Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.
Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.
Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.
Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.
Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.
Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.
"Thế hệ trí thức vàng Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo".
Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.
Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Hoàng Thủy Nguyên: Sinh năm 1929 mất năm 2018, quê Hà Nội. Ông được biết đến người đặt nền móng cho ngành sản xuất vaccine của Việt Nam với công trình vaccine phòng bại liệt.
Đồng thời, ông còn đào tạo các lớp kế cận để không ngừng phát triển sản xuất vaccine ở nước ta như vaccine viêm não Nhật Bản, vaccine viêm gan B… Công trình được nhận giải Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.
Từ một nước lệ thuộc vào nguồn viện trợ vaccine bại liệt, chỉ vài năm sau, dưới sự dẫn dắt của Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên, Việt Nam đã có nhóm nghiên cứu để sản xuất vaccine bại liệt và nhanh chóng cho ra đời vaccine “made in Vietnam”.
Nhờ đó, đã nhanh chóng thanh toán được bệnh bại liệt cho hàng triệu trẻ em Việt Nam mỗi năm và tiến tới chấm dứt bệnh này vào năm 2020.
Người đưa Việt Nam trở thành nước thứ hai trên thế giới
tự túc được vaccine bại liệt
Những năm 1957, 1958, 1959, các đợt dịch bại liệt lớn đã cướp đi nhiều mạng sống và gây tàn phế cho hàng vạn trẻ em. Năm 1957, cả nước có 1.129 người mắc, tử vong 34 người; năm 1958 có 313 người mắc, 9 người tử vong; năm 1959 có 6.182 người mắc (tỷ lệ 126,4/100.000 dân), 783 người chết.
Với nguồn viện trợ vaccine phòng bại liệt của Liên Xô, Việt Nam đã nỗ lực kiểm soát bệnh bại liệt, nhưng thực tế việc vận chuyển vaccine có quá nhiều khó khăn. Theo "Báo cáo nhận sinh hóa phòng bệnh bại liệt của Liên Xô" của Viện Vi trùng học ngày 3-2-1960 thì Viện đã nhận 45 lít sinh hóa loại 1, 2, 3, chia thành 11 lọ. Mỗi lọ được đóng riêng vào từng hòm nhỏ, xung quanh có chèn bông rồi tới đá khô. Nhưng khi mở từng hòm, nhận thấy trong số 11 lọ đã bị rạn vỡ 8 lọ. Và số lọ vi trùng ấy sau đó không dùng được dù đã được bảo quản trong tủ lạnh -150 độ C.
Trong "Báo cáo nhận sinh hóa phòng bệnh bại liệt của Liên Xô" nêu: "Vì các lọ bị vỡ phải dỡ ra (đập vỡ thủy tinh, lấy hỗn dịch siêu vi trùng không thành đá ở trong, để cho chảy ra, chuyển sang lọ khác) tuy đã cho thêm kháng sinh penicillin và streptomycin, nhưng số sinh hóa vẫn bị nhiễm trùng (một loại vi trùng phát triển được ở nhiệt độ thấp) phải bỏ đi không dùng được".
Với nguồn viện trợ vaccine phòng bại liệt của Liên Xô, Việt Nam đã nỗ lực kiểm soát bệnh bại liệt, nhưng thực tế việc vận chuyển vaccine có quá nhiều khó khăn.
Trước bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam rất quan tâm việc tự túc vaccine, nên đã cử Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên sang Liên Xô dự Hội nghị bại liệt kết hợp với phiên họp khoa học lần thứ IV của Viện Nghiên cứu bệnh bại liệt tổ chức tại Moskva từ 17 đến 20/5/1960. Sau Hội nghị, ông ở lại Liên Xô 3 tháng để khảo sát về siêu vi trùng theo Hiệp định trao đổi Văn hóa giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên Xô, năm 1960.
Trẻ em mắc bệnh bại liệt đầu thế kỷ 20. (Ảnh: Global Polio Eradication Intiative)
Trẻ em mắc bệnh bại liệt đầu thế kỷ 20. (Ảnh: Global Polio Eradication Intiative)
Bức ảnh chụp năm 1962 cho thấy người dân xếp hàng chờ tiêm vaccine bại liệt tại San Antonio (bang Texas). (Ảnh: CDC)
Bức ảnh chụp năm 1962 cho thấy người dân xếp hàng chờ tiêm vaccine bại liệt tại San Antonio (bang Texas). (Ảnh: CDC)
Những năm 1957, 1958, 1959, các đợt dịch bại liệt lớn đã cướp đi nhiều mạng sống và gây tàn phế cho hàng vạn trẻ em. Năm 1957, cả nước có 1.129 người mắc, tử vong 34 người; năm 1958 có 313 người mắc, 9 người tử vong; năm 1959 có 6.182 người mắc (tỷ lệ 126,4/100.000 dân), 783 người chết.
Khi ở trong nước, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên là cán bộ phụ trách việc chuẩn bị thuốc trừ bại liệt và đã theo dõi công tác này nên đã có ít nhiều kinh nghiệm. Ông sang Liên Xô đúng vào mùa hè, mùa nghỉ của cán bộ, việc học đôi khi là cầm chừng, phải chờ đợi, nhưng đến giữa tháng 7 ông đã học xong quy trình sản xuất vaccine bại liệt theo công nghệ dùng virus sống giảm độc lực.
Ông cho biết, sang Liên Xô đã học được rất nhiều, nhất là đã có một ít kinh nghiệm thực tế trong nước, nên có thể lường trước được công việc sẽ tiến hành như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh cán bộ và trang bị của Việt Nam. Từ đó đến khi về nước - giữa tháng 8, ông đã tìm hiểu thêm một số vấn đề liên quan và công việc do Bộ trưởng Y tế Việt Nam giao phó.
Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên tham gia nghiên cứu sản xuất vaccine bại liệt uống Sabin ở Việt Nam. (Ảnh: Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương)
Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên tham gia nghiên cứu sản xuất vaccine bại liệt uống Sabin ở Việt Nam. (Ảnh: Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương)
Ngay sau khi về nước, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên đã khẩn trương thành lập nhóm nghiên cứu để sản xuất vaccine bại liệt tại Việt Nam. Dưới sự chỉ đạo của ông, nhóm nghiên cứu rất tận tụy, vừa làm, vừa hướng dẫn cho nhau được hình thành. Có thể kể đến các gương mặt như: Bác sĩ Huỳnh Ngọc Tính, bác sĩ Ngô Yến Ngà... sau này là cử nhân Nguyễn Thị Quỳ, bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn cùng nhiều đồng nghiệp và kỹ thuật viên khác.
Nhóm nghiên cứu được sự tạo điều kiện và động viên rất lớn từ Chính phủ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã chỉ đạo việc cấp kinh phí cho nhóm nghiên mỗi năm 2000 bảng Anh. Sau này, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên chia sẻ: Số tiền đó tôi dùng để đặt mua hoá chất và dụng cụ ở Hồng Kông (Trung Quốc). Tôi chi tiêu chặt chẽ lắm. Mỗi năm tôi để dành một số tiền và sau vài năm tôi đủ tiền mua thêm một chiếc máy đông khô của Tây Đức trị giá 2000 bảng Anh.
Để có không gian nghiên cứu, Bộ Y tế bố trí cho bộ phận sản xuất vaccine trụ sở làm việc tại tầng 2, tập thể của Bộ Y tế - vốn là cơ sở của nhà dòng tại số 5 phố Quang Trung, Hà Nội. Có rất nhiều khó khăn trong việc hiện thực những mục tiêu nghiên cứu với trang thiết bị thô sơ và thiếu đủ thứ, từ hóa chất, nguyên liệu, đến điện, nước. Nhóm nghiên cứu phải dùng dụng cụ tăng áp để ổn định nguồn điện… Nhưng đó cũng là một đặc điểm trong những nghiên cứu sáng tạo của các nhà khoa học Việt Nam. Vaccine bại liệt được sản xuất từ tế bào thận khỉ tiên phát. PTS Hoàng Thủy Nguyên đã vận dụng sáng tạo quy trình công nghệ sản xuất vaccine theo công nghệ Sabin thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam thời bấy giờ để sản xuất vaccine Sabin phòng bại liệt.
Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên đã vận dụng sáng tạo quy trình công nghệ sản xuất vaccine theo công nghệ Sabin thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam thời bấy giờ để sản xuất vaccine Sabin phòng bại liệt.
Làm việc tại bộ phận sản xuất vaccine từ năm 1969, bà Nguyễn Thị Quỳ còn nhớ cảm giác đầu tiên khi đặt chân đến đây là sự ngỡ ngàng, vì cơ sở nghiên cứu vô cùng thô sơ, điều kiện vô cùng khó khăn. Cán bộ đa số là nữ. Điện, nước là một vấn đề khi tất cả đều dùng chung với nhà dân, thường xuyên mất điện, mất nước. Để khắc phục, hệ thống điện được sử dụng súp-vôn-tơ. Hàng ngày, mọi người phải tranh thủ bật đèn khử trùng và làm việc ngay, khi chuyển sang nhiệm vụ khác th́ường phải dùng áo hay mảnh vải che đèn lại (do ánh sáng đó rất hại cho mắt) chứ không được tắt đèn, nếu tắt sẽ không bật lại được nữa do điện quá yếu.
Để có nước, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên đã chủ động cho xây một bể chứa nước riêng của cơ quan. Nhưng lúc có khi người dân ở tập thể lấy hết, nên phải thay phiên nhau trực để khi có nước thì bơm lên bể phục vụ nghiên cứu.
Việc chủ động nguyên liệu phục vụ nghiên cứu có lẽ là vấn đề khó khăn nhất và nhận được nhiều sự quan tâm. Các nước trên thế giới như Nhật Bản, Liên Xô đều dùng khỉ xanh châu Phi bởi tế bào thận tốt hơn, nhưng ở Việt Nam không có điều kiện dùng khỉ xanh do thiếu kinh phí. Ở nước ta chỉ có khỉ vàng ngắn đuôi (Macaca mulatta), nhưng vẫn có thể dùng sản xuất vaccine bại liệt. Năm 1962, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên đã đề xuất và được Chính phủ cấp cho đảo Rều ở vịnh Bái Tử Long (Quảng Ninh) để nuôi khỉ vàng theo hình thức bán hoang dã.
Đàn khỉ nuôi ở đảo Rều ngày càng phát triển, nhờ vậy chủ động được nguyên liệu để sản xuất và thử nghiệm vaccine với quy mô ngày càng lớn. Cho đến nay, đảo khỉ vẫn được phát triển và đóng góp quan trọng vào việc sản xuất vaccine và sinh phẩm y tế của Việt Nam.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Quỳ chia sẻ: Đảo Rều vô cùng quý giá bởi nó cung cấp được nguồn động vật đầu vào sạch để sản xuất các loại vaccine chứ không riêng vaccine Sabin. Như vậy Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên đã giúp chủ động được nguồn nguyên liệu cho sản xuất vaccine Sabin, kiểm định vaccine Sabin cùng các vaccine (rota, sởi…) và sinh phẩm khác. Bởi vì khỉ là động vật gần với con người nhất nên được dùng kiểm tra độ đáp ứng miễn dịch trước khi thử trên người.
Việc mang khỉ từ ngoài đảo về cũng thể hiện sự sáng tạo. Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên đã cho thiết kế chuồng nuôi, đưa khỉ từ đảo về nuôi ở Viện Vệ sinh dịch tễ học (nay là Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương), quy định cụ thể thời gian nuôi đến khi có thể mổ lấy thận…
Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên trình bày với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng về các tiến bộ trong quy trình y tế dự phòng. (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên trình bày với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng về các tiến bộ trong quy trình y tế dự phòng. (Ảnh tư liệu)
Tiến sĩ Nguyễn Thị Quỳ tâm sự: Ngày nay giết mổ còn có thuốc mê, bấy giờ khỉ còn sống, mọi người giữ tay để cắt tiết khỉ, lấy thận ra rồi làm - chỉ có điều kiện Việt Nam mới làm thế. Tất cả đều vô cùng khó khăn. Ngày nay, chúng tôi nhớ lại đều nói: "Không biết làm sao ngày đó làm được?".
Một khó khăn nữa là đảo khỉ ở xa đất liền, khi ấy phải đi từ sáng đến chiều mới tới nơi. Một số khỉ được đưa về Viện nuôi cách ly, kiểm tra bảo đảm khỉ sạch, khỏe mạnh, mới bắt dần từng con về số 5 Quang Trung làm thí nghiệm.
Sự sáng tạo của Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên thể hiện ở nhiều việc ông đã làm. Nơi sản xuất vaccine ở số 5 phố Quang Trung, nhưng vẫn sấy khử trùng các dụng cụ ở Viện Vệ sinh dịch tễ học và vận chuyển về bằng phương tiện chuyên chở là xe thùng. Dụng cụ mang về phải khử trùng một lần nữa bằng đèn tím.
Việc vận chuyển do một nam công nhân phụ trách, nhưng vẫn cần sự trợ giúp của tất cả các cán bộ để chuyển dụng cụ lên tầng 2. Có khi người vận chuyển vắng mặt, các cán bộ phải tự kéo xe, hoặc đi xe đạp về Viện lấy dụng cụ. Người đi xe, người ngồi sau cầm dụng cụ, có khi mang chai đi đường thì vỡ, nhưng khi cần gấp thì vẫn phải dùng cách này để vận chuyển.
Ngày nay giết mổ còn có thuốc mê, bấy giờ khỉ còn sống, mọi người giữ tay để cắt tiết khỉ, lấy thận ra rồi làm - chỉ có điều kiện Việt Nam mới làm thế. Tất cả đều vô cùng khó khăn. Ngày nay, chúng tôi nhớ lại đều nói: "Không biết làm sao ngày đó làm được?"
--------- Tiến sĩ Nguyễn Thị Quỳ ---------
Hóa chất phục vụ sản xuất vaccine đều xin hoặc mua từ nước ngoài. Do vậy, dù vaccine làm trong điều kiện khó khăn thời bấy giờ nhưng phải luôn bảo đảm tiêu chuẩn nghiêm ngặt. Thiếu máy móc nên mỗi lần ông hay các cán bộ của Viện đi công tác nước ngoài đều tranh thủ xin hoặc mua hóa chất mang về cho bộ phận sản xuất vaccine.
Nhóm nghiên cứu cũng cố gắng tìm những nguồn nguyên liệu ở trong nước để thay thế. Ở các nước tiên tiến dùng huyết thanh bê bào thai đưa vào môi trường nuôi cấy tế bào, nhưng điều kiện của nước ta khi còn chiến tranh và bao cấp thì không thể mua được. Việc bảo quản huyết thanh bê bào thai rất nghiêm ngặt, phải đảm bảo lạnh âm, kể cả khi vận chuyển. Điều đó không thể đảm bảo trong điều kiện chiến tranh, đi sơ tán…
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trao tặng phần thưởng của Nhà nước cho GS. Hoàng Thủy Nguyên trong Lễ công bố Việt Nam đã thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000 (15/12/2000).
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trao tặng phần thưởng của Nhà nước cho GS. Hoàng Thủy Nguyên trong Lễ công bố Việt Nam đã thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000 (15/12/2000).
Dưới sự chỉ đạo của Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên, nhóm nghiên cứu đã dùng huyết thanh bò trưởng thành của Việt Nam để thay thế, vì có thể dễ dàng mua bò trưởng thành với số lượng lớn, và có thể tận dụng làm nhiều việc khác: lấy máu của bò trưởng thành, tách huyết thanh để nuôi cấy tế bào phục vụ sản xuất vaccine bại liệt, đồng thời dùng bò làm môi trường nuôi cấy vi khuẩn.
Việc nghiên cứu là không phân biệt ngày hay đêm. Sang lắm là được bồi dưỡng bát cháo gà khi làm đêm. Thí nghiệm được làm trong buồng kín, không có điều hòa, chỉ mua được ít đá lạnh đặt ở các góc tường. Làm việc xong thì quần áo vô trùng mặc trên người đều ướt đẫm mồ hôi, thậm chí có thể vắt ra nước.
Làm việc xong thì quần áo vô trùng mặc trên người đều ướt đẫm mồ hôi, thậm chí có thể vắt ra nước.
Vaccine bại liệt đã được sản xuất thực nghiệm trong phòng thí nghiệm từ cuối năm 1960. Khi đã có thành phẩm vaccine, phải có một bộ phận riêng biệt, độc lập hoàn toàn kiểm định chất lượng, độ an toàn. Do vậy, ngày 8/3/1961, Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch đã ký quyết định số 236/BYT-QĐ quy định nhiệm vụ của Viện Vệ sinh dịch tễ học, trong đó Phòng Kiểm định (nay là Viện Kiểm định Quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm y tế) có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng các vaccine và sinh phẩm này trước khi sử dụng trên người.
Tự mình uống vaccine
để thử nghiệm độ an toàn
Năm 1962, dù đã có phòng kiểm định, nhưng Việt Nam chưa có điều kiện kiểm định vaccine như các nước trên thế giới, vì vậy, nhiều người hoài nghi về độ an toàn của vaccine.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Văn Mẫn (chuyên ngành): Để phá tan sự hoài nghi về độ an toàn của vaccine bại liệt, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên cùng Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch đã uống trực tiếp mỗi người 10 liều vaccine xem có việc gì không... Đó là một thử nghiệm để gây lòng tin, để mọi người biết vaccine ta sản xuất là an toàn. Do vậy, Bộ Y tế quyết định cho sử dụng đại trà loại vaccine này. Năm 1962, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên và đồng nghiệp đã sản xuất được 2 triệu liều vaccine bại liệt và năm sau đạt hơn 7,4 triệu liều.
Để phá tan sự hoài nghi về độ an toàn của vaccine bại liệt, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên cùng Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch đã uống trực tiếp mỗi người 10 liều vaccine xem có việc gì không...
Cũng chính vì vậy, sau Liên Xô, Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới tự túc được vaccine bại liệt. Nước ta đã dập tắt được dịch bại liệt xảy ra vào năm 1964 rất hiệu quả. Năm 1965, tỷ lệ mắc bệnh bại liệt chỉ còn 0,66 trong 100.000 dân, giảm 5 lần so với năm 1961. Bên cạnh đó, Việt Nam còn viện trợ vaccine này cho nước bạn Lào.
Vaccine bại liệt sản xuất thành công từ năm 1962, nhưng phải đến những năm 1980 mới được vào chương trình tiêm chủng mở rộng. Nguyên nhân là Nhà nước không đủ kinh phí và số lượng vaccine tổ chức tiêm chủng mở rộng. Chương trình này tổ chức được nhờ sự giúp đỡ của Tổ chức Y tế thế giới.
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình phát biểu tại Lễ công bố Việt Nam đã thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000. (Ảnh: Báo Sức khỏe và Đời sống)
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình phát biểu tại Lễ công bố Việt Nam đã thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000. (Ảnh: Báo Sức khỏe và Đời sống)
Bấy giờ, Chương trình tiêm chủng mở rộng được triển khai trên phạm vi toàn cầu, và họ sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam về mọi mặt. Để tiêm chủng được cho tất cả trẻ em, phải có đội ngũ cán bộ y tế dự phòng rất lớn thì mới làm được. Việc này có sự góp sức rất lớn của các chiến sĩ trong quân đội, họ đã giúp đeo dây chuyền lạnh (do quốc tế tài trợ) chứa vaccine hoặc mang theo đá lạnh đi 2-3 ngày đường đến các bản làng xa để tiêm cho trẻ em.
Trẻ em ở miền bắc (từ 1962) và miền Nam (sau 1975) được uống vaccine bại liệt sản xuất bởi 3 chủng virus do Liên Xô (trước năm 1990) và Nhật Bản (từ 1990 đến nay) cung cấp. Việt Nam cũng được các tổ chức quốc tế như WHO, UNICEF, JICA giúp đỡ về chuyên môn, kỹ thuật, vật tư, tài chính, để mở rộng quy mô sản xuất vaccine bại liệt nhằm đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, đỉnh cao là 40 triệu liều một năm. Nhờ vậy mà số mắc bại liệt giảm dần theo các năm, ca bại liệt cuối cùng ở nước ta phát hiện vào năm 1997.
Năm 2000 WHO đã tuyên bố Việt Nam đã thành công trong khống chế bệnh bại liệt trên toàn quốc. Tuy nhiên, trong 8 tháng đầu năm 2019 đã có 53 ca mắc bại liệt tại một vài quốc gia châu Á và châu Phi. Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng không được chủ quan với bệnh bại liệt.
Dụng cụ nghiên cứu của Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên.
Dụng cụ nghiên cứu của Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên.
Dụng cụ nghiên cứu.
Dụng cụ nghiên cứu.
Năm 2000 WHO tuyên bố Việt Nam đã khống chế bệnh bại liệt. Tuy nhiên, trong 8 tháng đầu năm 2019 đã có 53 ca mắc bại liệt tại một vài quốc gia châu Á và châu Phi. Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng không được chủ quan với bệnh bại liệt.
Hình ảnh và thông tin về Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên tại Công viên các nhà khoa học Việt Nam.
Hình ảnh và thông tin về Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên tại Công viên các nhà khoa học Việt Nam.
Trước đây, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên dùng phương pháp cắt thận khỉ thành nhiều lát, rồi tách tế bào, thu được 15 chai roux tế bào từ mỗi cặp thận. Với công nghệ này, số lượng vaccine được sản xuất hàng năm còn hạn chế. Do vậy, những năm 1980-1990, ông đã tạo điều kiện cho các học trò đi học hỏi ở Liên Xô, Nhật Bản để về cải tiến quy trình sản xuất.
Nhờ vậy, từ thập niên 90, thế hệ kế cận của Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên tại Trung tâm Khoa học sản xuất Vaccine Sabin (nay là Trung tâm Nghiên cứu sản xuất Vaccine và Sinh phẩm Y tế-Polyvac) đã nghiên cứu môi trường nuôi tế bào, dung dịch trypsin và áp dụng phương pháp truyền dịch của Liên Xô (đặc biệt là từ khi dùng máy bơm nhu động) bơm dung dịch tách tế bào (enzym trypsin) vào thận khỉ còn lành, do đó một cặp thận có thể cho cao nhất là 200 chai roux tế bào. Việc đó đã giúp việc sản xuất vaccine đạt con số tối đa là 40 triệu liều 1 năm.
Các giải pháp cụ thể để sản xuất thành công vaccine Sabin đã được Hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước đánh giá cao về giá trị Khoa học và công nghệ, giá trị kinh tế (giá sản phẩm hạ ít nhất 2 lần so với nhập từ nước ngoài).
Có thể nói, các nghiên cứu của thế hệ sau làm tăng năng suất tách tế bào (giảm đáng kể số lượng khỉ dùng cho sản xuất), tăng hiệu giá vaccine để thanh toán bại liệt năm 2000, nhưng không thay đổi quy trình.
Đến nay, Trung tâm Polyvac đã cải tiến quy trình: Dùng đời tế bào (passage) cấy truyền đời P1 làm tăng thêm 5 lần (sau phương pháp truyền dịch) và đã được chia, nuôi trên chai 10 tầng (dùng 1 lần); vừa bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn GMP, giảm sức lao động.
Các giải pháp cụ thể để sản xuất thành công vaccine Sabin đã được Hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước đánh giá cao về giá trị Khoa học và công nghệ, giá trị kinh tế (giá sản phẩm hạ ít nhất 2 lần so với nhập từ nước ngoài). Công trình này lần đầu tiên đã tạo ra một bước chuyển biến mới trong lĩnh vực sản xuất và tự túc vaccine thiết yếu trong nước; đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật làm chủ được các kỹ thuật sinh học tiên tiến, có thể vận hành thành thạo các trang thiết bị máy móc hiện đại, làm tiền đề cho các đề tài nghiên cứu khoa học về vi sinh vật học, miễn dịch học, virus học, công nghệ y sinh học; mở đường cho thành công tiếp theo trong sản xuất vaccine viêm não Nhật Bản, vaccine viêm gan B và các vaccine, sinh phẩm mới khác sau đó.
Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên (giữa) nhận Giải thưởng Trần Đại Nghĩa lần thứ nhất (2016). (Ảnh: Báo Sức khỏe và Môi trường)
Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên (giữa) nhận Giải thưởng Trần Đại Nghĩa lần thứ nhất (2016). (Ảnh: Báo Sức khỏe và Môi trường)
Hơn 60 năm cống hiến cho nghề, cho khoa học, Anh hùng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Hoàng Thủy Nguyên đã để lại nhiều công trình nghiên cứu quý giá cho đất nước. Tên tuổi của Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên và đóng góp của công trình Vaccine phòng bại liệt sẽ còn mãi với lịch sử y học Việt Nam.

Ngày xuất bản: 21/8/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - HỒNG VÂN
Nội dung: NGUYỄN THANH HÓA
Thực hiện: THIÊN LAM - NGỌC DIỆP
Ảnh-Tư liệu: Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam, Báo Nhân Dân, TTXVN, Shutterstock
E-Magazine I nhandan.vn
