
Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.
Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.
Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.
Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.


Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.
Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.
"Thế hệ trí thức vàng Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo".
Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.
Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.
Giáo sư Đặng Văn Ngữ sinh ngày 4/4/1910 tại làng An Cựu, Huế, trong gia đình nhà nho nghèo nhưng trọng giáo dục. Năm 1937, ông tốt nghiệp Y khoa Đại học Đông Dương, trở thành trợ giảng người Việt đầu tiên tại Trường Đại học Y‑Dược. Năm 1942, ông là Trưởng labo Ký sinh trùng và đã hoàn thành 19 nghiên cứu khoa học giá trị.
Giáo sư Đặng Văn Ngữ là người đã nghiên cứu thành công cách sản xuất ra thuốc Penicillin - loại kháng sinh đóng vai trò to lớn trong điều trị chống nhiễm khuẩn.
Năm 1955, Giáo sư Đặng Văn Ngữ sáng lập ra Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ông tập trung nghiên cứu phòng, chống và điều trị căn bệnh sốt rét trên những cánh rừng Trường Sơn.
Ngày 1/4/1967, Giáo sư Đặng Văn Ngữ hy sinh trong một trận B52 rải thảm ở Trường Sơn trong khi đang nghiên cứu về vaccine chống sốt rét.
Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng Lao động cùng Giải thưởng Hồ Chí Minh về 2 công trình bào chế dung dịch penicilin sử dụng chữa vết thương trong kháng chiến chống Pháp và điều tra về loài muỗi sốt rét ở Việt Nam...
Những năm tháng tu nghiệp ở Nhật Bản, bác sĩ Đặng Văn Ngữ luôn hướng về Tổ quốc. Ông luôn đau đáu một nỗi niềm, làm sao có thể đóng góp sở học của mình cho nhân dân, góp phần vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
Vượt qua gian khó và thiếu thốn, bằng sự sáng tạo với tinh thần cống hiến, ông đã tạo ra một “bước ngoặt” lớn cho nền y tế kháng chiến, đó là chế tạo ra Penicillin để điều trị ngay tại chiến trường cho hàng nghìn thương bệnh binh. Những năm kháng chiến chống Mỹ, ông đã dấn thân vào nơi đạn lửa ác liệt nhất với một khát khao tìm ra vaccine loại trừ bệnh sốt rét ác tính.
Ông đã cống hiến đến hơi thở cuối cùng cho nền y học cách mạng và sức khỏe cộng đồng tại chiến trường Thừa Thiên-Huế khi công việc thử nghiệm vaccine phòng sốt rét còn dang dở. Đây là một sự mất mát lớn với ngành y tế Việt Nam. Những dấu ấn y học kháng chiến của Giáo sư Đặng Văn Ngữ có nhiều câu chuyện còn được kể mãi tới sau này…
“Trò xiếc thí nghiệm”
và xưởng chế tạo kháng sinh Penicillin tại chiến trường

Năm 1943, bác sĩ Đặng Văn Ngữ sang Nhật Bản để du học. Thời điểm đó, ông là trưởng Labo thí nghiệm Ký sinh trùng, Trường đại học Y Đông Dương và đã công bố hàng chục công trình nghiên cứu khoa học có giá trị.
Trong thời gian tu nghiệp ở Nhật Bản, ông tìm ra giống nấm sản xuất Penicillin và công bố 4 công trình khoa học có giá trị là: “Xác định loại nấm có tính kháng sinh cao”; “Xác định công thức kháng sinh nguyên Salmonella”; “Đặc điểm tiến hóa của D. Mansoni”.
Trong suốt thời gian ở nước Nhật, lòng ông luôn hướng về Tổ quốc. Ông từng tâm sự, ông không thể yên tâm làm việc và nhận các đãi ngộ vật chất khi nhân dân đang gian khổ, hy sinh cho cuộc kháng chiến trường kỳ, giành độc lập dân tộc. Giống như nhiều trí thức khác, ông khát khao mau chóng trở về và đem tri thức mà ông học tập được để phục vụ nhân dân, phục vụ những chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu ngoài mặt trận.
Cuối năm 1949, ông lên đường trở về nước với những hành trang quý giá là kiến thức y học của Nhật Bản, các nước Phương Tây và đặc biệt là mang theo Souche Penicillium (giống Penicillium) để điều chế thuốc kháng sinh Penicillin.
Giống như nhiều trí thức khác, ông khát khao mau chóng trở về và đem tri thức mà ông học tập được để phục vụ nhân dân, phục vụ những chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu ngoài mặt trận.
Trên đường về nước, khi dừng chân ở Thái Lan, bác sĩ Đặng Văn Ngữ nhận được lời khuyên nên về vùng kháng chiến ở Nam Bộ. Khi ấy, ông đã chuẩn bị các giống nấm kháng sinh để làm penicillin và streptomycin. Trong khi chờ đợi chỉ thị của Trung ương, ông đã nghiên cứu nuôi nấm penicillin với nước dừa – là nguyên liệu sẵn có ở miền nam. Ông đã mua một số dụng cụ thí nghiệm bằng thủy tinh nhằm chuẩn bị lập một phòng nghiên cứu về kháng sinh ở miền nam.
Cuối tháng 12/1949, bác sĩ Đặng Văn Ngữ trở về Liên khu IV, giữa lúc hội nghị khoa học của khu đang được tổ chức. Ông chọn rất kỹ nơi lưu trữ chủng nấm chiết xuất ra kháng sinh penicillin mang từ Nhật Bản về nhưng khi mở gói nấm dùng để làm penicillin ra xem lại thì thấy nấm không còn công hiệu vị đã bị lẫn lộn bởi những nấm tạp từ bên ngoài.
Đó là điều đau xót nhất với ông bởi trên đường trở về nước bởi tâm niệm lớn nhất của ông là phải sản xuất kháng sinh penicillin. Những ngày sau đó, ông chỉ nghĩ đến nấm. Bất kể ngày đêm, ông chỉ loay hoay với những ống nghiệm về nấm. Những dòng hồi ký của ông đầy đau đáu: “Ngày ngày tôi cấy hàng trăm cái nấm lấy ở ống giống ra để thử với vi trùng. Nhưng ngày nào cũng như ngày nào, vi trùng đều mọc quanh cái nấm chứng tỏ rằng nấm không còn có tác dụng nữa. Đêm đến, vấn đề nấm đeo đuổi tôi mãi không ngủ được”.
Alexander Fleming - người tìm ra penicilin.
Alexander Fleming - người tìm ra penicilin.
Chất kháng sinh là một phát hiện có ý nghĩa to lớn đối với y học thế giới, tuy nhiên nó chỉ được xuất hiện vào những năm 20 của thế kỷ trước. Penicillin được phát hiện bởi Alexander Fleming vào năm 1928, khi ông vô tình để nấm mốc lọt vào thí nghiệm và quan sát thấy vi khuẩn đã biến mất xung quanh nấm mốc.
Ông đã dùng ngay tên loại nấm Penicillin để đặt cho chất mà mình vừa tìm ra, nhưng phải 10 năm sau thì penicillin mới được nhà hoá sinh người Anh gốc Đức - Ernest Chain và nhà nghiên cứu bệnh học Australia - Howard Florey cùng một số nhà khoa học khác nghiên cứu kỹ. Theo các nhà y học thì Penicillin sát trùng bằng cách giết vi khuẩn và hạn chế sự sinh trưởng của chúng.
Trong Chiến tranh thế giới II, một nhóm các nhà khoa học tìm kiếm cách chữa trị cho những vết thương bị nhiễm trùng của binh sĩ đã tình cờ phát hiện ra khám phá của Fleming và thử nghiệm với một dạng của nấm mốc đó. Ngay sau đó, nó được sản xuất với số lượng lớn để được đưa ra các mặt trận.
GS Đặng Văn Ngữ trình bày công trình chiết xuất Penicilline với Chủ tịch Hồ Chí Minh. (Ảnh tư liệu)
GS Đặng Văn Ngữ trình bày công trình chiết xuất Penicilline với Chủ tịch Hồ Chí Minh. (Ảnh tư liệu)
Sự lo lắng và kiên trì của bác sĩ Đặng Văn Ngữ cuối cùng cũng có kết quả. Một hôm, khi ông trở dậy vào 3 giờ sáng và kiểm tra những ống nghiệm của mình, những giống nấm được cấy đều có công hiệu và vi trùng không mọc được. Điều ấy có nghĩa là giống nấm ông mang về đã được thử nghiệm thành công và có khả năng được phổ biến rộng rãi.
Tại Liên khu IV, bác sĩ Đặng Văn Ngữ được tạo mọi điều kiện để hiện thực hóa những nghiên cứu của mình.
Tình hình cuộc kháng chiến ngày một ác liệt hơn, thương binh ngoài mặt trận ngày một nhiều hơn là lý do thôi thúc bác sĩ Đặng Văn Ngữ quyết tâm chiến thắng hoàn cảnh, đem penicillin để phục vụ cứu chữa thương bệnh binh.
Nhưng trong những năm tháng khó khăn ấy, dụng cụ và trang thiết bị để phục vụ nghiên cứu cũng là một trong những cản trở lớn để ông thực hiện những dự định.
Ảnh minh họa: Nữ y tá chăm sóc thương binh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh tư liệu)
Ảnh minh họa: Nữ y tá chăm sóc thương binh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh tư liệu)
Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đang kiểm tra "nước lọc penicillin" trong kháng chiến chống Pháp. (Ảnh tư liệu)
Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đang kiểm tra "nước lọc penicillin" trong kháng chiến chống Pháp. (Ảnh tư liệu)
Tết Nguyên đán năm 1950, ngôi chùa Yên Thành được sửa sang để làm phòng thí nghiệm nghiên cứu kháng sinh. Bác sĩ Đặng Văn Ngữ được 2 thanh niên giúp việc – là những người chưa hề biết đến những chiếc ống nghiệm hay giống nấm là gì, nhưng lòng nhiệt thành của họ thì rất lớn. Chính trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn ấy, những ống kháng sinh đầu tiên đã được bào chế thành công.
Sau này, trong cuốn hồi ký của mình, bác sĩ Đặng Văn Ngữ viết: “Chúng tôi không ngồi đợi có đầy đủ phương tiện mới nghiên cứu. Không có bàn, chúng tôi bầy mễ làm việc. Cân chính xác thiếu, chúng tôi đo bằng lối so thể tích. Ống tre thay cho eprouvette, đĩa là boite de Pétri, cylinder chỉ là những ống sậy. Cứ như thế, chúng tôi cọc cạch làm việc cho tới khi phi cơ oanh tạc Cát Văn. Phòng thí nghiệm không còn điện đàng hoàng như trước nữa. Mỗi lúc muốn làm bột penicillin chúng tôi phải bê dụng cụ đến tận Cát Văn và chính trong những khó khăn chật vật như thế, ba lọ penicillin bột đã ra đời, mỗi lọ chừng hai vạn đơn vị”. (Đặng Văn Ngữ - Một trí tuệ Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, 2014, tr.52)
Theo lời của Giáo sư Đặng Văn Ngữ thì những thành công ở Yên Thành được ví như một “trò xiếc thí nghiệm”. Ông nhấn mạnh: “Phòng thí nghiệm Yên Thành có một giá trị đáng ghi, nó chứng minh rằng với những nguyên vật liệu của xứ nhà, với những phương tiện tầm thường, chúng tôi đã làm được bội penicillin tiêm: Sáu vạn đơn vị penicillin sản xuất trong tháng 5/1950. Đây là công trình và kết quả của một “trò xiếc thí nghiệm” tài tình (Đặng Văn Ngữ - Một trí tuệ Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, 2014, tr.52)
Đây là công trình và kết quả của một “trò xiếc thí nghiệm” tài tình.
Việc chế tạo thành công bột penicillin là một kết quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn chồng chất. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ làm sao có thể sản xuất được thật nhiều penicillin, đáp ứng nhu cầu kháng khuẩn của các thương bệnh binh ngoài mặt trận? Làm sao để bất kỳ một cơ sở y tế nào cũng có thể sản xuất được penicillin, phổ biến nó một cách rộng rãi, thông dụng nhất. Đó là một câu hỏi đã khiến bác sĩ Đặng Văn Ngữ trăn trở suốt nhiều ngày đêm.
Tháng 5/1950, bác sĩ Đặng Văn Ngữ được mời lên Việt Bắc để phụ trách phòng thí nghiệm của trường Đại học Y khoa. Ở đó, ông đã có dịp tổ chức nghiên cứu các chất kháng sinh trên những nguyên tắc tổ chức mới. Ông nhận ra rằng, việc sản xuất penicillin kết tinh (bột) là một công việc đòi hỏi thời gian lâu dài, do vậy, nó không thể thỏa mãi được nhu cầu cấp thiết của quân đội và nhân dân.
Giáo sư Đặng Văn Ngữ trao đổi cùng Bộ trường Hoàng Tích Trí tại phòng thí nghiệm ở Tuyên Quang. (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Đặng Văn Ngữ trao đổi cùng Bộ trường Hoàng Tích Trí tại phòng thí nghiệm ở Tuyên Quang. (Ảnh tư liệu)
Một tổ sản xuất penicillin thiết lập ở một thôn là một bó đuốc khoa học đã nhóm cháy ở đấy, và người nông dân mộc mạc hồn nhiên sẽ được trông thấy cũng như rồi đây sẽ tự tay mình chế tạo lấy cái thứ thuốc thần diệu của y học hiện đại.
Tin chiến thắng ngoài mặt trận liên tiếp được báo về, nhưng đồng thời số thương binh cũng tăng lên nhiều và đòi hỏi một thứ thuốc có thể nhanh chóng chữa lành các vết thương. Bác sĩ Đặng Văn Ngữ và các giáo sư của trường Y đều nhận ra rằng nước lọc penicillin có tác dụng và hiệu lực hơn cả penicillin kết tinh nếu dùng nó để chữa trị tại chỗ các vết thương phẫu thuật nhiễm trùng. Xác định như vậy, ông đã quyết tâm và dành toàn bộ tâm trí để sản xuất nước lọc penicillin.
Để đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, việc sản xuất nước lọc penicillin không thể tiến hành ở một cơ sở hay một phòng thí nghiệm. Nó cần được phân tán thành nhiều tổ sản xuất, gắn liền với các đơn vị của bộ đội.
Giáo sư Đặng Văn Ngữ trong phòng thí nghiệm tại trường Đại học Y khoa (Chiêm Hóa). (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Đặng Văn Ngữ trong phòng thí nghiệm tại trường Đại học Y khoa (Chiêm Hóa). (Ảnh tư liệu)
Các lớp học điều chế nước lọc penicillin được thành lập, thu hút các dược sĩ, bác sĩ, sinh viên y dược, dược tá… Nước thân cây ngô có chứa glucose được nấu lên rồi cấy nấm bằng giống của phòng thí nghiệm được thực hiện đều đặn. Việc lấy nước từ thân cây ngô cũng là một sự sáng tạo, bắt nguồn từ hoàn cảnh của cuộc kháng chiến. Cây ngô rất sẵn trong nhân dân, nước từ thân cây ngô là môi trường lý tưởng để nuôi cấy nấm penicillin.
Thời gian huấn luyện kéo dài khoảng hai tuần là một người có thể nắm rõ các quy trình của việc nuôi cấy và sản xuất nước lọc penicillin. Song song với việc huấn luyện trực tiếp, Tập san penicillin được phát hành hàng tháng, cũng là một công cụ hữu hiệu để phổ biến kiến thức của phòng thí nghiệm của trường Đại học Y với các cơ sở ở địa phương.
Bác sĩ Đặng Văn Ngữ (thứ nhất từ phải sang) giảng bài cho sinh viên Đại học Y Dược (1952). (Ảnh tư liệu)
Bác sĩ Đặng Văn Ngữ (thứ nhất từ phải sang) giảng bài cho sinh viên Đại học Y Dược (1952). (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Đặng Văn Ngữ đánh giá mỗi tổ sản xuất nước lọc penicillin ở địa phương giống như một bó đuốc khoa học: “Một tổ sản xuất penicillin thiết lập ở một thôn là một bó đuốc khoa học đã nhóm cháy ở đấy, và người nông dân mộc mạc hồn nhiên sẽ được trông thấy cũng như rồi đây sẽ tự tay mình chế tạo lấy cái thứ thuốc thần diệu của y học hiện đại” (Đặng Văn Ngữ - Một trí tuệ Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, 2014, tr.55)
Vệc sản xuất được nước lọc penicillin của bác sĩ Đặng Văn Ngữ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là ở giai đoạn sau của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhờ đó mà nhiều thương binh được chữa khỏi, không bị cưa chân tay.
Giáo sư Hồ Đắc Di, Hiệu trưởng trường Đại học Y khoa nhận định: “Những thành tích sáng chói của nước lọc penicillin qua các chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám và gần đây nhất, kết quả rực rỡ của nước lọc penicillin trong chiến dịch Lý Thường Kiệt càng làm phấn chấn anh chị em dược tá penicillin đang cần cù và hăng hái xây dựng một ngành y mới của y học trong khi phục vụ tiền tuyến” (GS Hồ Đắc Di, Trí thức tinh hoa đương đại – Một số chân dung, Nxb Trẻ, 2014, tr.366)
Còn Giáo sư Tôn Thất Tùng, một trong những trụ cột của trường y trong kháng chiến thì cho rằng đó là một điều kỳ diệu. Ông nhấn mạnh: “Mỗi chiến dịch, quân y đưa ra tiền tuyến một tổ penicillin để sản xuất kháng sinh dùng ngay trên mặt trận. Đây là một thành tích kỳ diệu mà từ xưa đến nay, trong các cuộc chiến tranh du kích chưa ai đã làm được như vậy với những dụng cụ thô sơ, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn” (Tôn Thất Tùng – Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Y học, 1997, tr.45)
Mỗi chiến dịch, quân y đưa ra tiền tuyến một tổ penicillin để sản xuất kháng sinh dùng ngay trên mặt trận. Đây là một thành tích kỳ diệu mà từ xưa đến nay, trong các cuộc chiến tranh du kích chưa ai đã làm được như vậy với những dụng cụ thô sơ, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn.
Thành tựu sáng tạo của Giáo sư Đặng Văn Ngữ trong bối cảnh khó khăn đã góp phần vào thắng lợi vẻ vang của của cuộc kháng chiến chống Pháp. Penicillin đã được ghi vào lịch sử y khoa Việt Nam và Giáo Đặng Văn Ngữ sẽ được ghi nhớ mãi mãi với tư cách là Giáo sư Penicillin.
Người có ý tưởng sớm nhất
về vaccine phòng sốt rét trên thế giới

Việt Nam là nước nhiệt đới nên lưu hành nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, trong đó có sốt rét. Trước Cách mạng tháng 8/1945, bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã chú trọng đến công tác điều tra cơ bản về sốt rét. Khi còn học tập tại Nhật Bản (1943-1949), trong bức thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng năm 1949, ông đã đề cập đến vấn đề này: "…phong thổ nước ta là kiện tướng rất lợi hại, không khác gì vị tướng Tuyết đối với nước Nga. Vị tướng phong thổ đã dùng đạo binh “Sốt rét rừng” giúp ta đuổi bọn Pháp ra khỏi bờ cõi. Nhưng ta cũng nên nhớ rằng vị tướng ấy là vị tướng rất hay trở mặt nếu ta không biết dùng nó”.
Sau thành công trong việc nghiên cứu và sản xuất Penicillin, bác sĩ Đặng Văn Ngữ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quan trọng khác là nghiên cứu phòng chống sốt rét. Năm 1957, ông trở thành Viện trưởng sáng lập Viện Sốt rét (nay là Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương) và là Chủ nhiệm Chương trình tiêu diệt bệnh sốt rét ở miền bắc.
Ảnh minh họa. (Ảnh: Lê Anh - Báo Quân đội nhân dân)
Ảnh minh họa. (Ảnh: Lê Anh - Báo Quân đội nhân dân)
Trước đó, ông đã điều tra, nghiên cứu các loại muỗi trong đó có các loài gây sốt rét từ vấn đề lâm sàng, sinh thái học đến các vấn đề kinh tế xã hội, môi trường… Đây là cơ sở cho việc nghiên cứu tiêu diệt bệnh sốt rét ở miền bắc sau này.
Trong giai đoạn 1956-1958, Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã phân vùng sốt rét ở miền bắc thành 7 vùng dựa vào sinh địa cảnh, dịch tễ học và sự phân bố của muỗi truyền sốt rét - An.minimus. Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã chỉ đạo tiến hành khảo sát, điều tra toàn diện bệnh sốt rét trên miền bắc. Đồng thời các Ủy ban tiêu diệt sốt rét từ cấp trung ương đến địa phương được thành lập để thực hiện cuộc điều tra bệnh sốt rét lớn chưa từng có.
Nhờ sự viện trợ của Liên Xô, tính đến năm 1960-1961 có trên 3.000 điểm điều tra với 646.277 người được khám lách, 435.370 người được thử máu, 319.087 nhà được điều tra muỗi… Nhiều đoàn cán bộ được cử đến các tỉnh vùng Tây Bắc, đến Thanh Hóa, Nghệ An... để nghiên cứu sâu tình hình dịch bệnh; phân vùng sốt rét và tổ chức tiêu diệt sốt rét. Tại vùng sốt rét tiến hành phun thuốc diệt muỗi DDT với liều lượng 2gram/m2. Mỗi bình phun chứa được khoảng 10 lít nước thuốc.
Dựa trên kết quả cuộc điều tra trên, bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã cùng đồng nghiệp khái quát những yếu tố gây bệnh, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tiêu diệt sốt rét.
Bảng định loại muỗi Anophelinae ở Việt Nam.
Bảng định loại muỗi Anophelinae ở Việt Nam.
Theo bác sĩ Nguyễn Tiến Bửu, nguyên Viện phó Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng đồng thời là thành viên Chương trình tiêu diệt bệnh sốt rét, đến năm 1964, tỷ lệ sốt rét ở các địa phương đã giảm trung bình 15-20 lần, có nơi tỷ lệ chỉ còn 0,01%. Kết quả này là vô cùng đáng mừng bởi trước đó nhiều vùng nông thôn, miền núi có tới 90% dân số mắc bệnh.
Nhớ lại thời gian này, bác sĩ Nguyễn Thị Lịch – 1 trong 4 người tham gia cùng bác sĩ Nguyễn Thị Hợi, Trần Thị Lịch và Nguyễn Văn Sản tham gia đoàn nghiên cứu về sốt rét cuối tháng 4/1966 cho biết, theo chỉ đạo của Giáo sư Đặng Văn Ngữ, đoàn nghiên cứu bắt muỗi, định loại và mổ lấy tuyến nước bọt tìm thoa trùng và điều chế vaccine. Từ đó, tiến hành tiêm thử nghiệm để xem tính hiệu quả của vaccine.
Hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nên để nghiên cứu về tính an toàn của vaccine, những cán bộ nghiên cứu là những người thử nghiệm vaccine đầu tiên và thầy Đặng Văn Ngữ tiên phong thử mũi vaccine số 1. Bà Lịch nhớ lại, khi mũi tiêm chạm vào da thầy, cả phòng im phăng phắc. Một lúc sau, thầy đứng dậy, thản nhiên nói: 'Mình vẫn bình thường!'. Tất cả òa lên trong niềm vui sướng.
Sau mũi tiêm đầu tiên ấy, lần lượt 4 thành viên trong đoàn, trong đó có bà Lịch, cũng tham gia tiêm thử nghiệm. Dưới những tán rừng Trường Sơn, giữa tiếng bom đạn ngày đêm rền vang, họ lặng lẽ thực hiện một thí nghiệm chưa từng có tiền lệ – đặt cả sức khỏe, mạng sống của mình lên bàn cân khoa học.
Một trạm y tế, nơi các bác sĩ quân y đang điều trị cho bộ đội. (Ảnh tư liệu: Báo Quân khu bốn)
Một trạm y tế, nơi các bác sĩ quân y đang điều trị cho bộ đội. (Ảnh tư liệu: Báo Quân khu bốn)
Bản đồ phân vùng sốt rét (1958-1974) theo 7 phân vùng sốt rét do Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đề xuất.
Bản đồ phân vùng sốt rét (1958-1974) theo 7 phân vùng sốt rét do Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đề xuất.
Dưới những tán rừng Trường Sơn, giữa tiếng bom đạn ngày đêm rền vang, họ lặng lẽ thực hiện một thí nghiệm chưa từng có tiền lệ – đặt cả sức khỏe, mạng sống của mình lên bàn cân khoa học.
Nhật ký làm việc của GS Đặng Văn Ngữ được lưu ở Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
Nhật ký làm việc của GS Đặng Văn Ngữ được lưu ở Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
Nghiên cứu vaccine sốt rét thoa trùng thực địa tại Vĩnh Linh đã có kết quả, qua đó Giáo sư Đặng Văn Ngữ có niềm tin vaccine sốt rét thoa trùng lấy từ tuyến nước bọt muỗi nhiễm tự nhiên có khả năng phòng sốt rét. Hay tin ở nhiều vùng trên chiến trường miền nam, rất nhiều người hy sinh không chỉ vì bom đạn mà còn vì bệnh sốt rét đang hoành hành dữ dội, làm suy giảm sức chiến đấu của quân ta. Bên cạnh đó, nếu không ngăn chặn bệnh sốt rét từ bên kia vĩ tuyến 17 thì không thể bảo đảm được thành quả của công cuộc chống sốt rét tại miền bắc.
Từ thành tựu nghiên cứu, ông lại quyết tâm vào chiến trường miền nam Trị Thiên Huế, tiếp tục nghiên cứu, sản xuất vaccine sốt rét cho chiến trường tại chỗ để tiêm cho bộ đội đang chiến đấu gần với núi rừng Trường Sơn. Nhiều lần Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch trao đổi cân nhắc về chuyến công tác này và gợi ý nên cử cán bộ trẻ có kinh nghiệm vào nghiên cứu tình hình trước. Nhưng sự cấp bách của nhiệm vụ cùng quyết tâm khó lay chuyển của Viện trưởng Viện Sốt rét, cuối cùng cấp trên chấp thuận nguyện vọng của ông.
Để chuẩn bị cho chuyến công tác đường trường, vừa chuẩn bị nội dung, phương tiện nghiên cứu, Giáo sư Đặng Văn Ngữ vừa rèn luyện sức khỏe. Ông tập bỏ thói quen đi giày da để đi dép cao su. Với nhiều người, có lẽ việc này chẳng có gì đáng nói nhưng với người lúc nào cũng mang giày da bất kể mùa nóng, mùa lạnh như ông thì cũng trở thành vấn đề. Mỗi tối, ông còn tập vác balo gạch đi quanh nhà, dần dần đi quãng đường xa hơn...
Khoảng cuối năm 1966, Giáo sư Đặng Văn Ngữ cùng 12 cán bộ của Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng được bí mật đưa lên Lương Sơn (Hòa Bình) huấn luyện và rèn luyện sức khỏe. Ở tuổi 56, lại là lãnh đạo một Viện nghiên cứu, nhưng ông từ chối sự ưu tiên trong việc mang vác đồ và luôn nghiêm túc, gương mẫu trong luyện tập. Tết Nguyên đán năm 1967, tranh thủ thời gian ngừng bắn, cả đoàn bắt đầu di chuyển bằng ô-tô vào Vĩnh Linh (Quảng Trị) rồi đi bộ vào Trị Thiên-Huế.
Trước chuyến đi B, Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã kịp lên thăm mộ vợ ở Việt Bắc. Chuyến đi này, ông mong có thể về thăm quê hương Thừa Thiên-Huế, thăm mẹ già và những người ruột thịt sau bao năm xa cách. Chuẩn bị lên đường, ông không quên viết thư báo tin cho các con đang học tập ở xa.
Ảnh tư liệu của Viện sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương. (Nguồn: Dân trí)
Ảnh tư liệu của Viện sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương. (Nguồn: Dân trí)
Trong thư gửi con gái Đặng Nguyệt Quý (1/2/1967, khi đó đang học ở Liên Xô), ông viết: “Ba rất phấn khởi vì công việc rất cần thiết và cấp bách. Sau khi con đi, Ba vào Vĩnh Linh nghiên cứu trong 4 tháng và thấy có thể sản xuất được thuốc để tiêm phòng sốt rét, Ba sẽ đi B để sản xuất thuốc ấy trên một quy mô lớn hơn. Triển vọng rất nhiều nhưng khó khăn cũng rất nhiều. Ba sẽ cố gắng”.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Lanh, nguyên Phó Chủ nhiệm bộ môn Sinh lý bệnh, trường Đại học Y Hà Nội – một trong những học trò của Giáo sư Đặng Văn Ngữ kể rằng: Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã ấp ủ và nghiên cứu một loại vaccine từ thoa trùng muỗi (là một thế hệ mới của ký sinh trùng sốt rét) để phòng sốt rét, muốn ứng dụng ngay tại chiến trường. Đó chính là “ý tưởng sớm nhất về vaccine phòng sốt rét trên thế giới”. Có lẽ vì thế dù vào vùng bom đạn nguy hiểm nhưng đoàn đi B không nghĩ đến cái chết mà tràn đầy phấn khởi với niềm tin nghiên cứu thành công vaccine phòng, chống sốt rét.
Dù thiếu thốn, bom đạn nguy hiểm, nhưng ông vẫn yêu cầu các thành viên phải dựng nhà, làm phòng thí nghiệm sao cho khang trang, ngăn nắp để thuận tiện cho việc nghiên cứu. Với lòng quyết tâm, dù các bác sĩ, kỹ thuật viên, y tá không biết cách dựng nhà nhưng cuối cùng vẫn làm được.
Ngày cuối cùng của tháng 3/1967, đoàn công tác hết gạo ăn, 10 người được cử đến một Trung đoàn cách đó nửa ngày đi bộ để gánh gạo, chỉ còn lại Giáo sư Đặng Văn Ngữ và 2 nữ kỹ thuật viên. Sáng hôm ấy, trong bữa cơm với các đồng nghiệp, ông chia cho mọi người phần thức ăn của mình và đưa mỗi cán bộ nam một điếu thuốc lá quân lực. Ông vẫn luôn quan tâm đến mọi người như thế.
Dù vào vùng bom đạn nguy hiểm nhưng đoàn đi B không nghĩ đến cái chết mà tràn đầy phấn khởi với niềm tin nghiên cứu thành công vaccine phòng, chống sốt rét.
Đoàn 10 người ngủ lại Trung đoàn một đêm. Sáng sớm ngày 1/4, trên đường trở về, họ bắt cá rồi đem nướng để dành phần ngon nhất mang về cho Giáo sư Đặng Văn Ngữ. Nhưng đau xót thay, có ai ngờ, trận bom B52 ngày hôm ấy đã cướp mất ông và hai nữ kỹ thuật viên cùng một chiến sĩ liên lạc. Ông hy sinh tại cánh rừng ở quê nhà, bỏ lại bao dự định công việc còn dang dở, và không kịp về thăm mẹ như đã thầm hứa trước mộ vợ.
Trong hoàn cảnh chiến trường, cũng như bao chiến sĩ đã ngã xuống vì Tổ quốc, Giáo sư Đặng Văn Ngữ nằm lặng lẽ tại Trường Sơn suốt 20 năm cho đến khi được một tiều phu phát hiện và đưa về Nghĩa trang liệt sĩ vô danh xã Phong Mỹ (Huế). Đạo diễn, NSND Đặng Nhật Minh - con trai Giáo sư Đặng Văn Ngữ được biết, sở dĩ cha ông và những người hy sinh không được lập bia mộ là để tránh quân địch phát hiện hoạt động nghiên cứu của ta khi ấy. Đến năm 2000, gia đình mới tìm được và đưa ông về nghĩa trang họ Đặng trên núi Ngự Bình (Huế).
Trong một bài viết của mình, NSND Đặng Nhật Minh chia sẻ: “Cha tôi đã chia sẻ đến tận cùng số phận của đất nước, của nhân dân mình cho đến khi ông ngã xuống trên rừng Trường sơn trong một trận bom B-52 như bất cứ một người lính nào đã ngã xuống trên suốt dải đất này vì sự nghiệp cao cả và thiêng liêng của Tổ quốc”.
Giáo sư Đặng Văn Ngữ. (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Đặng Văn Ngữ. (Ảnh tư liệu)
Đã có lần, Giáo sư Đặng Văn Ngữ tâm sự với con, rằng khi nào tiêu diệt hết sốt rét ở cả hai miền bắc-nam, ông có chết cũng không ân hận. Chỉ tiếc, ông hy sinh khi mong ước của ông sắp thành hiện thực. Sinh ra ở Huế và cũng hy sinh tại mảnh đất quê hương, ông là một trí thức yêu nước, sống trọn với lý tưởng dân tộc. Những thế hệ học trò của ông sau này đã luôn nêu cao tấm gương của người thầy mẫu mực, nghiêm cẩn trong khoa học để tiếp nối những thành tựu nghiên cứu của ông để phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Ngày xuất bản: 26/8/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - HỒNG VÂN
Nội dung: NGUYỄN THANH HÓA
Thực hiện: THIÊN LAM - NGỌC DIỆP
Ảnh: Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam,
Viện sốt rét và ký sinh trùng, TTXVN
E-Magazine I nhandan.vn