Cuộc đời bà Xuân Phượng gắn liền nhiều lát cắt sống động của lịch sử hiện đại Việt Nam, từ chứng kiến lễ thoái vị của vua Bảo Đại đến thời khắc chính quyền Sài Gòn sụp đổ trưa 30/4/1975 tại Dinh Độc Lập. Bà từng là bác sĩ, phóng viên chiến trường, nhà làm phim và sau này là biểu tượng cho ý chí vươn lên trong thời bao cấp, Đổi mới. Được Pháp trao Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh, BBC vinh danh trong Top 100 phụ nữ truyền cảm hứng toàn cầu 2024, bà còn gây tiếng vang với hồi ký “Gánh gánh gồng gồng”. Nhân 80 năm Quốc khánh 2/9, hiếm có cuộc trò chuyện nào ý nghĩa hơn với một người phụ nữ đã đi qua gần trọn thế kỷ cùng thăng trầm đất nước này.
Vì sao bà lại từ bỏ cuộc sống giàu sang, kín cổng cao tường, trốn nhà đi kháng chiến, để rồi trở thành nhân chứng sống của bao biến cố lịch sử?
Thuở nhỏ, tôi là tiểu thư tóc uốn lọn mềm mại, váy áo may đo khéo léo, sống trong gia đình hoàng tộc khá giả, nghiêm khắc, “êm đềm trướng rủ màn che”, muốn ra khỏi nhà phải xin phép ông bà, cha mẹ. Năm 16 tuổi khi đang học ở Trường Quốc học Huế, tôi được truyền cảm hứng từ phong trào sôi nổi của thanh niên thời bấy giờ do Mặt trận Việt Minh tổ chức để giành độc lập, lớp lớp thanh niên xuống đường đấu tranh. Tôi quyết định trốn gia đình theo cách mạng, hành trang chỉ vỏn vẹn đôi sandal, một bộ quần áo. Tôi đã tự hứa với mình, đã đi là đi đến cùng.
Sau một năm ở đoàn tuyên truyền, tôi chuyển sang quân y vụ. Năm 1947 nhờ biết tiếng Pháp, tôi là phụ nữ duy nhất được Bộ Quốc phòng tuyển vào Nha Nghiên cứu Kỹ thuật Bộ Quốc phòng. Tôi phụ trách tổ sản xuất fulminat - loại thuốc làm kíp nổ. Hai gram là đủ lấy mạng một người, mà tôi làm tới cả ký lô. Những năm sau đó, tôi lăn lộn ở chiến khu Việt Bắc, làm đủ việc: Nghiên cứu đường bay đạn đại bác, làm báo, rồi học lớp y sĩ cao cấp. Năm 1954, tôi trở về Hà Nội, hòa bình rồi đến thời bao cấp, nuôi ba đứa con trong cảnh thiếu thốn cũng chẳng kém gì thời chiến khu.
Năm 16 tuổi khi đang học ở Trường Quốc học Huế, tôi được truyền cảm hứng từ phong trào sôi nổi của thanh niên thời bấy giờ do Mặt trận Việt Minh tổ chức để giành độc lập, lớp lớp thanh niên xuống đường đấu tranh. Tôi quyết định trốn gia đình theo cách mạng, hành trang chỉ vỏn vẹn đôi sandal, một bộ quần áo. Tôi đã tự hứa với mình, đã đi là đi đến cùng.
Một bước ngoặt lớn nữa đến khi tôi đang phụ trách Phòng khám bệnh của Ủy ban Liên lạc Văn hóa với Nước ngoài, chăm sóc sức khỏe cho lãnh đạo cấp cao và các đoàn khách quốc tế. Tôi từng khám bệnh cho Chủ tịch Cuba Fidel Castro, anh hùng vũ trụ Titov - những con người đã trở thành huyền thoại.
Năm 1967, tôi được Bác Hồ gọi lên để nhận nhiệm vụ quan trọng: Bảo vệ vợ chồng đạo diễn phim tài liệu nổi tiếng Joris Ivens đến nơi ác liệt nhất của chiến tranh. Bác Hồ nói với chúng tôi: Đạo diễn Ivens là bạn của Bác, là một chiến sĩ điện ảnh cách mạng quốc tế uy tín trên thế giới. Những thước phim của Ivens có giá trị to lớn đối với quốc tế khi nói về cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Bác nói vậy để thấy tầm quan trọng của mặt trận văn hóa.
Tôi tham gia với vai trò phiên dịch tiếng Pháp và bác sĩ. Nhận chỉ thị: Đây là chuyến đi sinh tử. Tôi từ biệt ba đứa con lên đường. Chúng tôi vào tuyến lửa Vĩnh Linh - Quảng Trị. Càng đi sâu càng ác liệt. Xe trúng bom. Đoàn làm phim bị đất vùi.
Tôi được biết để có bộ phim chân thực “Vĩ tuyến 17 - Chiến tranh nhân dân”, đoàn làm phim đã trả giá bằng máu. Điều gì đã xảy ra với đoàn làm phim khi tác nghiệp ở ngay tuyến lửa - nơi bom đạn và cái chết luôn rình rập?
Chúng tôi sống dưới địa đạo. Càng xuống sâu, bóng tối càng đặc, hơi nóng hầm hập đến mức không thể mặc nổi quần áo. Một tối, chàng quay phim trẻ trong đoàn xin ra ngoài hẹn hò cô gái Vĩnh Linh. Họ đã “tình trong như đã”, nhưng vẫn chưa dám trao nhau một nụ hôn. Cô gái nói: Chiến tranh chưa biết ngày mai, lỡ có chuyện gì lại khổ nhau. Hôm sau, bom trút xuống. Cô chết. Đôi môi còn tươi chưa kịp trao nụ hôn đầu.
Một đêm khác, trong địa đạo, tôi nghe tiếng người đàn ông gào gọi bác sĩ. Tôi lần theo hầm tối, đến nơi thì vợ anh đang trở dạ. Không ánh sáng, không dụng cụ, tôi hướng dẫn chị “vượt cạn”. Rồi từ sâu trong lòng đất vọng lên hai tiếng khóc - tiếng trẻ con chào đời và tiếng người cha òa lên vì mừng rỡ. Khi tôi về, đạo diễn Ivens vẫn ngồi chờ. Một người đi theo tôi mở băng ghi âm toàn bộ ca đỡ đẻ. Chúng tôi lặng nghe. Ai cũng khóc. Ivens nói: “Phượng thấy không, giữa cái chết bủa vây, vẫn luôn có sự sống nảy mầm. Đó là lý do vì sao tôi luôn muốn làm phim chiến trường”.
Đạo diễn Ivens muốn quay cảnh lá cờ đỏ sao vàng bay trên cột cờ bờ Bắc, khi mặt trời lên sẽ phủ bóng xuống bờ Nam - biểu tượng của thống nhất. Cột cờ cao 30m, giữa vùng bom đạn, đối phương luôn rình rập. Chúng tôi phải tính từng bước.
Sáng hôm ấy, khi quay phim Nguyễn Quang Tuấn bắt đầu trèo, một quả bom nổ ngay dưới chân. Tôi và ông Ivens bị đất vùi. Khi được kéo lên, ông hỏi ngay: “Tuấn đâu rồi?”. Ngước nhìn, thấy anh vẫn đang leo, bất chấp hiểm nguy. Đến đỉnh, gió bỗng lặng. Cả đoàn nín thở. Rồi gió nổi lên, lá cờ tung bay, bóng trùm xuống bờ Nam. Cảnh quay chỉ 50 giây nhưng chúng tôi sẵn sàng đổi bằng sinh mạng. Về Hà Nội, xem lại đoạn phim, chúng tôi bật khóc. Bộ phim “Vĩ tuyến 17 - Chiến tranh nhân dân” sau đó gây tiếng vang lớn, công chiếu khắp nước Mỹ.
Một điều kỳ lạ đã diễn ra trong tôi: Trước đây khi khoác áo blouse trắng, ngồi ở khách sạn Thống Nhất, tôi tự hào vì ít ai được như mình, nhưng sau chuyến đi Vĩnh Linh, tôi có cảm giác tội lỗi khi ngoài kia có bao người đang chịu khổ vì chiến tranh, tại sao tôi ngồi trong không gian tĩnh lặng này?
Trước lúc chia tay, đạo diễn Ivens nói: “Phượng có tố chất làm phim. Đất nước không chỉ cần bác sĩ hay phiên dịch. Lúc này, cần người ghi lại cuộc chiến, để thế giới biết”. Tôi suy nghĩ rồi đến gặp ông Vụ trưởng xin chuyển ngành. Ông tròn mắt: “Cô điên à? Đang được quy hoạch Thứ trưởng Bộ Y tế! Chuyển ngành, lương bằng lao công quét đường!”.
Nhưng tôi - một người mẹ ba con - đã chọn ra chiến trường, nơi 70% phóng viên có thể không trở về. May mắn thay, chồng tôi và các con không ngăn tôi lại. Thế là bước vào một cuộc đời khác, đời sống của bom đạn, máy quay và những phóng sự viết bằng máu.
Năm 1975, tôi theo chân đoàn quân tiến vào Sài Gòn, trở thành một trong những phóng viên đầu tiên chứng kiến chính quyền Sài Gòn Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Tôi được biết bà lại có một cuộc đời khác - cuộc đời thứ hai sau khi nghỉ hưu - thời điểm mà đối với nhiều người, sự nghiệp sẽ kết thúc. Nhưng bà đã chọn bắt đầu một hành trình mới đi xuyên qua thời bao cấp gian khó để có những thành công ngoài sức tưởng tượng của nhiều người?
Năm 1988, tôi nghỉ hưu với đồng lương còm cõi. Vì có thâm niên cách mạng, khu phố ưu tiên cho tôi chân giữ xe đạp ở Nhà hát Lớn Hà Nội. Nhưng tôi không chọn cách ngồi đó, mà đi tiếp. Năm 1989, tôi sang Pháp với 200 USD trong túi.
Bạn bè - những phóng viên từng cùng tôi đi làm phim - đón như thượng khách. Nhưng họ chỉ nhắc đến Việt Nam như một đất nước nghèo đói, hoang tàn sau chiến tranh. Tôi chạnh lòng: Việt Nam có bề dày văn hóa đến thế, sao không ai nói đến?
Tôi quyết định mở một phòng tranh để giới thiệu văn hóa Việt Nam ra thế giới. Năm 1991, tôi “liều” tổ chức triển lãm tranh tại Paris - và thành công ngoài mong đợi. Về nước, tôi lập phòng tranh Lotus ở Thành phố Hồ Chí Minh, hỗ trợ các họa sĩ trẻ có tài nhưng chưa được biết đến. Việt Nam có rất nhiều họa sĩ giỏi - chỉ thiếu cơ hội. Thế rồi tôi - một bà già ít tiền mang tranh của các họa sĩ vô danh đi khắp bốn châu lục giới thiệu.
Tôi làm trong tình thế có thể phá sản bất cứ lúc nào. Nhưng vẫn làm. Vẫn tin. Khắc đến, khắc đi, phòng tranh ngày càng phát triển. Nếu ngày đó tôi cam phận, có lẽ giờ chỉ là một bà già giữ xe, ngồi chờ hết một đời.
Gần 90 tuổi, tôi tổ chức triển lãm tranh ở Tây Australia. Một nhà báo tò mò hỏi: “Tuổi này mà bà còn làm triển lãm?”. Tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta, đáp: “Thế ở tuổi này, vì sao tôi không có quyền làm triển lãm tranh?”.
Tôi không thể quên hai cuộc gặp đặc biệt khi mang tranh Việt Nam ra thế giới. Năm 2009 ở Bỉ, một Việt kiều lặng lẽ đến xem triển lãm mỗi ngày nhưng không mua gì. Mãi đến hôm cuối, ông đến gần tôi, nghẹn ngào nói: “Tôi từng không muốn trở lại nơi mình ra đi, cho đến khi nhìn thấy những bức tranh này. Cây đa, bến nước, gốc nhãn trưa hè… khiến tôi thôi hận thù và quyết định sẽ về”.
Hai năm sau, tại Italy, lại một người đàn ông Tây phương lặng lẽ xem tranh suốt ba ngày. Ngày thứ tư, ông nói: “Tôi từng là kỹ sư xây kho Long Bình, sân bay Chu Lai… Tôi không ngờ từ đây, bao nhiêu chuyến bay đã chất bom đạn bắn phá làng mạc, giết hại người vô tội. Tôi đã nhiều lần định đến Việt Nam nhưng không đủ can đảm. Giờ đây, những bức tranh này đã cho tôi niềm tin: Việt Nam đã hồi sinh và sẵn sàng để tôi trở lại”.
Tôi đã xuyên Việt 22 lần, nhiều chuyến chỉ để tìm họa sĩ giỏi. Có lần, tôi về tận Bắc Giang (nay là Bắc Ninh), bước vào căn nhà nát, mua toàn bộ tranh của họa sĩ Trương Đình Hào khi chưa ai biết đến, cũng chẳng ai thèm mua. 32 năm qua, phòng tranh của tôi đã phát hiện hơn 20 họa sĩ trẻ có tài, như Trương Đình Hào, Đinh Quân... Tôi làm trong tình thế có thể phá sản bất cứ lúc nào. Nhưng vẫn làm. Vẫn tin. Khắc đến, khắc đi, phòng tranh ngày càng phát triển. Nếu ngày đó tôi cam phận, có lẽ giờ chỉ là một bà già giữ xe, ngồi chờ hết một đời.
Tôi chứng kiến trong một cuộc giao lưu, bà đã kể chuyện tình của mình gói gọn trong một câu: “Tôi yêu anh Nam, nhưng tôi đã có thai với anh Hoàng”. Và chờ cho dứt tiếng cười trong khán phòng, bà nói tiếp: “Bây giờ các bạn cười, còn tôi hồi đó thì khóc”. Bà có thể chia sẻ về chuyện tình đầy éo le trong những biến động của thời cuộc nhưng đầy xúc động, nhân văn?
Năm 1949, khi làm việc tại Nha Nghiên cứu Kỹ thuật Yên Sơn, một sự cố nổ thuốc xảy ra. Tôi lao vào băng bó cho đồng đội, máu tuôn xối xả, có người mất cả bàn tay. Đang cúi xuống, vài giọt máu rơi trúng người, ngẩng lên tôi thấy một bàn tay mắc trên dây điện. Tôi ngất lịm.
Tỉnh dậy, tôi nghe anh Hoàng - đồng nghiệp của tôi, gọi: “Nín đi em, nín đi em!”. Sau vụ nổ, tôi kiệt sức, anh nấu cháo, chăm sóc từng li từng tí. Một hôm, anh khẽ nói: “Anh yêu em. Em đồng ý làm vợ anh chứ?”. Giữa rừng sâu, nơi cái chết luôn rình rập, lời cầu hôn ấy ấm áp đến lạ. Tôi im lặng ba giây, rồi gật đầu.
Rồi vài tháng trôi qua. Một hôm, tôi nghe tiếng gõ cửa quen thuộc: Ba cái dài - hai cái ngắn - ba cái dài - hai cái ngắn. Tim tôi thắt lại. Đó là ám hiệu ngày xưa ở Huế, của tôi và mối tình đầu. Tôi tự hỏi: “Mình mơ sao?”. Chiến tranh, bom đạn đã xé rời chúng tôi. Nhưng hôm đó, tiếng gõ ấy vẫn vang lên. Như từ ký ức vọng về. Tôi giật cửa. Đúng là anh Nam, người xưa của tôi, đứng đó bên chiếc xe đạp. Anh hỏi ngay: “Phượng! Sao em lấy chồng?”. Tôi sững người: “Em nghe anh đã lấy vợ rồi”. Anh lắc đầu: “Làm gì có. Gia đình anh từng đến hỏi em. Để anh gặp anh Hoàng, xin lại Phượng”.
Đêm đó, giữa rừng, ba người ngồi dưới gốc cây. Tôi chỉ khóc. Tôi yêu anh Nam, nhưng đã có thai với anh Hoàng. Anh Hoàng lặng một lúc rồi nói: “Mình nên nghĩ đến đứa bé. Nó đâu có lỗi gì mà phải mất cha?”. Anh Nam ngồi rất lâu. Cuối cùng, anh nói: “Thôi, mai tôi đi”.
Sau này, hai gia đình đã về Hà Nội, một lần anh Nam đến xin phép tôi đồng ý cho đặt tên con gái đầu lòng của anh là “Nam Phượng”. Tôi từ chối. Anh nói: “Phượng ơi, lòng anh mãi không nguôi được”. Tôi khóc, nhưng vẫn dứt khoát: “Anh không nguôi là việc của anh. Nhưng cái tên đó sẽ làm đau người vợ đã sinh con cho anh”. Cuối cùng, đứa bé mang tên Nam Phương. Lớn lên, con lại trở thành học trò thân thiết của anh Hoàng.
Khoảng năm 1990, khi gia đình tôi đã vào Thành phố Hồ Chí Minh, tôi nhận được thư anh Nam: “Anh bị ung thư. Muốn vào điều trị và để được chết bên em”. Chồng tôi viết lại: “Anh Nam ơi, anh cứ vào. Chúng tôi sẵn sàng”.
Chiều nào tôi cũng vào thăm anh ở Bệnh viện Thống Nhất. Một hôm, trong cơn hấp hối, anh đảo mắt tìm quanh. Vợ anh khẽ gọi: “Chị Phượng ơi, anh Nam gọi chị đó”. Anh nắm tay tôi, tay đã lạnh. “Thôi, anh đi trước. Cảm ơn em”, anh thì thào rồi nhắm mắt.
Giữ được một mối tình trong sáng, tử tế đến tận phút cuối, tôi luôn biết ơn chồng mình. Tôi hiểu rằng, để một người yêu, một người chồng và một người vợ có thể sống bên nhau mà không ai bị tổn thương thì cả ba phải xứng đáng với nhau.
Khi tôi được nhận Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh do Chính phủ Pháp trao tặng vì vai trò cầu nối văn hóa giữa Việt Nam và Pháp, chồng tôi - một người từng chiến đấu ở đồi A1 Điện Biên - đã đeo huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ đi dự lễ.
Có thể là một liên tưởng hơi bất ngờ, nhưng khi đọc về cuộc đời bà, tôi chợt nhớ đến nhân vật Scarlett O’Hara trong “Cuốn theo chiều gió”: Một người phụ nữ sinh ra trong gia đình quyền quý, đi qua bao biến động chiến tranh, từng yêu say đắm một người nhưng lại kết hôn với người khác. Sau cùng, Scarlett trở về ấp Tara - nơi lưu giữ ký ức tuổi thơ và sức mạnh tinh thần - và nói: “Dù sao đi nữa, ngày mai là một ngày mới”. Ở tuổi này, bà có một “ấp Tara” trong lòng mình không - một nơi, một điều gì là điểm tựa sâu xa nhất và với bà, ngày mai có còn là một ngày mới?
Vì chiến tranh, gia đình tôi ly tán sang Mỹ. Mẹ tôi mất năm 2002. Thi hài ba tôi được đưa ra khỏi nơi quàn. Hai bình cốt tro đã được đưa về Huế. Chúng tôi tổ chức một lễ cầu siêu và hiện nay hai bình tro cốt đã nằm trong chùa Huyền Không, thôn Nham Biều, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, Huế (cũ).
Nguyện vọng của hai ông bà muốn được về làng ăn một bữa rau muống luộc non xanh mọc ở biển, nếm một múi thanh trà thơm mát trong vườn không thể thực hiện được. Nhưng vong linh ông bà sớm chiều đã ấm áp tiếng chuông, tiếng mõ, và khói hương trầm quê ngoại. Xin nói thêm là sau khi bà ngoại tôi mất (bà sống hơn một trăm tuổi), cậu tôi đã hiến toàn bộ khu vườn cho chùa Huyền Không. Nhà chùa đã để dành một ngăn phía sau nhà Đại Lễ làm nơi thờ cúng những người thân trong gia đình Nguyễn Xuân. Để báo hiếu cho cha mẹ, mỗi tháng tôi bay ra Huế quét sân chùa, làm công quả và thắp nhang cho những người thân đã mất.
Tôi có ước nguyện khi tôi chết đi, tro cốt được rải trên dòng sông Hương, dòng nước của con sông quê hương sẽ đưa tôi đi vào những cuộc viễn du mới.
Từ những năm 2000, gia đình các em tôi từ nhiều bang nước Mỹ hằng năm đều đặn về thắp nhang tưởng nhớ ông bà, cha mẹ. Nhiều cháu bé sinh ra ở Mỹ, tiếng Việt bập bẹ lần đầu được trở về quê hương, xúng xính trong chiếc áo dài đã cúi đầu ngồi dự những buổi lễ cầu siêu. Trong khói hương trầm những ngày giỗ Tết, tiếng chuông ngân lan tỏa trên những mái đầu bạc, những cuộc đời thăng trầm nay trở về quê hương, quây quần bên nhau. Chắc bạn hiểu tôi đã có một “ấp Tara” trong lòng mình. Tôi có ước nguyện khi tôi chết đi, tro cốt được rải trên dòng sông Hương, dòng nước của con sông quê hương sẽ đưa tôi đi vào những cuộc viễn du mới.
Còn giờ đây, với tôi, mỗi ngày đều là một ngày mới, tôi muốn mình tập trung trọn vẹn trong từng thời khắc mình có.
Tôi sợ nghe câu già rồi chờ chết, tôi luôn tâm niệm là: “Tại sao lại chờ chết? Cái chết phải chờ mình!”. Trái tim nếu giữ được niềm ao ước sẽ không bao giờ già đi.
Tôi sợ nghe câu già rồi chờ chết, tôi luôn tâm niệm là: “Tại sao lại chờ chết? Cái chết phải chờ mình!”. Trái tim nếu giữ được niềm ao ước sẽ không bao giờ già đi.
Nhiều người biết đến cuộc đời bà qua hồi ký “Gánh gánh gồng gồng”, họ nói làm sao bà có thể “gánh gồng” bao nhiêu gian khổ và mất mát gần trọn một thế kỷ mà vẫn nhẹ nhàng vui tươi?
Tôi chỉ cố giữ một điều, dù nói thì dễ, làm thì khó: Luôn bao dung. Khi mình không sân si, không oán giận, không chấp nhặt thì những gánh nặng tự nhiên nhẹ đi. Bao dung và tử tế, nghĩ cho cùng, là cách sống khôn ngoan nhất.
Tôi may mắn vì từng giai đoạn của đời mình đều thuộc về một mảnh ghép của lịch sử dân tộc. Tôi hy vọng rằng, qua những câu chuyện của tôi, thế hệ trẻ hiểu hòa bình này là một điều quý giá biết bao.
Tôi may mắn vì từng giai đoạn của đời mình đều thuộc về một mảnh ghép của lịch sử dân tộc. Tôi hy vọng rằng, qua những câu chuyện của tôi, thế hệ trẻ hiểu hòa bình này là một điều quý giá biết bao.
Mới đây, một nhà báo người Pháp nổi tiếng từng làm phim về chiến tranh Việt Nam đến Thành phố Hồ Chí Minh đã gặp tôi, nói: “Phượng ơi, từ nay tôi sẽ không làm phim về Việt Nam nữa?”. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Vì sao?”. Ông đáp: “Khách sạn tôi ở đường Đồng Khởi, sáng ra tôi thấy nhiều thanh niên sáng chiều tụ tập café tán gẫu. Chẳng lẽ cuộc sống của giới trẻ Việt Nam chỉ thế thôi sao?”. Tôi nói: “Ông cứ bình tĩnh, đi theo tôi”.
Tối đó, tôi đưa ông đến những xóm nghèo, những con hẻm nhỏ, nơi thanh niên ban ngày chạy xe ôm, làm công nhân, tối lại tranh thủ học ngoại ngữ, học công nghệ... Với tôi, đó là sức sống, khát vọng vươn lên không mệt mỏi của người Việt - điều khiến tôi, dù đã 95 tuổi, vẫn chưa từng thôi lạc quan và hy vọng.
Xin trân trọng cảm ơn bà!
