80 năm sau ngày 2/9/1945, nước Việt Nam đã bước qua những cuộc chiến sống còn, những thử thách lịch sử, để định vị mình trong tư thế một quốc gia độc lập, hội nhập và đang trưởng thành. Nhưng lịch sử, theo nhà sử học Dương Trung Quốc, không chỉ là chuyện đã qua. Đó là tấm gương chiếu hậu để mỗi thế hệ hiểu rõ mình đang ở đâu - và sẽ đi về đâu. Trong cuộc trò chuyện này, ông chia sẻ những suy nghĩ sâu sắc về cú huých văn minh ngày 2/9, thử thách của thời bình, giá trị cốt lõi của chủ quyền quốc gia và kỳ vọng đặt vào thế hệ trẻ trên hành trình trăm năm lập quốc.

Giành chính quyền tại Bắc Bộ phủ (Hà Nội) ngày 19/8/1945. Ảnh tư liệu

Giành chính quyền tại Bắc Bộ phủ (Hà Nội) ngày 19/8/1945. Ảnh tư liệu

Thưa ông, điều gì khiến ngày 2/9/1945 không chỉ là một dấu mốc lịch sử vẻ vang, mà còn là một cú huých văn minh trong tiến trình hiện đại hóa dân tộc Việt Nam?

Cần nhìn nhận ngày 2/9/1945 không đơn thuần là một mốc lịch sử khai sinh ra một quốc gia, mà là bước ngoặt đánh dấu sự chuyển mình toàn diện của một dân tộc đi từ kiếp nô lệ sang chủ thể độc lập, từ thân phận thuộc địa sang vị thế quốc gia có chủ quyền.

Trong cái nhìn của một nhà sử học, tôi cho rằng giá trị lớn nhất của ngày 2/9 là ở sự thay đổi về chất trong lịch sử dân tộc. Đó là thời khắc nước Việt Nam bước qua ngưỡng cửa của kỷ nguyên hiện đại, một thời đại mà con người không còn chỉ là thần dân, mà là công dân; không còn bị trị, mà là người làm chủ vận mệnh của chính mình.

Sự kiện ấy mở ra không chỉ một chính thể mới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn thiết lập một hệ hình phát triển mới cho quốc gia: hệ hình của một nước độc lập, theo đuổi dân chủ, tự do và tiến bộ. Đây là điều trước đó chưa từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam, kể cả trong các triều đại huy hoàng nhất.

Nhà sử học Dương Trung Quốc. Ảnh: THÀNH ĐẠT

Nhà sử học Dương Trung Quốc. Ảnh: THÀNH ĐẠT

Sự kiện ngày 2/9 mở ra không chỉ một chính thể mới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn thiết lập một hệ hình phát triển mới cho quốc gia: hệ hình của một nước độc lập, theo đuổi dân chủ, tự do và tiến bộ.

Một cách tự nhiên, chúng ta có thể so sánh: Hơn 80 năm mất nước dưới ách đô hộ Pháp (1858-1945), so với 80 năm phát triển và gìn giữ nền độc lập dân tộc (1945-2025), để thấy được chiều dài không gian lịch sử mà ngày 2/9 là tâm điểm chuyển tiếp. Nó không phải là khoảnh khắc đơn lẻ, mà là kết tinh của một tiến trình, đồng thời khởi nguồn cho một hành trình mới.

Tôi vẫn thường nói: Tuyên ngôn Độc lập là một văn bản chính trị, nhưng cũng là một Tuyên ngôn văn hóa. Nó xác lập vị thế con người Việt Nam trong hệ giá trị phổ quát của nhân loại, khẳng định quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những giá trị mà trước đó dân tộc ta chưa từng có cơ hội được chính thức tuyên bố với thế giới.

Độc lập không chỉ là thoát khỏi ách đô hộ. Độc lập, trong nghĩa sâu xa, là trở thành một thành tố bình đẳng trong cộng đồng các quốc gia văn minh, nơi chúng ta được quyền lên tiếng, quyền lựa chọn con đường phát triển, quyền làm chủ đất nước và tương lai dân tộc.

Là người nhiều lần khẳng định “dân tộc này từng làm nên điều kỳ diệu”, ông có thể lý giải vì sao Việt Nam, một nước nhỏ, nghèo, lại có thể tự viết nên bản Tuyên ngôn Độc lập giữa thế kỷ XX đầy biến động?

Câu hỏi này đụng đến một nghịch lý rất đáng để suy ngẫm: vì sao một dân tộc bị đô hộ mấy chục năm, hạ tầng kinh tế lạc hậu, không có quân đội chính quy, lại có thể đứng lên, viết nên một bản Tuyên ngôn Độc lập đầy khí phách và trí tuệ, giữa một thế giới còn ngổn ngang sau Chiến tranh thế giới thứ hai?

Tôi nghĩ câu trả lời nằm ở chỗ: dân tộc Việt Nam, trong chính cảnh ngộ của mình, đã nuôi dưỡng được một nội lực đặc biệt - một sức mạnh kết tinh từ khát vọng sống, từ tinh thần yêu nước bền bỉ, và từ ý thức sâu sắc về bản sắc dân tộc. Chúng ta không mạnh về vật chất, nhưng có một nền tảng tinh thần được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Chính điều đó đã giúp chúng ta làm nên điều tưởng chừng không thể.

Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố ngày 2/9/1945 không chỉ là lời tuyên bố với quốc dân, mà còn là lời tuyên cáo với thế giới. Trong bản Tuyên ngôn ấy, Bác Hồ đã trích dẫn những nguyên lý nền tảng của nhân loại - từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 đến Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776, để khẳng định rằng, người Việt Nam cũng có quyền như bất kỳ dân tộc văn minh nào khác trên thế giới.

Nhưng điều đáng nói hơn là: Bác không vay mượn những giá trị ấy một cách rập khuôn. Người dẫn lại để làm nền tảng, rồi từ đó viết nên tuyên ngôn của chính chúng ta, bằng trải nghiệm, bằng máu, và bằng ý chí của cả một dân tộc đã vùng lên từ thân phận bị trị. Đó là điều kỳ diệu! Nhưng điều kỳ diệu ấy không tự nhiên sinh ra, nó là kết quả của một quá trình tích lũy lâu dài, của cả dân tộc và của những con người biết nhìn ra ngoài biên giới, nhưng không đánh mất cốt cách của chính mình.

Qua bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chi Minh đã thay mặt đồng bào cả nước tuyên bố với thế giới về một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tranh của họa sĩ NGUYỄN DƯƠNG

Qua bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chi Minh đã thay mặt đồng bào cả nước tuyên bố với thế giới về một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tranh của họa sĩ NGUYỄN DƯƠNG

Qua bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chi Minh đã thay mặt đồng bào cả nước tuyên bố với thế giới về một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tranh của họa sĩ NGUYỄN DƯƠNG

Qua bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chi Minh đã thay mặt đồng bào cả nước tuyên bố với thế giới về một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tranh của họa sĩ NGUYỄN DƯƠNG

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trong ngày 2/9/1945. Ảnh: TTXVN

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trong ngày 2/9/1945. Ảnh: TTXVN

Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố ngày 2/9/1945 không chỉ là lời tuyên bố với quốc dân, mà còn là lời tuyên cáo với thế giới. Trong bản Tuyên ngôn ấy, Bác Hồ đã trích dẫn những nguyên lý nền tảng của nhân loại - từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 đến Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776, để khẳng định rằng, người Việt Nam cũng có quyền như bất kỳ dân tộc văn minh nào khác trên thế giới.

Sau 80 năm, ông thấy điều gì thay đổi lớn nhất, và những gì trì trệ vẫn níu kéo, vẫn tồn tại dai dẳng, trong tâm thế quốc dân Việt Nam?

Tôi cho rằng, thay đổi lớn nhất trong tâm thế của người Việt Nam sau 80 năm lập quốc, chính là sự trưởng thành về ý thức quốc gia, từ một dân tộc từng bị dẫn dắt bởi các phong trào yêu nước, đến một cộng đồng công dân có trách nhiệm với chính thể, với tương lai đất nước.

Hãy nhớ rằng, năm 1945, dân tộc ta giành được chính quyền trong bối cảnh gần như trắng tay: không quân đội chính quy, không hạ tầng quản trị, không tài chính nhà nước. Nhưng chỉ trong vòng hơn một năm đầu tiên sau ngày độc lập, chúng ta đã dựng nên nền tảng của một nhà nước dân chủ cộng hòa, với chính quyền của dân, do dân và vì dân, giữa muôn vàn thách thức.

Từ một đất nước bị chia cắt, chúng ta đã từng bước khôi phục và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Từ một xã hội nông nghiệp lạc hậu, chúng ta đã xây dựng được một quốc gia hội nhập quốc tế, có tiếng nói trong các tổ chức đa phương, có những bước tiến về giáo dục, y tế, kinh tế mà chính thế hệ đi trước khó hình dung được. Đó là sự chuyển biến lớn trong tâm thế: người dân không còn là đối tượng thụ động, mà ngày càng ý thức rõ vai trò chủ thể kiến tạo quốc gia.

Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập ngày 2/9/1945. Ảnh: TTXVN

Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập ngày 2/9/1945. Ảnh: TTXVN

Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển mình ấy, cũng có những tồn tại dai dẳng, đó là sự đứt gãy hoặc chưa trọn vẹn trong quá trình kiến tạo niềm tin xã hội. Sự thiếu kiên định trong một bộ phận công chúng trước biến động, tâm lý hoài nghi hoặc thờ ơ với chính trị, hay sự dễ bị tác động bởi truyền thông phiến diện, tất cả những điều đó phần nào phản ánh một nền tảng công dân chưa thực sự vững chắc.

Chúng ta từng chiến đấu suốt 30 năm vì lý tưởng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Nhưng để biến thống nhất lãnh thổ thành thống nhất lòng dân, đó là hành trình cần bền bỉ hơn nữa. Sự phát triển không chỉ đo bằng tốc độ tăng trưởng, mà còn bằng chiều sâu văn hóa công dân: người dân có thấy mình thuộc về quốc gia đó không, có tin vào luật pháp và chính quyền không, có sẵn sàng gắn bó, đóng góp và bảo vệ các giá trị chung hay không?

Chính vì thế, tâm thế quốc dân hôm nay, cho dù đã có những bước tiến dài, nhưng vẫn cần được nuôi dưỡng trong môi trường dân chủ thực chất, công bằng xã hội, và sự minh bạch trong quản trị quốc gia. Đó là nền móng để một dân tộc không chỉ đứng vững mà còn đi xa trong thế kỷ XXI.

Chúng ta đã đi qua chiến tranh, nghèo đói, chia cắt… Nhưng theo ông, thử thách lớn nhất của Việt Nam hôm nay là gì, khi đất nước đã thống nhất 50 năm và hội nhập quốc tế?

Thử thách của chúng ta hôm nay, theo tôi, không nằm ở việc thiếu mô hình phát triển, mà nằm ở việc liệu chúng ta có thực sự trung thành với giá trị gốc rễ ấy- tức là đặt con người làm trung tâm, làm mục tiêu và cũng là động lực phát triển. Tôi vẫn nhớ lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Câu nói ấy giản dị, nhưng nếu thực hiện trọn vẹn, đó là cả một chương trình hành động cho nhiều thế hệ lãnh đạo.

Thử thách lớn nhất không nằm ở hoàn cảnh, mà nằm ở chính nội lực cải cách.

Hãy nhìn lại 15 tháng đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (từ tháng 9/1945 đến cuối năm 1946): trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, chúng ta đã đặt nền móng cho một nền hành chính dân chủ, định hình quan hệ giữa Nhà nước và người dân, thiết lập cơ chế giám sát quyền lực, và thừa nhận vai trò kinh tế tư nhân như một thành phần cấu thành xã hội. Đó không phải là thành tựu đơn lẻ, mà là chỉ dấu cho một tầm nhìn thể chế rất hiện đại.

Thử thách lớn nhất không nằm ở hoàn cảnh, mà nằm ở chính nội lực cải cách. Chúng ta đã hội nhập với thế giới, nhưng hội nhập sẽ vô nghĩa nếu nội lực không đủ mạnh. Kinh tế thị trường sẽ lệch lạc nếu thiếu một thiết chế dân chủ đủ minh bạch. Và phát triển sẽ thiếu bền vững nếu người dân không thực sự là chủ thể của sự phát triển đó. Cho nên, theo tôi, thử thách lớn nhất hiện nay không phải là bên ngoài. Nó nằm trong chính cách chúng ta tiếp cận và vận hành thể chế.

Chúng ta hay nói “giữ nước” khi có chiến tranh. Nhưng ông từng nhấn mạnh: “Giữ nước trong thời bình không dễ hơn thời chiến”. Cụ thể thì giữ cái gì? Và mất cái gì?

Thời chiến, kẻ thù rất rõ ràng, có thể gọi tên, nhìn thấy. Nhưng thời bình thì không. Những nguy cơ đe dọa đến chủ quyền, đến sự cố kết quốc gia, đến đạo lý xã hội… thường ẩn hiện, không dễ phát hiện, lại càng không dễ xử lý nếu thiếu bản lĩnh và tầm nhìn. Trong thời bình, mọi người quan tâm hơn đến những lợi ích riêng, thậm chí xuất hiện “lợi ích nhóm”, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”. Huy động sự đồng thuận xã hội lúc này không còn dựa trên tình thế cấp bách, mà đòi hỏi sự minh bạch, công bằng và niềm tin vào hệ thống.

Cái cần giữ trước tiên trong thời bình, theo tôi, là niềm tin xã hội. Cái thứ hai cần giữ là bản sắc và giá trị sống của dân tộc.

Cái cần giữ trước tiên trong thời bình, theo tôi, là niềm tin xã hội. Đó là chất keo gắn kết các tầng lớp, các nhóm lợi ích, các thế hệ. Khi lòng tin bị xói mòn, do bất công, do tham nhũng, do sự mập mờ của quyền lực - thì nguy cơ mất nước không đến từ bên ngoài, mà từ sự rạn vỡ bên trong.

Cái thứ hai cần giữ là bản sắc và giá trị sống của dân tộc. Trong thời chiến, chúng ta khẳng định bản sắc ấy bằng lòng yêu nước, tinh thần hy sinh, ý chí quật cường. Trong thời bình, bản sắc ấy cần được làm sâu sắc qua cách ứng xử với phát triển, với hội nhập, biết tiếp thu cái mới nhưng không đánh mất căn cốt văn hóa, đạo lý, sự liêm chính và tự trọng.

Theo ông, đâu là “vùng lõi” chủ quyền mà Việt Nam không bao giờ được phép thỏa hiệp - kể cả khi phải trả giá về kinh tế, ngoại giao?

Khi nói đến chủ quyền, người ta thường nghĩ ngay đến lãnh thổ, biên giới, biển đảo, đất liền. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ. Chủ quyền, theo tôi, còn là quyền tự quyết của một quốc gia trong việc lựa chọn con đường phát triển, xác lập mô hình thể chế và bảo vệ giá trị sống của dân tộc mình, trước mọi áp lực từ bên ngoài, dù là súng đạn hay đồng tiền.

“Vùng lõi” chủ quyền, nếu phải gọi tên, chính là quyền tự chủ quốc gia. Tự chủ không chỉ là “không bị chiếm đóng”, mà là không bị chi phối, áp đặt, lệ thuộc, đặc biệt trong những lĩnh vực then chốt như thể chế chính trị, kinh tế chiến lược và văn hóa tư tưởng.

Tôi từng có ý kiến rằng, chừng nào Việt Nam còn sống bằng ODA như một nguồn nuôi dưỡng thường trực, thì nền độc lập ấy vẫn chưa toàn vẹn. Tự chủ quốc gia không thể tách rời tự chủ kinh tế. Chúng ta vẫn phải xuất khẩu lao động, đó là một thực tế cần thiết trong giai đoạn phát triển. Nhưng mục tiêu cuối cùng không thể là “kiếm sống ở xứ người” mà phải là xây dựng một đất nước mà người dân đủ điều kiện sống, làm việc, mưu cầu hạnh phúc trên chính quê hương mình.

Tự chủ cũng là sự tự quyết trong tư duy phát triển. Không thể vì chạy theo “tăng trưởng nhanh” mà đánh đổi môi trường, công lý, hay đánh mất bản lĩnh trong quan hệ quốc tế. Không thể vì những cam kết kinh tế ngắn hạn mà mờ nhòe đi những nguyên tắc bất biến về chủ quyền, danh dự và nhân cách dân tộc.

Đây là một thời đại phức tạp, nơi chủ quyền không những bị xâm lấn bằng xe tăng, tàu chiến, tên lửa... mà còn bằng thị trường, mạng xã hội, dòng vốn đầu tư. Do đó, giữ vững “vùng lõi” chủ quyền đòi hỏi tầm nhìn rộng, bản lĩnh lớn và khả năng nói “không” đúng lúc.

Nhà sử học Dương Trung Quốc và nhà báo Phan Thanh Phong.

Nhà sử học Dương Trung Quốc và nhà báo Phan Thanh Phong.

Ông có bao giờ cảm thấy cô đơn khi nói về lịch sử giữa một xã hội nhiều khi đang muốn “ngắn hạn hóa” mọi vấn đề?

Chúng ta đang sống trong một xã hội vận hành với tốc độ ngày càng gấp gáp, nơi cái mới luôn lấn át cái cũ, và những vấn đề cốt lõi thường bị lấn át bởi hiệu ứng tức thời.

Nhưng tôi lại tự nhắc mình: người làm sử không thể sốt ruột. Lịch sử không phải để tranh luận thắng, thua, càng không phải để chạy theo thời cuộc. Lịch sử là để hiểu rõ căn nguyên của hôm nay, để soi sáng con đường ngày mai. Lịch sử giống như tấm gương chiếu hậu. Nó không giúp bạn lái xe tiến về phía trước, nhưng nếu thiếu nó, bạn sẽ không biết điều gì vừa xảy ra phía sau, để điều chỉnh tay lái cho an toàn. Lịch sử không giúp ta thoát khỏi tất cả sai lầm, nhưng giúp ta ít lặp lại những sai lầm cũ.

Có người cho rằng: chỉ nhìn về quá khứ là cổ hủ. Tôi không nghĩ vậy. Vấn đề không phải ở việc nhìn về đâu, mà là nhìn như thế nào. Nhìn để trì hoãn, hay để khởi động? Nhìn để hoài niệm, hay để hiểu sâu thực tại? Người làm sử, nếu trung thực, thì luôn đứng ở điểm cân bằng đó: không để quá khứ che lấp hiện tại, nhưng cũng không để hiện tại phủ định quá khứ.

Một góc Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: TTXVN

Một góc Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: TTXVN

Ở dấu mốc lịch sử này, ông có nghĩ Việt Nam đã thực sự trưởng thành như một quốc gia hiện đại, có bản sắc và có tiếng nói riêng trên thế giới chưa?

Muốn trả lời câu hỏi này, cần hiểu rằng: một quốc gia hiện đại không chỉ được đo bằng hạ tầng, thu nhập, hay độ mở hội nhập, mà còn phải được xác lập bằng bản lĩnh, bản sắc và khả năng đối thoại sòng phẳng với thế giới. Việt Nam từng trải qua chiến tranh, chia cắt, cấm vận, nhưng vẫn từng bước khẳng định được tiếng nói riêng trong các vấn đề quốc tế: từ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, đến việc ứng xử chừng mực trong các tranh chấp khu vực, giữ vai trò điều phối ASEAN, hay đóng góp thực chất trong an ninh lương thực toàn cầu.

Có một thí dụ đơn giản nhưng ý nghĩa: Việt Nam từng mang giống lúa sang Cuba giúp nước bạn giải quyết một phần khó khăn về lương thực. Đó không phải là một khoản viện trợ đơn thuần, mà là sự chia sẻ tri thức, kinh nghiệm và kết quả phát triển của chính chúng ta. Một quốc gia đủ trưởng thành là quốc gia biết chia sẻ - không phải bằng dư thừa, mà bằng năng lực thật sự của mình.

Tôi nghĩ, Việt Nam đang ngày càng được nhận diện không phải bằng lịch sử chiến tranh, mà bằng khả năng kiến tạo hòa bình. Không còn chỉ là hình ảnh của một dân tộc kiên cường, mà là hình ảnh của một quốc gia biết cách hành xử khôn ngoan, ôn hòa nhưng không từ bỏ nguyên tắc. Chúng ta không phải cường quốc, nhưng chúng ta có tiếng nói. Không cần phải ồn ào, nhưng khi Việt Nam lên tiếng thế giới nghe bằng sự tôn trọng. Và điều đó, tôi nghĩ, là biểu hiện rõ ràng nhất của một quốc gia hiện đại có bản lĩnh.

Pháo hoa rực sáng bầu trời Thành phố Hồ Chí Minh đêm 30/4, chào mừng 50 năm thống nhất đất nước. Ảnh: THẾ ĐẠI

Pháo hoa rực sáng bầu trời Thành phố Hồ Chí Minh đêm 30/4, chào mừng 50 năm thống nhất đất nước. Ảnh: THẾ ĐẠI

Lịch sử không trao Huân chương cho những dân tộc lười suy ngẫm. Ông kỳ vọng điều gì ở thế hệ trẻ hôm nay - để 20 năm nữa, khi ta nhìn lại tròn một thế kỷ nước Việt Nam mới ra đời, chúng ta không phải nói lời tiếc nuối?

Cuộc sống sẽ thay đổi rất nhanh, thậm chí theo những cách mà chúng ta hôm nay chưa thể hình dung hết. Công nghệ, địa chính trị, môi trường sống, phương thức giao tiếp xã hội… đều có thể biến đổi sâu sắc. Nhưng có một điều không thay đổi: đó là giá trị cốt lõi của con người, trong một quốc gia trưởng thành. Đó là lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm và khả năng đặt câu hỏi lớn cho thời đại của mình.

Chúng ta không mong thế hệ trẻ phải giữ gìn lịch sử theo kiểu học thuộc lòng. Chúng ta mong họ biết suy nghĩ trên nền lịch sử, hiểu tại sao cha ông từng lựa chọn con đường như vậy, hiểu giá trị của những điều tưởng chừng đã quen thuộc: độc lập, tự do, hạnh phúc, để không ai coi đó là điều hiển nhiên.

Điều làm nên tầm vóc một thế hệ không phải là lời nói, mà là thái độ sống. Thái độ đó bắt đầu từ sự tử tế, từ khả năng nhìn xa và từ một niềm tin không mù quáng, mà được xây dựng qua trải nghiệm, phản biện và đối thoại. Niềm tin giữa con người với con người. Niềm tin giữa người dân và Nhà nước. Không có điều đó, thì mọi thành tựu cũng trở nên mong manh.

Tôi kỳ vọng lớp trẻ hôm nay không chỉ là người thừa hưởng những thành quả đã có, mà còn là lực lượng mang theo khát vọng, bản lĩnh và trí tuệ, để tiếp tục hành trình giữ nước trong thời bình.

Lịch sử từng cho thấy: chỉ một lời nói đúng lúc, một cử chỉ dũng cảm của người lãnh đạo có thể tạo nên sự ổn định lớn lao. Tôi nhớ mãi hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời điểm phải ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt ngày 6/3/1946, một quyết định đầy khó khăn và gây nhiều lo lắng trong dân chúng. Khi ấy, Người đã bước ra trấn an bằng một câu nói đầy xúc động: “Hồ Chí Minh không bán nước”. Chỉ một câu như thế, giản dị mà đĩnh đạc, cũng đủ để củng cố niềm tin của nhân dân.

Hôm nay, niềm tin ấy vẫn là nền tảng cốt lõi cho mọi chiến lược phát triển. Chúng ta có thể nói nhiều về đổi mới sáng tạo, kinh tế tri thức, chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng... nhưng nếu thiếu niềm tin và sự tự trọng dân tộc, thì mọi nỗ lực sẽ khó bền vững.

Tôi kỳ vọng lớp trẻ hôm nay không chỉ là người thừa hưởng những thành quả đã có, mà còn là lực lượng mang theo khát vọng, bản lĩnh và trí tuệ, để tiếp tục hành trình giữ nước trong thời bình. Đó là một hành trình âm thầm nhưng cam go, đòi hỏi tinh thần dấn thân, tự chủ và trách nhiệm cao độ. Và nếu làm được điều đó, tôi tin, 100 năm lập quốc sẽ là một mốc son rực rỡ, không chỉ của lịch sử, mà của tương lai.

Trân trọng cảm ơn ông!

Trình bày: Ngô Hương
Ảnh: Thế Đại; Thành Đạt; TTXVN