộc tập kích không quân chiến lược, hạ bệ uy lực thần tượng của B52 qua 12 ngày đêm chiến đấu tháng 12-1972.

Đánh giá chiến thắng đó, nhà nghiên cứu Nây Shihan (Neil Sheehan) trong lời tựa viết cho công trình của nhóm nghiên cứu về chiến tranh không quân tại Trường đại học Coócnen nhận định "Thắng lợi của người Việt Nam là một thí dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người đối với máy móc".

Phút nghỉ ngơi giữa hai trận đánh.

Phút nghỉ ngơi giữa hai trận đánh.

Với bản chất của chủ nghĩa đế quốc, giữa Pháp và Mỹ đã có những nét tương đồng trong việc tìm nguyên nhân thất bại và những bài học từ thất bại đó. Sau khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ và cho đến tận nay, các nhà quân sự, chính trị của các nước đế quốc vẫn không ngừng đi tìm nguyên nhân thất bại của nó. Tướng Cônhi, chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Bộ đổ lỗi cho tướng Nava. Về phần tướng Nava, sau cuốn Đông Dương hấp hối xuất bản năm 1956, đến năm 1979 hai mươi lăm năm sau khi Điện Biên Phủ đi vào lịch sử, Nhà xuất bản Plông, Pari lại cho ra mắt người đọc cuốn hồi ký của Nava với đầu đề Thời điểm của những sự thật. Trong hồi ký đó, Nava lược lại tất cả các công trình đã nghiên cứu về Điện Biên Phủ, chủ yếu thanh minh rằng sự chỉ đạo của Chính phủ Lanien đã không tạo điều kiện cho ông ta thực hiện các chủ trương chiến lược đó.

Còn Lanien, trong cuốn Tấn thảm kịch Đông Dương (Nxb. Plông, Pari, 1957) thì lại đổ tội cho Nava là chỉ huy tồi.

Về phần Mỹ, tiêu biểu cho sự đánh giá thất bại của Mỹ ở Việt Nam là luận điểm của nguyên Tổng thống R. Níchxơn.

Trong tác phẩm Hòa bình thật sự - Không có những Việt Nam khác nữa, xuất bản lần đầu năm 1983, tái bản năm 1990, Níchxơn đã phủ nhận và xuyên tạc trắng trợn sự thật lịch sử. Ông ta cố chứng minh rằng sự can thiệp trực tiếp và mở rộng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cần thiết và đúng đắn. Sở dĩ Mỹ không đạt được những mục tiêu của mình chính là vì Quốc hội Mỹ đã không cho phép sử dụng đến mức tối đa lực lượng quân sự. Thậm chí, trong lời tựa lần tái bản cuốn sách năm 1990, Níchxơn nói rằng mình đã sai lầm, đặt tên cuổn sách như trên có thể gây hiểu lầm. Không được hiểu "Không có những Việt Nam khác nữa nghĩa là thôi không có những cuộc thử nghiệm khác nữa: mà phải hiểu rằng đó là chúng ta sẽ không thất bại nữa" và nếu phải đặt tên lại cho cuốn sách, tôi sẽ đặt là Sự nghiệp cao cả?

Những nhận xét, đánh giá kiểu trên đây không có gì làm chúng ta ngạc nhiên, vì bản chất chủ nghĩa đế quốc, dù là thực dân cũ hay thực dân mới, dù là Pháp hay Mỹ, không bao giờ thay đổi.

Lòng yêu nước nồng nàn, sự thống nhất về tinh thần và chính trị của nhân dân và quân đội xung quanh Đảng và Chính phủ đã giúp chúng tôi vượt qua những thử thách khó khăn không tưởng tượng được và tạo những điều kiện về chính trị, kinh tế và quân sự để chiến thắng.

--Chủ tịch Hồ Chí Minh--


Về phía ta, nguyên nhân thắng lợi của Điện Biên Phủ đã được nghiên cứu khá sâu sắc. Trong dịp ký niệm lần thứ 10 Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2-9-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:

"Lòng yêu nước nồng nàn, sự thống nhất về tinh thần và chính trị của nhân dân và quân đội xung quanh Đảng và Chính phủ đã giúp chúng tôi vượt qua những thử thách khó khăn không tưởng tượng được và tạo những điều kiện về chính trị, kinh tế và quân sự để chiến thắng.

Lòng tin tưởng không gì lay chuyển nổi vào thắng lợi của sự nghiệp chính nghĩa của mình đã cổ vũ nhân dân chúng tôi và đã kích thích tinh thần dũng cảm của họ. Những đức tính về đạo đức và tinh thần chiến đấu mà các binh sĩ, các chiến sĩ du kích và các cán bộ của chúng tôi đã học tập được trong lịch sử đặc biệt phong phú của phong trào giải phóng dân tộc, đã giúp quân đội trẻ tuổi của chúng tôi lập được những chiến công lịch sử, tô lên ngọn cờ của mình một niềm vinh quang bất diệt.

Gương sáng của các chiến sĩ và các dân tộc Liên Xô và Trung Quốc đã không ngừng cổ vũ nhân dân, binh sĩ của chúng tôi và góp phần rèn luyện những anh hùng của chúng tôi.

Nhân dân Pháp và tất cả các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới đã có sự ủng hộ rất quý báu đối với chúng tôi. Họ đứng về phía chúng tôi trong những lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến và chia sẻ nỗi vui mừng với chúng tôi khi hoà bình được lập lại.

Nước cộng hòa dân chủ đã giành được một thắng lợi tất nhiên vì đó là thắng lợi của những người bị áp bức đối với kẻ áp bức, thắng lợi của tự do đối với nô lệ"9.

Dân tộc Việt Nam đã đi đúng trào lưu tiến bộ của thời đại, góp phần khai phá thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, một sức mạnh lớn của thời đại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghiên cứu kế hoạch tác chiến và mở chiến dịch Điện Biên Phủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghiên cứu kế hoạch tác chiến và mở chiến dịch Điện Biên Phủ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ, đó là biểu tượng sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại.

Chân lý đó đã được nhiều nhà nghiên cứu có thái độ khách quan, khoa học trên thế giới thừa nhận, tiêu biểu là sự đánh giá của Đavít Hanbextam trong công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh:

"Với chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chiến thắng người Pháp và cuộc cách mạng của Người đã thành công. Khi nhảy vào Đông Dương, những giấc mộng của người Mỹ khác với người Pháp, nhưng họ vẫn giẫm theo những bước chân của người Pháp.

Còn đối với Cụ Hồ Chí Minh, ít có sự nghi ngờ rằng cuộc chiến tranh thứ hai cũng sẽ giành được thắng lợi - Cuộc đời của Người là một thắng lợi kỳ diệu và là một sự chứng minh cho chính nghĩa. Người là người yêu nước lớn nhất của dân tộc mình trong thế kỷ này. Nhưng ảnh hưởng của Người còn lớn hơn thế.

Ở châu Âu, chiến thắng của Người đã dạy cho nước Pháp rằng thời đại thực dân Pháp đã kết thúc.

Và ở nước Mỹ, ảnh hưởng đó còn lớn hơn thế,...

Trong cuộc đời của mình, Cụ Hồ Chí Minh chẳng những đã giải phóng đất nước mình và làm thay đổi cả chế độ thuộc địa ở châu Phi và châu Á, mà còn thực hiện một điều đáng quan tâm hơn: Người đã tác động đến cả văn hóa, tâm hồn kẻ thù của mình"10.

Item 1 of 3

Chiếc xe tăng của địch yểm trợ cho khu trung tâm bị quân ta tiêu diệt, toàn bộ bọn lính trên xe đã xin hàng.

Chiếc xe tăng của địch yểm trợ cho khu trung tâm bị quân ta tiêu diệt, toàn bộ bọn lính trên xe đã xin hàng.

Ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm tên bại tướng thực dân pháp Đờ-cát.

Ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm tên bại tướng thực dân pháp Đờ-cát.

Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến.

Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến.

Bốn mươi năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta đang ở trong một thời kỳ mới của lịch sử: Đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới.

Trước mắt nhân dân ta xuất hiện những thời cơ mới và thách thức mới. Để nắm bắt được những thời cơ đó và đủ sức vượt qua những thử thách đó, tinh thần và truyền thống của Điện Biên Phủ vẫn mang ý nghĩa rất hiện thực.

Hơn bao giờ hết, sức mạnh của dân tộc phải được phát huy đến mức cao nhất. Với đường lối "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước", Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng sự mở rộng hợp tác quốc tế, coi trọng yếu tố sức mạnh của thời đại vì sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, phát triển và tiến bộ xã hội. Với tinh thần đó, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang đưa hết tâm trí, tài năng hướng vào mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người hạnh phúc.

Chắc chắn là nhiệm vụ lịch sử cao cả đó sẽ được hoàn thành thắng lợi.
___________________________________________________
1. Chiến thắng Điện Biên Phủ - Sức mạnh dân tộc và tầm vóc thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 55.
3. Pierre Lyautey: L' empire colonial français (Đế quốc thuộc địa Pháp) Editions de France, Paris, 1931, p.3.
4. J.Laniel: Le drame Indochinois (Tấn thảm kịch Đông Dương), Nxb. Plon, Paris, 1957, p.1.
5. A.Xarô: Vinh và nhục thuộc địa, Nxb. Xagite, Pari, 1931, tr.59.
6. V.I.Lênin: Tuyển tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, tr.592.
7, 8. A.Schlesinger Jr.: Les mille jours de Kennedy à la Maison Blanche (Một nghìn ngày của Kennơđi ở nhà Trắng), Nxb. De Noel, Paris, 1966, p. 384, 311.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 55-56.
10. Đavít Hanbextam: Hồ (xuất bản lần thứ hai), Nxb. Anphơrết Knốp, Niu Oóc, 1987, tr. 118.


--------------------

Nội dung: PGS. Bùi Đình Thanh, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Sách Điện Biên Phủ, hợp tuyển công trình khoa học, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2005
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN
Trình bày: Ngọc Bích