Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

 

Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

"Thế hệ trí thức vàng Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo".

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

Trần Hữu Tước (13/10/1913-23/10/1983) là giáo sư, bác sĩ chuyên khoa Tai-Mũi-Họng, một nhà khoa học lớn của Việt Nam. Ông là người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp y tế cách mạng, sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, có công lớn trong việc xây dựng và phát triển chuyên ngành Tai-Mũi-Họng Việt Nam. Ông đã được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động năm 1966 và Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996 cùng nhiều huân huy chương khác.

Ngày 18/9/1946, trên chiến hạm Dumont d'Urville đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Pháp sau Hội nghị Fontainebleau, có 4 trí thức Việt kiều đã bí mật theo Người về nước. Một trong bốn nhà khoa học trẻ đó là bác sĩ Trần Hữu Tước, người sau này đã đặt nền móng cho chuyên ngành Tai Mũi Họng tại Việt Nam và có những đóng góp to lớn cho y học nước nhà nói chung và phát triển nền y học trong thời kỳ kháng chiến.

Xây dựng ngành Tai Mũi Họng

trong kháng chiến chống Pháp

Năm 1937, khi tốt nghiệp bác sĩ với một bản khóa luận xuất sắc, Trần Hữu Tước được giữ lại làm trợ lý cho giáo sư Lơmie, chuyên gia về tai mũi họng danh tiếng ở Pháp thời bấy giờ. Hai năm sau đó Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, bị cắt đứt liên lạc với nước nhà, ông tiếp tục làm việc trong các bệnh viện ở Paris. Trong suốt những năm tháng ấy, ông miệt mài làm việc, nghiên cứu, đi sâu vào nghiệp vụ chuyên môn và tìm cách tiếp xúc với bạn bè tiến bộ người Việt Nam, người Pháp, trong đó có một số là đảng viên cộng sản.

Tin Cách mạng Tháng Tám thành công làm bừng lên hy vọng về một ngày mai tươi sáng trong lòng những người Việt Nam ở Pháp. Bác sĩ Trần Hữu Tước mong muốn được trở về nước ngay để góp sức nhỏ bé của mình vào phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Khi ấy, là một bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm, lại quen biết nhiều người trong y giới các nước, ông có thể sống một cuộc sống khá giả và lại có đủ mọi điều kiện để nghiên cứu khoa học.

Nhưng nguyện vọng tha thiết của bác sĩ Trần Hữu Tước là được trở về nước phục vụ đồng bào. Và khi cơ hội đến, ông không mảy may suy tính mà đưa ra ngay quyết định xin Chủ tịch Hồ Chí Minh cho cùng về nước trên chuyến tàu năm 1946. Trong thư gửi ông Phạm Văn Đồng - Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Fontainebleau, bác sĩ Trần Hữu Tước đã bày tỏ tình cảm của mình: “Các anh em bên nước nhà đã phải qua bao nhiêu thời kỳ kịch liệt gian truân, chúng tôi chẳng may chưa được gánh vác trực tiếp, rất lấy làm hổ thẹn; nguyện rằng sẽ dùng hết tâm cơ để đền bồi dòng máu chảy thiết tha cho nền độc lập” (Trần Hữu Tước - Cuộc đời và sự nghiệp, NXB Y học, 2013, tr.46).

Giáo sư Trần Hữu Tước ở ATK. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Trần Hữu Tước ở ATK. (Ảnh tư liệu)

Bác sĩ Trần Hữu Tước (đeo kính) tại bệnh khoa Tai Mũi Họng ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang. (Ảnh tư liệu)

Bác sĩ Trần Hữu Tước (đeo kính) tại bệnh khoa Tai Mũi Họng ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang. (Ảnh tư liệu)

Ông không mảy may suy tính mà đưa ra ngay quyết định xin Chủ tịch Hồ Chí Minh cho cùng về nước trên chuyến tàu năm 1946.

Đặt chân về Hà Nội được ít ngày, ông được giao nhiệm vụ xây dựng ngành Tai Mũi Họng Việt Nam. Nền y học nước ta khi ấy còn kém phát triển, chuyên ngành Tai Mũi Họng chưa được quan tâm, nhân dân, cán bộ và ngay cả trong y giới cũng ít người biết đầy đủ về chuyên khoa này. Theo những ghi chép sau này của bác sĩ Trần Hữu Tước thì cả Đông Dương khi ấy chỉ có một cơ sở tai mũi họng ở Bệnh viện Bạch Mai, mà khi ông về tiếp quản thì có một cán bộ tai mũi họng chuyên môn 2 năm, 1 phòng mổ trang bị hết sức lạc hậu, 1 phòng điều trị với 30 giường bệnh luộm thuộm.

  

Đặt chân về Hà Nội được ít ngày, ông được giao nhiệm vụ xây dựng ngành Tai Mũi Họng Việt Nam. Nền y học nước ta khi ấy còn kém phát triển, chuyên ngành Tai Mũi Họng chưa được quan tâm, nhân dân, cán bộ và ngay cả trong y giới cũng ít người biết đầy đủ về chuyên khoa này. Theo những ghi chép sau này của bác sĩ Trần Hữu Tước thì cả Đông Dương khi ấy chỉ có một cơ sở tai mũi họng ở Bệnh viện Bạch Mai, mà khi ông về tiếp quản thì có một cán bộ tai mũi họng chuyên môn 2 năm, 1 phòng mổ trang bị hết sức lạc hậu, 1 phòng điều trị với 30 giường bệnh luộm thuộm.

Ông viết: “Tôi hỏi một cái kim trích rạch màng tai, mọi người đều ngơ ngác như nghe một cái gì kỳ lạ, tôi hỏi một ống soi nội quản, mọi người nói không có bao giờ. Vậy mà sau đấy chúng tôi tìm thấy một bộ soi nội quản còn bọc nguyên trong giấy dầu xếp trong kho, mở ra đã han rỉ. Thì ra giáo sư chủ nhiệm khoa người Pháp trước đây không trích rạch màng tai bao giờ, không soi nội quản cho ai, và trình độ kỹ thuật của họ, chỉ có ở mức cắt amidan nạo vá xương chũm khi đã vỡ ra ngoài” (Bản đánh máy Những năm phấn đấu trong ngành Tai Mũi Họng Việt Nam của GS Trần Hữu Tước, 1966).

Cơ sở vật chất thì thiếu thốn, còn trong nhân dân, tuy nhiều người mắc bệnh tai mũi họng, nhưng cũng ít ai nghĩ đến việc đến bác sĩ chữa trị, mà thường tự chữa theo dân gian. Nhiều người còn cho rằng thối tai, thò lò mũi là lành, hoặc chữa bằng cách đổ nước mắm vào để trị thối tai, hoặc hóc xương thì nuốt nắm cơm to cho xương trôi xuống… Trong ngành y cũng có một số người quan niệm chuyên khoa tai mũi họng chẳng qua chỉ là ngoáy mấy cái tai thối, xông vài cái mũi bị tắc.

Trước những vấn đề đặt ra chồng chất, bác sĩ Trần Hữu Tước tranh thủ thời gian ngày đêm đọc các sách lý luận, nghiệp vụ, các tài liệu liên quan trực tiếp đến việc xây dựng bài giảng, tranh thủ ý kiến các đồng nghiệp ngành y, các cán bộ lãnh đạo, sinh viên, cán bộ nhân viên phục vụ… Ông mới giảng được một bài đầu tiên ở trường Đại học Y và chuẩn bị đưa đề án xây dựng ngành Tai Mũi Họng ra thực hiện thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Thế là mọi việc đành phải xếp lại, tất cả tập trung cho cuộc chiến đấu của quân và dân thủ đô.

Đầu năm 1947, ông cùng nhiều đồng nghiệp được lệnh rút ra khỏi Hà Nội, với nhiệm vụ vừa phục vụ chiến đấu vừa bảo đảm việc xây dựng được ngành Tai Mũi Họng phải đáp ứng được yêu cầu phục vụ trực tiếp cuộc kháng chiến, đồng thời tạo cơ sở cho sự phát triển lâu dài của ngành sau này. Xây dựng tổ chức, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học… tất cả đều còn mới mẻ và khó khăn.

Giáo sư Trần Hữu Tước (giữa) cùng các học trò Trần Hữu Tuân, Đinh Thị Nguyệt nhân ngày thành lập Viện Tai Mũi Họng Trung ương, 1969. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Trần Hữu Tước (giữa) cùng các học trò Trần Hữu Tuân, Đinh Thị Nguyệt nhân ngày thành lập Viện Tai Mũi Họng Trung ương, 1969. (Ảnh tư liệu)

Giai đoạn năm 1947-1951, bác sĩ Trần Hữu Tước cùng với các đồng nghiệp, học trò hoạt động, tuyên truyền mở rộng cơ sở ở Liên khu 3, Liên khu 4, đặc biệt là ở các tỉnh Hà Nam, Nam Định và Thanh Hóa. Trong hai năm (1947-1948) tổ Tai Mũi Họng do bác sĩ Trần Hữu Tước phụ trách đã đi phục vụ khám chữa bệnh ở hơn 30 địa điểm trong vùng Liên khu 3. Nhờ củng cố chặt chẽ quan hệ với nhân dân và tích cực tranh thủ khám, chữa bệnh nên ngày càng nhiều người biết đến chuyên khoa tai mũi họng. Nhưng một khó khăn mới đến với các ông là bông băng, thuốc men thiếu thốn trầm trọng. Bác sĩ Trần Hữu Tước đành bán mấy bộ quần áo mang từ Pháp về để mua bông băng, cũng dùng tạm được một thời gian ngắn.

Đến năm 1948, tổ Tai Mũi Họng được phép thành lập bệnh khoa Tai Mũi Họng (Chữ do Giáo sư Trần Hữu Tước dùng để nói về ngành Tai Mũi Họng lúc bấy giờ) ở Khu 3 - cơ sở Tai Mũi Họng đầu tiên trong kháng chiến, cơ sở lưu động với một số dụng cụ y tế do thợ rèn và thợ nguội chế tạo bằng tay. Lúc này, bác sĩ Trần Hữu Tước bắt đầu chú ý tới một số đề tài nghiên cứu khoa học.

Sang đến năm 1950, bệnh khoa lại được phép thành lập bệnh khoa Tai Mũi Họng chung cho Khu 3, Khu 4. Lúc đầu bệnh khoa đóng ở Sở Kiện (Hà Nam), nhưng do địch bắn phá ác liệt quá nên phải rời vào Thanh Hóa, lập cơ sở trong một ngôi chùa. Các cơ sở trên, tuy còn nhỏ bé, nhưng rất có ý nghĩa, là nơi điều trị, nghiên cứu và góp phần đào tạo cán bộ cho kháng chiến. Bệnh khoa tranh thủ và tận dụng mọi điều kiện sẵn có để phát triển ngành. Xe đạp được cải tiến để phát điện soi khám tai mũi họng và tiến hành một số phẫu thuật tai mũi họng phức tạp.

Giáo sư Trần Hữu Tước (người thứ hai từ trái sang) trong một ca hội chẩn với các bác sĩ và sinh viên nội trú (26/9/1974). (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Trần Hữu Tước (người thứ hai từ trái sang) trong một ca hội chẩn với các bác sĩ và sinh viên nội trú (26/9/1974). (Ảnh tư liệu)

Trong kháng chiến, mặc dù còn thiếu thốn nhiều phương tiện, thuốc men, nhưng bác sĩ Trần Hữu Tước đã làm được khá nhiều việc tưởng như không thể, tiến hành một số phẫu thuật lớn mà ở Bệnh viện Bạch Mai trước kia của người Pháp chưa bao giờ làm.

Giáo sư Trần Hữu Tước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (hàng thứ nhất, từ phải sang) cùng một số cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô cuối tháng 2/1947. (Ảnh tư liệu/Báo Quân đội nhân dân)

Giáo sư Trần Hữu Tước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (hàng thứ nhất, từ phải sang) cùng một số cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô cuối tháng 2/1947. (Ảnh tư liệu/Báo Quân đội nhân dân)

Đến năm 1951, bác sĩ Trần Hữu Tước sức khỏe giảm sút và lâm bệnh nên được Trung ương gửi sang Trung Quốc chữa bệnh. Năm 1952 về nước, ông bắt tay ngay vào việc nghiên cứu xây dựng bệnh khoa Tai Mũi Họng Trung ương. Ông đã chỉ đạo thành lập tại Việt Bắc một bệnh khoa Tai Mũi Họng với 60 giường bệnh, 2 phòng mổ, 4-5 cán bộ phục vụ bệnh nhân. Khi xây dựng cơ sở bệnh khoa tại Việt Bắc, các học trò thường ngăn bác sĩ Trần Hữu Tước lao động, không muốn để ông gác đêm, sợ ảnh hưởng tới sức khỏe nhưng ông vẫn hăng hái tham gia. Trong những năm từ năm 1952-1954, tại cơ sở Tai Mũi Họng này, bác sĩ Tước cùng đồng nghiệp đã khám bệnh, điều trị, phục vụ các chiến dịch Tây Bắc, Điện Biên Phủ.

Khi xây dựng cơ sở bệnh khoa tại Việt Bắc, các học trò thường ngăn bác sĩ Trần Hữu Tước lao động, không muốn để ông gác đêm, sợ ảnh hưởng tới sức khỏe nhưng ông vẫn hăng hái tham gia.

Trong kháng chiến, mặc dù còn thiếu thốn nhiều phương tiện, thuốc men, nhưng bác sĩ Trần Hữu Tước đã làm được khá nhiều việc tưởng như không thể, tiến hành một số phẫu thuật lớn mà ở Bệnh viện Bạch Mai trước kia của người Pháp chưa bao giờ làm. Ông cũng đã bắt đầu nghiên cứu một số vấn đề bệnh tật tai mũi họng trẻ em, một số trường hợp viêm tai giữa thể nặng và đã nghiên cứu áp dụng có kết quả việc dùng Philatop chữa bệnh trĩ mũi.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám, khi ngành Tai Mũi Họng hầu như không có gì, chưa ai để ý đến, thì đến khi hòa bình lập lại (1954) đã có một vị trí nhất định và đã có những đóng góp không nhỏ vào việc phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến.

Những bước phát triển vượt bậc

của ngành Tai Mũi Họng Việt Nam

Kết thúc 9 năm kháng chiến, bác sĩ Trần Hữu Tước về Hà Nội tiếp quản Bệnh viện Bạch Mai và bắt tay vào xây dựng ngành Tai Mũi Họng trong hoàn cảnh mới. Vào thời điểm đó, ngành này còn chưa được chú trọng và quan tâm nhiều, do vậy bác sĩ Trần Hữu Tước phải trực tiếp giải thích, nhiều khi tranh luận để các cơ quan chức năng và nhân dân thấy được tầm quan trọng cần phải phát triển ngành.

Trang thiết bị thời kỳ này cũng gần giống như những năm kháng chiến, thiếu thốn đủ mọi bề, từ chiếc ghế khám, dụng cụ giải phẫu lại càng thiếu trầm trọng, nhất là với những phẫu thuật phức tạp như mổ điếc thì hoàn toàn không có thiết bị. Mãi đến năm 1958 khi đi dự một hội nghị tai mũi họng quốc tế, Giáo sư Trần Hữu Tước mới xin được một bộ dụng cụ để mổ điếc. Tình hình đó đặt ra vấn đề là phải gấp rút đào tạo cán bộ, tổ chức mạng lưới cơ sở rộng khắp và được củng cố về mọi mặt, tổ chức giảng dạy và nghiên cứu…

Giáo sư Trần Hữu Tước giảng bài cho sinh viên. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Trần Hữu Tước giảng bài cho sinh viên. (Ảnh tư liệu)

Cho đến năm 1966, ngành tai mũi họng vẫn chỉ là một khoa trực thuộc Bệnh viện Bạch Mai (đến năm 1969 mới thành Viện Tai Mũi Họng Trung ương), tuy vậy sự phát triển của ngành đã có những bước tiến vượt bậc so với năm 1954. Mặc dù giữ nhiều cương vị khác nhau như Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, Phó Chủ tịch Tổng hội Y học, Phó Chủ tịch Hội chữ thập đỏ… nhưng bác sĩ Trần Hữu Tước vẫn dành sự quan tâm bậc nhất cho việc xây dựng và phát triển ngành tai mũi họng.

Ngoài giảng dạy theo học trình đào tạo ở trường Đại học Y, mặc dù sức khỏe không được tốt nhưng ông còn tranh thủ thời gian, hướng dẫn các cán bộ ngoài giờ, buổi trưa, buổi tối, chủ nhật, ngày lễ hay bất cứ lúc nào.

Cùng với các giáo sư khác của trường Đại học Y Hà Nội như Giáo sư Tôn Thất Tùng, Giáo sư Đặng Vũ Hỷ, Giáo sư Vũ Công Hòe, Giáo sư Đỗ Xuân Hợp, Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên… Giáo sư Trần Hữu Tước đã khắc phục khó khăn, đúc rút kinh nghiệm thực tế qua 9 năm kháng chiến chống Pháp để từng bước xây dựng và phát triển chuyên khoa tai mũi họng.

Giáo sư Trần Hữu Tước cho rằng điểm quan trọng đầu tiên khi xây dựng ngành Tai Mũi Họng là đề cao công tác điều trị và phòng bệnh. Ở khía cạnh này, ông luôn đề cao công tác tuyên truyền, vận động để y giới và nhân dân biết đến những bệnh nguy hiểm về tai mũi họng như áp xe đại não, tiểu não, viêm màng não do tai, viêm tĩnh mạch bên… gây nhiều tử vong.

Giáo sư Trần Hữu Tước cho rằng điểm quan trọng đầu tiên khi xây dựng ngành tai mũi họng là đề cao công tác điều trị và phòng bệnh.

Là một giáo sư của trường Đại học Y, đồng thời cũng là một bác sĩ trực tiếp chữa bệnh cho nhân dân, ông luôn quan niệm: “Đặt quyền lợi bệnh nhân lên trên hết, không làm gì hại cho bệnh nhân, trên mọi trường hợp khó khăn nan giải, lấy tư tưởng ấy chỉ đạo để giải quyết và thường truyền đạt cho cán bộ công nhân viên, tránh những xu hướng đơn thuần: khoa học vì khoa học, hay vì danh vị, tiếng tăm mà phải xác định: tất cả vì bệnh nhân trước đã” (Bản đánh máy "Những năm phấn đấu trong ngành Tai Mũi Họng Việt Nam" của Giáo sư Trần Hữu Tước, 1966).

Coi người bệnh như người thân nên ông luôn có tinh thần sẵn sàng phục vụ không điều kiện, dù ngày hay đêm, dù mệt nhọc đến đâu nhưng khi người bệnh cần là có ngay. Trong công tác điều trị bệnh, Giáo sư Trần Hữu Tước đã chỉ đạo tập trung giải quyết các bệnh hiểm nghèo về tai mũi họng mà từ trước chưa phát hiện được.

Cho đến cuối những năm 1960, ngành Tai Mũi Họng đã giải quyết được một số vấn đề quan trọng như: Phát triển những phương pháp chữa trị mà trước đây chưa áp dụng ở Việt Nam như các cách mổ tai, mổ mũi, mổ họng; Phát triển ngành soi nội quản, giải quyết mỗi năm 500-600 người hóc đường ăn và hàng ngày mấy chục người hóc đường thở, giảm thiểu số lượng tử vong; Thực hiện được một loạt thủ thuật mới, có thể mở khí quản trong 2-3 phút cho các trường hợp ngạt thở, hoặc quan tâm đến việc tổ chức tiểu phẫu, hậu phẫu của tổ cấp cứu, giải quyết hàng năm trên 900 ca cấp cứu rất nặng với tỷ lệ tử vong rất thấp 5-6%...

Đặc biệt, kể từ năm 1958, khi lực lượng cán bộ ngày một tăng lên, có thêm được phương tiện máy đo điếc, dụng cụ đo điếc, máy thanh học… Giáo sư Trần Hữu Tước đã chỉ đạo cán bộ của mình sử dụng những phương pháp tiên tiến, hiện đại nhất để phục vụ bệnh nhân, như mổ điếc với các sáng kiến cải tiến thích hợp, thay miếng trung gian bằng sụn…

Ông viết về những thành tựu đạt được: “Có thể nói về phương diện điều trị và thủ thuật thì không có một thủ thuật hiện đại nào ở nước ngoài mà tai mũi họng Việt Nam không làm được và có nhiều kinh nghiệm, cải tiến đáng kể. Đó là niềm tự hào chính đáng của ngành tai mũi họng không những ở trung ương mà một số cơ sở địa phương đã làm được những thủ thuật tiên tiến” (Bản đánh máy "Những năm phấn đấu trong ngành Tai Mũi Họng Việt Nam" của Giáo sư Trần Hữu Tước, 1966).

Trong việc xây dựng các chuyên khoa nhỏ của ngành tai mũi họng hay việc trực tiếp điều trị bệnh cho nhân dân thì việc đào tạo đội ngũ cán bộ y bác sĩ kế cận là vô cùng quan trọng. Song song với việc nâng cao trình độ, nội dung giảng, từ năm 1963, Giáo sư Trần Hữu Tước đã đề xuất thành lập các phân môn trong Bộ môn Tai Mũi Họng (trường Đại học Y Hà Nội), mạnh dạn đề bạt, bồi dưỡng cán bộ trẻ, và tạo điều kiện để họ đi sâu vào nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, ông còn viết nhiều tài liệu in trong các tạp chí, tập san, đồng thời đã làm xong 2 tập bài giảng Tai Mũi Họng dày 800 trang để phục vụ giảng dạy đại học và viết tài liệu tai mũi họng giảng cho đối tượng trung cấp và hàm thụ. Với quyết tâm và nỗ lực không biết mệt mỏi, tính đến cuối năm 1966, trên toàn miền bắc đã có gần 200 cán bộ công tác tại chuyên ngành Tai Mũi Họng, bác sĩ, y sĩ.

Có thể nói về phương diện điều trị và thủ thuật thì không có một thủ thuật hiện đại nào ở nước ngoài mà Tai Mũi Họng Việt Nam không làm được và có nhiều kinh nghiệm, cải tiến đáng kể.

Khi các phương tiện xét nghiệm chưa phát triển, ông đặt vấn đề trọng tâm là nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm, tập trung cho các dấu hiệu lâm sàng, làm cơ sở để đặt ra vấn đề nghiên cứu cơ bản vững chắc, và thực tế hơn. Từ sau 1954, ông tập trung nghiên cứu và hướng dẫn nghiên cứu những vấn đề như hóc đường ăn, dị vật đường thở, viêm tai xương chũm trẻ em, viêm tai gây nhiễm độc thần kinh.

Đặc biệt, nghiên cứu kỹ những vấn đề ung thư vòm mũi họng (lần đầu tiên ở Việt Nam); những dấu hiệu X-quang của cholesterone ở Việt Nam (Hai vấn đề nghiên cứu này được trình bày ở hội nghị tai mũi họng quốc tế diễn ra tại Leningrat (1958). Khi các phương tiện khám, chẩn đoán tương đối nhiều hơn, Giáo sư Trần Hữu Tước đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề cao hơn, sâu hơn như: mổ điếc, ung thư thanh quản hạ họng, u quanh họng (phương pháp mổ cải tiến), áp xe não, tiểu não...

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với các trí thức năm 1964 (Giáo sư Trần Hữu Tước ngồi bên trái Bác Hồ). (Ảnh tư liệu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với các trí thức năm 1964 (Giáo sư Trần Hữu Tước ngồi bên trái Bác Hồ). (Ảnh tư liệu)

Anh hùng Lao động Trần Hữu Tước (phải) tại Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc (12/1966).

Anh hùng Lao động Trần Hữu Tước (phải) tại Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc (12/1966).

Coi người bệnh như người thân nên ông luôn có tinh thần sẵn sàng phục vụ không điều kiện.

Từ năm 1955-1965, Giáo sư Trần Hữu Tước đã đóng góp 20 đề tài nghiên cứu chính, trong đó có 10 đề tài quan trọng. Nổi bật nhất là đề tài “Phương pháp tận dụng niêm mạc xoang lê trong phẫu thuật ung thư thanh quản hạ họng” nghiên cứu trong những năm 1960-1965, được Ủy ban khoa học Nhà nước đánh giá cao và được Chính phủ tặng khen thưởng. Ngoài ra, ông và các học trò đã công bố nhiều công trình có giá trị thực tiễn như: Viêm tai xương chũm hài nhi (1956); Điều trị điếc (1977); Dị vật thanh quản, thực quản (1957); Khối u đặc vòm mũi họng (1958); Khối u quanh họng và đường mổ mới; Điều trị chấn thương tai mũi họng (1964); Ung thư vòm mũi họng (1964); Ung thư hạ họng thanh quản (1965)…

Trong nghiên cứu thời kỳ này, Giáo sư Trần Hữu Tước dành nhiều tâm huyết với vấn đề Ung thư thanh quản hạ họng. Đây là loại ung thư rất phổ biến ở Việt Nam, bệnh nhân đến khám thường quá chậm, không ăn được, không nói được, khó thở. Giáo sư Trần Hữu Tước viết về vấn đề này: “Trước đây khi định bệnh là loại ung thư này tức là một tuyên án tuyệt vọng, nhưng chúng tôi không sao để như vậy… Phải tìm một phương pháp nào. Chúng tôi ngày đêm nghiên cứu tài liệu, thí nghiệm hiểm hóc này” (Bản đánh máy "Những năm phấn đấu trong ngành Tai Mũi Họng Việt Nam" của Giáo sư Trần Hữu Tước, 1966).

Ông có ghi lại hành trình này: “Nghiên cứu miệt mài gần 2 năm trời, chúng tôi tìm ra cách giải quyết chắc chắn là lấy niêm mạc ở vùng xoang lê bên lành hay tương đối lành, có thể làm được một ống ăn mới, trong một thì, nếu khâu một cách đặc biệt. Chúng tôi cùng phân môn thanh học lại nghiên cứu các âm tố Việt Nam để hướng dẫn bệnh nhân cắt bỏ thanh quản do ung thư, tập nói giọng thực quản, đạt kết quả dễ dàng khả quan, bệnh nhân không bị mất tiếng nói...” (Bản đánh máy Những năm phấn đấu trong ngành Tai Mũi Họng Việt Nam của GS Trần Hữu Tước, 1966).

Điểm lại quá trình phấn đấu của bản thân trong ngành Tai Mũi Họng Việt Nam trong suốt những năm khó khăn của đất nước, Giáo sư Trần Hữu Tước viết: “Tôi bồi hồi nhớ lại những ngày sống tha hương, xa Tổ quốc, luôn luôn hướng về Tổ quốc với lòng mong muốn quê hương đất nước thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, thực hiện cuộc sống tự do hạnh phúc, trong đó ngành chuyên khoa của mình phát triển mạnh mẽ, phục vụ đắc lực nhân dân lao động, và bản thân mình trở thành một người thực sự của nhân dân”.

Với sự cố gắng và hy sinh quên mình, Giáo sư Trần Hữu Tước đã góp phần xây dựng, phát triển ngành tai mũi họng một cách toàn diện, nhanh chóng về mặt lâm sàng và kinh nghiệm không kém gì nước ngoài.

Ngày xuất bản: 9/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - HỒNG VÂN
Nội dung: NGUYỄN THANH HÓA
Thực hiện: THIÊN LAM - NGỌC DIỆP
Ảnh:
Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam,
Báo Nhân Dân, Báo QĐND, TTXVN

E-Magazine I nhandan.vn