PHAN ĐĂNG LƯU

NGƯỜI CỘNG SẢN, NHÀ BÁO ƯU TÚ

PGS,TS, NGUYỄN THẾ KỶ

Phan Ðăng Lưu sinh ngày 5/5/1902 ở Thôn Ðông, xã Tràng Thành (nay là xã Hoa Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Họ Phan của ông chính là họ Mạc - một dòng họ danh tiếng của đất nước. Ngay từ nhỏ, Phan Ðăng Lưu đã nổi tiếng về sự hiếu học, thông minh, mẫn tiệp hơn người.

Học chữ nho ở trường làng, rồi đến trường Pháp-Việt ở Vinh, trung học ở Huế, trường Canh nông Tuyên Quang, tham gia Hội phục Việt, Phan Ðăng Lưu ngày càng nhận rõ bản chất xấu xa của chế độ thực dân phong kiến, nỗi thống khổ của tầng lớp công nhân, nông dân; ngưỡng mộ những nhà yêu nước và cách mạng đáng kính như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc. Quá trình gặp gỡ, trở thành đồng chí của Trần Phú, Trần Ðình Thanh, Trần Văn Tăng, Hà Huy Tập... càng định rõ con đường dấn thân cho sự nghiệp cách mạng của ông.

Sự nghiệp cách mạng và báo chí của Phan Ðăng Lưu thật sự sôi nổi, phong phú khi ông tham gia Ðảng Tân Việt - một trong những tổ chức tiền thân của Ðảng Cộng sản Việt Nam sau này.

Quảng trường Phan Đăng Lưu - thị trấn Yên Thành. Ảnh tư liệu: Sách Nguyễn

Quảng trường Phan Đăng Lưu - thị trấn Yên Thành. Ảnh tư liệu: Sách Nguyễn

Khoảng cuối năm 1927, đầu 1928, để tuyên truyền tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư tưởng dân chủ mới, Ðào Duy Anh và những người lãnh đạo Ðảng Tân Việt ở Huế thành lập nhà sách Quan Hải Tùng Thư. Trên cương vị là Thường vụ Tổng bộ phụ trách tuyên truyền, Phan Ðăng Lưu với kiến thức Hán học và vốn tiếng Pháp tinh tế đã dịch và biên soạn nhiều tư liệu quý như "A.B.C chủ nghĩa Mác", "Dân chủ mới"; dịch các cuốn Xã hội luận", Lịch sử các học thuyết kinh tế...

Các cuốn sách, bài báo của Phan Ðăng Lưu, Ðào Duy Anh và các tác giả ở Quan Hải Tùng Thư góp phần thức tỉnh rất nhiều thanh niên, học sinh yêu nước để từ đó thấm dần vào các tầng lớp nhân dân. Trong chuyến đi Trung Quốc, được đến Bắc Kinh, Thượng Hải, Nam Ninh..., Phan Ðăng Lưu mang về nước nhiều tài liệu, sách báo về chủ nghĩa Mác rất quý giá.

Một số tài liệu do ông dịch (khi tá túc trong căn nhà của ông Ðặng Trọng Ninh ở phố Hàng Vôi, Hà Nội), hiện vẫn được Bảo tàng Cách mạng Việt Nam lưu giữ.

Tháng 9/1929, trong chuyến sang Trung Quốc lần thứ hai để tìm gặp và liên kết Ðảng Tân Việt với Việt Nam Thanh niên Cách mạng Ðồng chí Hội, Phan Ðăng Lưu bị bắt ở Hải Phòng, đưa về nhà lao Vinh và bị kết án năm năm tù khổ sai, lưu đày ở Ban Mê Thuột. Ngày 3/2/1930, Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Phan Ðăng Lưu được kết nạp Ðảng trong tù và tham gia ban lãnh đạo các chiến sĩ cộng sản nhà tù.

Theo hồi ký của Tôn Quang Phiệt, Ban Mê Thuột hồi đó là một khu tự trị với chính sách rất hà khắc của bè lũ thực dân và tay sai. Nhà tù tuyển lính gác ngục là người Ê Ðê vừa không biết tiếng Kinh, vừa bị kích động hằn thù dân tộc, chia rẽ Kinh, Thượng. Ý thức được tình hình, nhiệm vụ lúc đó, Phan Ðăng Lưu lao vào học tiếng Ê Ðê và vận động các bạn tù cùng học.

Chỉ vài tháng sau, ông đã có đủ vốn tiếng Ê Ðê. Ông cho ra tờ báo Doãn Ðê tù báo (trong tiếng Ê Ðê, Doãn là từ chỉ người Kinh, người miền xuôi). Tờ báo bí mật đó ra hằng tuần, là công cụ giác ngộ binh lính người Ê Ðê, vừa là tài liệu tuyên truyền nội bộ. Các bài viết ngắn gọn, đơn giản, trong đó nói về nỗi nhục mất nước, về quan hệ gắn bó giữa người Ê Ðê và người Kinh, về gương những người yêu nước bị tù đày, về cách nhìn cảm thông của tù nhân với những người Ê Ðê bị ép buộc làm những điều không muốn.

Tác dụng của tờ báo lúc đó là rất lớn. Mối quan hệ giữa người tù, lính canh được cải thiện rõ rệt. Một số lính canh còn giúp những người tù yêu nước trong nhiều việc có ích khác. Riêng Phan Ðăng Lưu, dù bị bọn cai ngục "chăm sóc" rất kỹ, bị đánh đập dã man, bị cầm cố, nhưng ông vẫn viết báo đều, viết khỏe, viết bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, kêu gọi dư luận bên ngoài hỗ trợ cuộc đấu tranh của tù nhân.

Một lần, một đồng chí của Phan Ðăng Lưu tên là Ðậu Hàm, quê Hà Tĩnh mãn hạn ra tù. Phan Ðăng Lưu viết một bài báo bằng tiếng Pháp, đêm đó xẻ đế dép cao-su của bạn ra, nhét tờ báo vào trong. Khoảng 3 giờ sáng, vì có nội gián, cai ngục và lính tráng ập vào khám đúng chiếc dép đó. Sau sự việc, Phan Ðăng Lưu bị tra tấn tàn khốc và bị tăng thêm án.

Một số tác phẩm của “Quan hải tùng thư”, cơ quan xuất bản sách, báo tiến bộ của Hội hưng Nam do đồng chí Đào Duy Anh, Phan Đăng Lưu, Trần Đình Nam, Trần Mạnh Nhẫn, Võ Liêm Sơn biên tập. Ảnh tư liệu của Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh

Một số tác phẩm của “Quan hải tùng thư”, cơ quan xuất bản sách, báo tiến bộ của Hội hưng Nam do đồng chí Đào Duy Anh, Phan Đăng Lưu, Trần Đình Nam, Trần Mạnh Nhẫn, Võ Liêm Sơn biên tập. Ảnh tư liệu của Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh

Nhà tù Buôn Ma Thuột - nơi đồng chí Phan Đăng Lưu bị giam cầm. Ảnh: Tư liệu

Nhà tù Buôn Ma Thuột - nơi đồng chí Phan Đăng Lưu bị giam cầm. Ảnh: Tư liệu

Vào giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước, phong trào cách mạng do Ðảng ta lãnh đạo bước qua thời kỳ thoái trào. Tuy nhiên, bối cảnh thế giới có những diễn biến phức tạp, chủ nghĩa phát-xít xuất hiện, nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới đang đến gần. Trước đó, Ðại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII họp tại Moscow (1/1935) nêu chủ trương thành lập Mặt trận Nhân dân rộng rãi trên thế giới chống chủ nghĩa phát-xít, đòi tự do, dân chủ, hòa bình. Ở Pháp, đầu năm 1936, Mặt trận Nhân dân Pháp và Chính phủ Pháp ra sắc lệnh ân xá chính trị phạm ở Ðông Dương, thực thi một số chính sách tiến bộ.

Phan Ðăng Lưu được ra khỏi nhà tù Ban Mê Thuột tháng 2/1936 nhưng phải "an trí" ở Huế. Tại Huế, ông cùng các đồng chí liên lạc với Ðảng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới bằng những bài viết trên các báo.

Tháng 3/1937, tại Ðông Pháp Lữ quán, số 7 đường Ðông Ba, Ðại hội Báo chí Trung Kỳ khai mạc với sự tham gia của hơn 70 nhà báo. Phan Ðăng Lưu và các nhà báo cách mạng hướng đại hội vào những nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa lúc bấy giờ.

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Ðảng (7/1936) xác định kẻ thù chủ yếu, trước mắt lúc này là bọn phản động thuộc địa, phải tập trung cho nhiệm vụ chống phát-xít, chống chiến tranh, đòi dân chủ, hòa bình. Hội nghị chủ trương lập Mặt trận Nhân dân phản đế Ðông Dương, lấy tên là Mặt trận Dân chủ Ðông Dương.

Đồng chí Phan Đăng Lưu (hàng sau, thứ hai từ trái sang) trong phong trào vận động dân chủ 1936-1939 tại Huế. Ảnh: Xô Viết Bảo tàng Nghệ Tĩnh

Đồng chí Phan Đăng Lưu (hàng sau, thứ hai từ trái sang) trong phong trào vận động dân chủ 1936-1939 tại Huế. Ảnh: Xô Viết Bảo tàng Nghệ Tĩnh

Ở Huế, Phan Ðăng Lưu cùng Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều, Lâm Mộng Quang, Trịnh Xuân An, Hải Thanh... được Ðảng giao hoạt động công khai và bán công khai. Và đương nhiên, báo chí là diễn đàn, là vũ khí đấu tranh vừa phù hợp, vừa sắc bén. Nguyễn Chí Diểu chỉ đạo nội dung của báo Nhành Lúa (do Nguyễn Xuân Lữ làm chủ nhiệm), Phan Ðăng Lưu và các đồng chí khác mua lại tờ Sông Hương của Phan Khôi, đổi tên thành Sông Hương tục bản. Báo mời Nguyễn Cửu Thạnh làm chủ nhiệm, Phan Ðăng Lưu chỉ đạo nội dung và trực tiếp viết các bài xã luận, bình luận, tiểu phẩm.

Báo được in tại nhà in Vương Ðình Châu ở Vinh. Trên tờ báo mới này, Phan Ðăng Lưu và các đồng chí của ông trình bày quan điểm của Ðảng, phát động quần chúng đấu tranh, tuyên truyền cho cuộc vận động Ðông Dương Ðại hội Trung Kỳ, giải thích cho nhân dân biết về quyền bầu cử, ứng cử.

Báo tỏ rõ tính giai cấp, tính chiến đấu rất sâu sắc. Mục "Chiếu diện" của tác giả Nghị Toét - bút danh của Phan Ðăng Lưu, vạch mặt chỉ tên bọn tay sai bán dân hại nước, dùng các âm mưu thủ đoạn để lường gạt cử tri (như Bùi Huy Trứ, Nguyễn Quang Triệt, Cao Văn Chiểu...). Còn 18 ứng cử viên là người của Ðảng và có tư tưởng tiến bộ do Sông Hương tục bản giới thiệu, cổ vũ đã đắc cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ trong đó có đồng chí Ðặng Thai Mai.

Quảng trường Phan Đăng Lưu, thị trấn Yên Thành. Ảnh: Sách Nguyễn

Quảng trường Phan Đăng Lưu, thị trấn Yên Thành. Ảnh: Sách Nguyễn

Các bài viết trên "Sông Hương tục bản" đả kích trực diện và đích danh bọn bán dân hại nước trong các cuộc tranh cử. Ảnh tư liệu lịch sử

Các bài viết trên "Sông Hương tục bản" đả kích trực diện và đích danh bọn bán dân hại nước trong các cuộc tranh cử. Ảnh tư liệu lịch sử

Sông Hương tục bản trên thực tế đã trở thành cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Trung Kỳ, ra được 14 số (từ 15/6 đến 14/10/1937) sau đó bị chính quyền thực dân thu hồi giấy phép.

Ngày 24/12/1937, một số đại biểu vừa trúng cử Viện Dân biểu Trung Kỳ dưới sự gợi ý, đề xuất của Phan Ðăng Lưu làm đơn xin xuất bản tờ báo lấy tên là Dân. Hai người quản lý là Nguyễn Ðan Quế và Nguyễn Xuân Cát. Tuy nhiên, về thực chất, đây là tờ báo của Xứ ủy Trung Kỳ do Phan Ðăng Lưu trực tiếp chỉ đạo. Ban biên tập có Hải Triều, Bùi Công Trừng, Nguyễn Cửu Thạnh, Lâm Mộng Quang, Lê Bồi, Hà Thế Thanh...

Hai tờ báo Dân và Dân Tiến do đồng chí Phan Đăng Lưu trực tiếp chỉ đạo. Ảnh tư liệu lịch sử

Hai tờ báo Dân và Dân Tiến do đồng chí Phan Đăng Lưu trực tiếp chỉ đạo. Ảnh tư liệu lịch sử

Báo Dân kết hợp chặt chẽ với các đại biểu tiến bộ trong Viện Dân biểu và phong trào cách mạng của quần chúng, tạo nên sức mạnh to lớn chống sưu cao, thuế nặng, chống áp bức bất công, đòi tự do ngôn luận, đặc biệt là đánh bại dự án thuế thân và thuế điền thổ do khâm sứ Trung Kỳ đưa ra, làm rung chuyển bộ máy cai trị ở chính nơi đầu não của chúng. Trong thành công lớn lao ấy, Phan Ðăng Lưu có những cống hiến hết sức quan trọng. Cùng với sự chỉ đạo tài tình, sắc sảo, các bài viết của ông thật sự là các tác phẩm báo chí giàu tính chiến đấu, tính giai cấp, tính văn hóa, tính nhân dân.

Báo Dân không tồn tại được bao lâu do kẻ địch biết đó là sự thay đổi tên gọi của Sông Hương tục bản và đứng đằng sau là Phan Ðăng Lưu, cao hơn là Xứ ủy Trung Kỳ (báo ra được 17 số, từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1938). Cơ quan Xứ ủy và Phan Ðăng Lưu tiếp tục cho ra tờ Dân tiến. Theo tuyên ngôn của báo: "Dân là dân, tiến là tiến tới. Dân tiến là dân tiến tới, dân cứ đi mãi. Dân có bị giết hết, bị tù, bị phạt, bị đói... dân vẫn cứ sống, vẫn cứ tới".

Ðể tránh sự kiểm duyệt gắt gao của Khâm sứ Trung Kỳ, báo được biên tập ở Huế sau đó đưa vào Sài Gòn in ấn, phát hành ở Nam Kỳ vì ở đó, báo chí dễ "thở" hơn. Báo vẫn do Phan Ðăng Lưu trực tiếp chỉ đạo, Huỳnh Văn Thanh làm quản lý, Lưu Quý Kỳ làm thư ký tòa soạn. Tòa soạn báo đặt ở 468 đường Nguyễn Tấn Nghiêm, Sài Gòn. Ra được 5 số thì Dân tiến bị nhà cầm quyền đóng cửa. Không chịu khuất phục, Phan Ðăng Lưu cho ra tiếp tờ báo mang tên Dân muốn, vẫn biên tập ở Huế nhưng in và phát hành ở Sài Gòn.

Trong các năm 1937, 1938, 1939, cùng với hoạt động báo chí sôi nổi, sáng tạo, Phan Ðăng Lưu còn cho ra mắt bạn đọc các tác phẩm mang tính nghiên cứu, lý luận như Xã hội tư bản, Thế giới cũ và thế giới mới, Thơ văn các nhà chí sĩ Việt Nam. Là người rất gần gũi với Phan Bội Châu, được coi là thư ký của cụ Phan, Phan Ðăng Lưu còn động viên, cổ vũ cụ Phan hoàn thành cuốn sách Phan Bội Châu niên biểu. Ông là người đã có ảnh hưởng sâu sắc đến những người hoạt động cách mạng ở Nghệ Tĩnh và Huế lúc đó như Trịnh Xuân An, Tôn Quang Phiệt, Trịnh Xuân Quang, Hà Thế Hanh hay lớp thanh niên yêu nước như Tố Hữu, Trần Tống, Trần Quỳnh, Nguyễn Chí Thanh.

Tháng 9/1939, Phan Ðăng Lưu được Trung ương Ðảng rút vào Nam Kỳ hoạt động bí mật. Ông tham dự và chỉ đạo các cuộc họp quan trọng của Xứ ủy Nam Kỳ, ra Việt Bắc dự Hội nghị Trung ương lần thứ 7 và trở thành một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Ðảng ta lúc đó. Trong chuyến trở lại Nam Kỳ truyền đạt chỉ thị của Trung ương nhằm hoãn cuộc khởi nghĩa nhưng không kịp, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra và Phan Ðăng Lưu bị địch bắt ngay khi vừa vào đến Sài Gòn.

Giữa năm 1941, Phan Ðăng Lưu cùng các chiến sĩ cộng sản ưu tú Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập và nhiều đồng chí khác hy sinh oanh liệt trước mũi súng của quân thù.

Hơn 60 năm đi qua từ ngày Phan Ðăng Lưu ngã xuống. Con thuyền cách mạng của Ðảng ta, nhân dân ta đã cập bến độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Trong trang sử vàng của cách mạng Việt Nam, báo chí Việt Nam, Phan Ðăng Lưu có một vị trí đáng kính trọng. Ông mãi mãi được nhớ đến, được ghi công như là một lãnh tụ xuất sắc của Ðảng ta, nhân dân ta, một nhà báo cách mạng trung kiên, ưu tú.

Tượng đài nhà cách mạng tiền bối Phan Đăng Lưu ở huyện Yên Thành. Ảnh tư liệu: Thái Dương

Tượng đài nhà cách mạng tiền bối Phan Đăng Lưu ở huyện Yên Thành. Ảnh tư liệu: Thái Dương

Nhà lưu niệm Phan Đăng Lưu tại xã Hoa Thành (Yên Thành). Ảnh tư liệu: Võ Đức

Nhà lưu niệm Phan Đăng Lưu tại xã Hoa Thành (Yên Thành). Ảnh tư liệu: Võ Đức

Nguồn: Bài đăng trên báo Nhân Dân ngày 15/11/2005
Trình bày: Hạnh Vũ
Ảnh: baoquankhu4