Với mức tăng trưởng GDP 5,05%, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt mức 430 tỷ USD vào cuối năm 2023 và tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu. Phóng viên Báo Nhân Dân phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Thống kê về vấn đề này.
Phóng viên: Nhìn lại năm 2023, kinh tế Việt Nam đã có 1 năm tăng trưởng ấn tượng, dù thấp hơn mục tiêu đề ra. Theo Tổng cục trưởng, đâu là những thuận lợi, khó khăn để nền kinh tế có được mức tăng trưởng 5,05%?
Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Trong bối cảnh kinh tế thế giới bất ổn và đầy khó khăn, thách thức, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động, linh hoạt, quyết liệt, sát sao chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế.
Nhờ đó, giúp đẩy nhanh quá trình phục hồi và tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước những thách thức toàn cầu. Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng kinh tế Việt Nam năm 2023 đã đạt được kết quả khả quan cho thấy nền kinh tế tiếp tục có xu hướng phục hồi với mức tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước.
Điểm thuận lợi để kinh tế Việt Nam tiếp tục giữ đà tăng trưởng là nền tảng kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ kết hợp hiệu quả đã giúp kiểm soát lạm phát ở vùng an toàn, lãi suất điều hành giảm dần là cơ sở để giảm lãi suất cho vay hỗ trợ sản xuất.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục là “bệ đỡ” của nền kinh tế đang tích cực đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu vừa bảo đảm nguồn cung và an ninh lương thực, vừa gặt hái được nhiều kết quả tích cực tạo nên tăng trưởng ổn định trong thời gian qua.
Khối ngành dịch vụ đang từng bước phục hồi với điểm sáng là hoạt động du lịch tăng trưởng mạnh mẽ từ cuối tháng 4/2023 đã kích thích cầu tiêu dùng gia tăng; từ đó lan tỏa mạnh tới sản xuất của nhóm ngành dịch vụ khác như vận tải, lưu trú ăn uống, lữ hành, hoạt động nghệ thuật, vui chơi giải trí… là yếu tố tích cực trong tăng trưởng kinh tế.
Hoạt động công nghiệp dần phục hồi, chỉ số sản xuất công nghiệp đã có xu hướng tăng nhẹ trở lại. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế còn được hỗ trợ từ việc nỗ lực đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, kiểm soát lạm phát hiệu quả giúp ổn định dòng tiền.
Tuy nhiên, bên cạnh các yếu tố thuận lợi, đã xuất hiện một số khó khăn, thách thức kìm hãm tăng trưởng. Đó là tình trạng bất ổn về địa chính trị, kinh tế, xã hội toàn cầu khiến tổng cầu thế giới phục hồi yếu, lạm phát nhiều nước vẫn ở mức cao, chuỗi cung ứng thiếu ổn định, đã ảnh hưởng đến kinh tế trong nước.
Sản xuất công nghiệp tuy có chuyển biến tích cực nhưng còn chậm, chưa tạo được sự bứt tốc mạnh mẽ so với cùng kỳ năm 2022 chủ yếu do sụt giảm đơn hàng, chi phí đầu vào tăng cao, thiếu thị trường xuất khẩu đã ảnh hưởng đến nhiều ngành sản xuất công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến chế tạo.
Hoạt động xuất, nhập khẩu phục hồi chậm do nhu cầu thế giới giảm, chính sách tiền tệ thắt chặt và lạm phát vẫn ở mức cao. Thị trường bất động sản tiếp tục ảm đạm, dòng tiền luân chuyển hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh áp lực đáo hạn và trả nợ trái phiếu doanh nghiệp năm 2023 lớn.
Thu hút đầu tư nước ngoài chưa phát huy hiệu quả khi các nhà đầu tư chưa mở rộng quy mô đầu tư vào các dự án đang hoạt động ở Việt Nam do những khó khăn chung của kinh tế thế giới nói chung và của cộng đồng doanh nghiệp.
Phóng viên: Trong các động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế, xuất khẩu là yếu tố chịu tác động mạnh nhất, ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng GDP. Tuy nhiên tính chung cả năm 2023, Việt Nam vẫn xuất siêu 28 tỷ USD. Tổng cục Thống kê có bình luận gì về những con số này?
Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giảm 6,6% so với năm trước. Đây là lần đầu tiên trong giai đoạn 2012-2023, tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2023 của Việt Nam sụt giảm, thực trạng này đã thể hiện rõ khó khăn chung của kinh tế thế giới do nhu cầu sụt giảm.
Con số xuất siêu hàng hóa 28 tỷ USD do tăng trưởng nhập khẩu thấp hơn tăng trưởng xuất khẩu, cho thấy các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu chịu tác động tiêu cực do thiếu hụt đơn hàng, nên không nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất.
Tuy nhiên trong bức tranh xuất nhập khẩu hàng hóa cuối năm, Việt Nam vẫn có những điểm tích cực hơn so với đầu năm. Về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả năm 2023 ước đạt 355,5 tỷ USD, tuy giảm 4,4% so với cùng kỳ, nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã có tín hiệu tích cực về cuối năm với mức tăng tháng sau cao hơn tháng trước.
Xuất khẩu của một số mặt hàng nông sản mà Việt Nam có lợi thế so sánh như rau quả, hạt điều, gạo, cà-phê vẫn đạt khá; xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực như điện tử, máy tính và linh kiện, máy ảnh, máy móc thiết bị…. trong tháng 12 cũng tăng trưởng dương.
Tín hiệu tích cực cũng đến từ nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam khi tốc độ tăng trưởng của 3 tháng trong quý IV đạt tăng trưởng dương ở cả khu vực trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sau 3 quý liên tiếp giảm sâu và đạt cao nhất vào tháng 12.
Một số nhóm nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất cũng có tín hiệu tăng trưởng khá tốt trong tháng 12 như sợi dệt; vải; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép, đặc biệt là nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện. Từ những tín hiệu tích cực của xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như trên, có thể kỳ vọng nhu cầu thế giới đang có dấu hiệu hồi phục, doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu có xu hướng nhập khẩu nhiều hơn, từ đó tạo đà cho xuất khẩu của Việt Nam đạt tăng trưởng khá trong đầu năm 2024.
Triển vọng năm 2024
Phóng viên: Trong bối cảnh các nền kinh tế lớn trên thế giới chao đảo vì lạm phát, Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm các nước kiểm soát tốt lạm phát khi bình quân năm 2023 chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3,25%, đạt mục tiêu Quốc hội đặt ra. Theo Tổng cục trưởng, áp lực lạm phát năm 2024 sẽ tập trung ở những yếu tố nào và đề xuất giải pháp gì để kiểm soát lạm phát trong năm tới?
Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Áp lực lạm phát năm 2024 đến từ các yếu tố giá nguyên vật liệu đầu vào thế giới đang ở mức cao, sẽ ảnh hưởng đến chi phí, giá thành, tạo áp lực cho sản xuất của doanh nghiệp và từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng lên do Việt Nam là nước nhập khẩu nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất. Đồng USD tăng giá càng làm tăng chi phí nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, gây sức ép lên mặt bằng giá hàng hóa trong nước.
Thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ do nhà nước quản lý theo hướng tính đúng, tính đủ các yếu tố, các chi phí thực hiện vào giá dịch vụ y tế và học phí giáo dục sẽ tác động làm tăng CPI. Bên cạnh đó, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có thể tiếp tục tăng giá điện khi nguyên liệu đầu vào như xăng dầu, than đều đang ở mức cao.
Việc cải cách tiền lương và tăng lương tối thiểu vùng từ ngày 1/7/2024 cũng sẽ kéo theo giá các hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong gia đình tăng lên. Giá lương thực, thực phẩm, đồ uống, may mặc, thiết bị và đồ dùng gia đình thường tăng theo quy luật vào các tháng cuối năm và dịp lễ, Tết; các chương trình hỗ trợ phục hồi, giải ngân đầu tư công của Chính phủ, dịch vụ du lịch... dự kiến cũng sẽ gây áp lực lên mặt bằng giá trong thời gian tới.
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố có khả năng tạo áp lực lên lạm phát cũng có những yếu tố giúp giảm áp lực lên mặt bằng giá như hỗ trợ giảm thuế môi trường đối với xăng dầu, giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) tiếp tục được thực hiện trong năm nay.
Phóng viên: Dự báo các rủi ro tiềm ẩn từ môi trường kinh tế thế giới vẫn còn hiện hữu và tiếp tục tác động tiêu cực lên triển vọng phục hồi tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới. Theo Tổng cục trưởng, đâu là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Việt Nam năm 2024?
Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Năm 2024, dự báo các rủi ro tiềm ẩn từ môi trường kinh tế thế giới vẫn còn hiện hữu và tiếp tục tác động tiêu cực lên triển vọng phục hồi tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Động lực tăng trưởng kinh tế năm 2024 tiếp tục đến từ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; đầu tư công; thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI); hoạt động thương mại dịch vụ; xuất khẩu, sản xuất công nghiệp phục hồi.
Cụ thể, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản dự báo tiếp tục ổn định, giá sản phẩm lương thực tăng sẽ đóng vai trò hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Đầu tư công, nhất là đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ tạo động lực, hạ tầng quan trọng cho tăng trưởng trước mắt và lâu dài.
Thu hút FDI được dự báo tiếp tục là điểm sáng, Việt Nam vẫn là một trong những lựa chọn ưu tiên của dòng vốn FDI. Lĩnh vực dịch vụ được kỳ vọng tiếp tục mở rộng nhờ sự phục hồi mạnh mẽ của ngành du lịch, từ đó tác động lan tỏa đến các ngành kinh tế khác, kích thích tăng trưởng.
Một số ngành thương mại có thể duy trì đà tăng trưởng bởi các chính sách thương mại và thúc đẩy tiêu dùng nội địa như ngành vận tải hàng không, bán buôn bán lẻ, dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ tài chính, dịch vụ du lịch… Các ngành dịch vụ phi thị trường dự báo vẫn ổn định.
Lạm phát được kiểm soát chặt chẽ, ở mức hợp lý sẽ hỗ trợ tích cực cho tiêu dùng trong nước. Đáng lưu ý, sự phục hồi của ngành công nghiệp sẽ có tác dụng giải quyết công ăn việc làm và duy trì thu nhập cho người lao động, giúp kích cầu tiêu dùng trong nước.
Việc Chính phủ thực hiện cải cách tiền lương từ ngày 1/7/2024 cũng có tác động lớn đến những người được hưởng lương và trợ cấp từ ngân sách Nhà nước…
Phóng viên: Theo Tổng cục Thống kê, năm 2024 cần tập trung vào những giải pháp trọng tâm nào để đạt các mục tiêu Quốc hội đặt ra về phát triển kinh tế-xã hội?
Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Bước sang năm 2024, kinh tế - xã hội nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn nên chịu tác động đan xen nhiều mặt. Trong khi đó, kinh tế thế giới đang gia tăng khả năng suy thoái, bất ổn; biến động nhanh và khó lường về chính trị, quân sự, kinh tế và xã hội; thiên tai dịch bệnh khó dự báo trước.
Do đó, để đạt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, tạo đà tăng trưởng và hoàn thành mục tiêu của giai đoạn 2021-2025 là thách thức rất lớn, cần sự chung sức, đồng lòng của Chính phủ, doanh nghiệp và nhân dân cả nước.
Các giải pháp ưu tiên thực hiện là chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, ổn định tỷ giá, mặt bằng lãi suất; kiểm soát giá cả, thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Đẩy mạnh tiêu dùng, tập trung phát triển thị trường trong nước. Theo đó, cần thực hiện có hiệu quả các Chương trình xúc tiến thương mại, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử để mở rộng tiêu dùng nội địa; vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
Các bộ ngành, địa phương cần có giải pháp quyết liệt thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, triển khai nhanh, hiệu quả các nhiệm vụ, dự án đầu tư thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế trong năm 2024. Đẩy nhanh việc hoàn thiện và triển khai các quy hoạch, tăng cường liên kết vùng để tạo sự đồng bộ, không gian mới và động lực mới cho sự phát triển của các vùng kinh tế-xã hội cũng như các địa phương trong vùng.
Đẩy mạnh sản xuất trong nước, nhất là các mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào, quy hoạch các vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất để chủ động nguồn cung đồng thời với tăng cường tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm đầu ra.
Tăng cường công tác phòng chống bệnh dịch; chủ động phương án phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ, sạt lở, tác động của hạn hán, xâm nhập mặn nhằm hạn chế tối đa thiệt hại tới sản xuất và cuộc sống của người dân.
Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm; công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống.
Nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của các ngành, các cấp; phát huy vai trò người đứng đầu dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số...
Năm 2024 là năm tăng tốc để về đích của chặng đường kinh tế 5 năm giai đoạn 2021-2025. Do đó, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cũng sẽ dốc toàn lực cho chặng đường về đích này.
Đây có thể là những thuận lợi mang tính chủ quan, nhưng cũng là áp lực lớn cho hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh thế giới nhiều bất định, Việt Nam tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đây là nền tảng quan trọng để có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng như kỳ vọng.
Phóng viên: Mặc dù kinh tế Việt Nam năm 2023 tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh ảm đạm của kinh tế toàn cầu nhưng đây là năm thứ hai của nhiệm kỳ 2021-2025 chúng ta không đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Điều này ảnh hưởng thế nào đến việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của nhiệm kỳ này và cần giải pháp gì để khắc phục?
Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Nước ta triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025 trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, thách thức, tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế trong nước. Dịch Covid-19 xuất hiện và ảnh hưởng nghiêm trọng, chưa từng có tiền lệ tới các quốc gia trên thế giới; xung đột quân sự giữa Nga và Ucraine đã làm chậm quá trình phục hồi của nền kinh tế thế giới, gây đứt gãy chuỗi cung ứng, gia tăng thách thức về an ninh năng lượng, an ninh lương thực toàn cầu…
Điều này đã tạo áp lực rất lớn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm. Năm 2021, tăng trưởng GDP đạt 2,55%, đây là một thành công lớn của nước ta trong việc phòng, chống dịch bệnh, duy trì sản xuất - kinh doanh; năm 2022 tăng 8,12%, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022 do nền kinh tế dần được khôi phục trở lại nhờ thực hiện các Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ; năm 2023 tăng 5,05%, là điểm sáng trong bức tranh ảm đạm của kinh tế toàn cầu. Bình quân 3 năm 2021-2023, tăng trưởng kinh tế của nước ta đạt 5,22%/năm.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục biến động phức tạp, gây nhiều khó khăn, thách thức, tác động đến kinh tế trong nước sẽ phức tạp hơn, tạo sức ép lớn để có thể đạt mục tiêu tăng trưởng các năm tiếp theo. Để đạt mục tiêu tăng trưởng của Kế hoạch 5 năm 2021-2025 từ 6,5-7% thì bình quân mỗi năm trong 2 năm 2024, 2025 tăng trưởng kinh tế của nước ta ít nhất phải đạt 8,5%. Đây là nhiệm vụ rất nặng nề và thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn, quyết tâm của các cấp, các ngành ở mức cao nhất có thể để đạt được mục tiêu đề ra.
Một số giải pháp đặt ra để hoàn thành mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 là:
1 Tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế; cần phản ứng chính sách, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả để hóa giải thách thức, tận dụng các cơ hội cho phát triển; thực hiện chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ; nghiên cứu và phát triển nhiều ngành công nghiệp mới, vật liệu mới.
2 Tiếp tục thúc đẩy các động lực tăng trưởng:
- Đẩy mạnh đầu tư công, ưu tiên các dự án sắp hoàn thành, sớm đưa vào sử dụng các dự án quan trọng quốc gia, các công trình trọng điểm mang tính đột phá giúp thúc đẩy tăng trưởng GDP.
- Tiếp tục phát huy nội lực của thị trường hơn 100 triệu dân, đẩy mạnh thực hiện các chính sách kích cầu tiêu dùng với các chương trình lễ hội du lịch, lễ hội mua sắm, chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử để mở rộng tiêu dùng nội địa; vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
- Tranh thủ tối đa cơ hội, xu hướng phục hồi của các thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu, tận dụng tốt và tiếp tục thúc đẩy các hiệp định thương mại song phương và đa phương để mở rộng thị trường đầu ra cho các sản phẩm của Việt Nam.
3 Phát huy hiệu quả các chính sách tài khóa (hỗ trợ doanh nghiệp và người dân như giãn, hoãn, giảm thuế…); chính sách tiền tệ (cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất, phí dịch vụ, các gói tín dụng ưu đãi) nhằm hỗ trợ doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các thị trường đất đai, bất động sản, xây dựng, du lịch, vốn,….
4 Thúc đẩy quảng bá, thu hút du khách quốc tế đến Việt Nam. Đây là ngành kinh tế tổng hợp, có tính lan tỏa giúp phát triển một chuỗi các ngành từ lưu trú, ăn uống, vận tải, thương mại, dịch vụ khác, đồng thời làm tăng lượng ngoại tệ, giải quyết nguồn lao động tại địa phương trong nước tham gia vào chuỗi sản xuất, xuất khẩu dịch vụ tại chỗ.
5 Thực hiện chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tiếp tục xu hướng chuyển từ thu hút bằng mọi giá sang thu hút có chọn lọc nhằm tăng năng lực sản xuất quốc gia, tính lan tỏa giữa khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với khu vực kinh tế trong nước, đặc biệt là đầu tư trong lĩnh vực mới như năng lượng tái tạo, chip bán dẫn, ngành nghề khác phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế bền vững, kinh tế xanh.
6 Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao; thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để tạo bứt phá về năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Tổng cục trưởng!
NGÀY XUẤT BẢN: 10/01/2024
CHỈ ĐẠO: NGỌC THANH - VIỆT ANH
NỘI DUNG: TÔ HÀ - GIANG KHÔI
TRÌNH BÀY: PHƯƠNG NAM - MINH ĐỨC