Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ có nhiều thành tựu. Ông từng giữ cương vị cao trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng của Đảng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Trong lĩnh vực văn học, ông là Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V (1995- 2000). Trường ca "Đất nước", tác phẩm "Ngôi nhà có ngọn lửa ấm" của ông đã làm nức lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật đợt I, năm 2001. Những năm gần đây, thơ của ông ngày càng giàu chất suy tưởng về những vấn đề lớn của đất nước, dân tộc và nhân loại, chạm đến nỗi u uẩn và mang lại sự thức tỉnh cho con người.
Cuộc trò chuyện dưới đây được thực hiện tại nhà riêng của ông ở Vỹ Dạ, thành phố Huế.

Phóng viên: Thưa ông, 80 năm trước, ngày 2/9/1945, nhà nước công nông đầu tiên ở châu Á đã ra đời sau cuộc cách mạng long trời lở đất tại một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị thực dân Pháp đô hộ hơn 80 năm, với khoảng 95% người dân mù chữ. Cùng với sự ra đời của một nhà nước mới là sự hình thành và xác lập một nền văn hóa mới. Theo quan sát của ông, điều đó đã diễn ra thế nào?

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Chúng ta đã nói nhiều về vấn đề này nhưng vẫn cảm thấy chưa nói hết được. Sau ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dân ta bắt tay xây dựng nhà nước mới, một nhà nước vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Những ai có điều kiện so sánh về hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội của Việt Nam với các quốc gia khác sẽ thấy trong vòng 80 năm, chúng ta đã làm được rất nhiều việc mà trong nhiều thế kỷ trước người Việt chưa làm được! Đây là giai đoạn lịch sử rất hào hùng của dân tộc ta.

Cùng với đó, văn hóa đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ, từ một nền văn hóa phong kiến, nửa thực dân, đế quốc, chúng ta trở lại với nền văn hóa của nhân dân, dựa trên quần chúng lao động, phát triển văn hóa để phục vụ nhân dân, đó là một “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Và điều đáng mừng là sự chuyển mình ấy đã được lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn từ Đảng cầm quyền.

Sự chuyển mình này hết sức quan trọng, bởi trước đây văn hóa nước ta chủ yếu là tài sản tinh thần của nhà nước cung đình, phong kiến; thời thực dân, nó trở thành phương thức biến đổi đất nước phù hợp với điều kiện của kẻ cai trị. Còn nền văn hóa mới của chúng ta phục vụ cho lợi ích của nhân dân, quan tâm, gắn bó đến người hưởng thụ văn hóa.

Năm 1948, nhà văn Nam Cao viết truyện ngắn “Đôi mắt”, đã nói về cái mới của nền văn hóa cách mạng. Tuy còn nói nhầm “lựu đạn” thành “nựu đạn”, nhưng anh nông dân khù khờ ngày hôm qua không còn nữa, bây giờ anh là người chiến sĩ chiến đấu với quân thù để bảo vệ và dựng xây đất nước. Nam Cao còn ngầm phê phán những trí thức trùm chăn, không thấy được cái mới trong văn hóa tinh thần của người Việt. Chính sự chuyển mình về văn hóa đã làm cho cuộc chiến đấu giành tự do, độc lập của nhân dân ta có thêm yếu tố sức mạnh.

Một số tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Một số tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Phóng viên: Phải chăng nền văn hóa mới đã được kế thừa, hun đúc từ hàng nghìn năm trước, mà biểu tượng của nó là lòng yêu nước, ý chí độc lập dân tộc được trao truyền đến hôm nay?

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Lịch sử nước ta có nhiều điều rất quý, nói mãi cũng không thể hết được cái quý đó đâu. Thí dụ những nhà nghiên cứu Trung Quốc đã kinh ngạc không hiểu vì sao trong gia đình Bách Việt, nước Việt Nam tách ra và tồn tại riêng một cõi hàng nghìn năm, dân số hơn 100 triệu như bây giờ?

Mùng 2/9 năm nay, chúng ta kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh. Trong 80 năm qua, Việt Nam đã mất 40 năm chiến tranh đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bảo vệ biên giới phía tây nam và phía bắc; nhưng chỉ với 40 năm hòa bình, chúng ta đã làm được rất nhiều việc, thay đổi cả giang sơn. Đây là một cố gắng to lớn của nhân dân ta và là thành tựu vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thành tựu ấy kế thừa từ chủ nghĩa yêu nước của cha ông ta đã được hun đúc từ nhiều thế kỷ; là tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường để xây dựng đất nước, và đó cũng là truyền thống văn hóa của dân tộc ta.

Phóng viên: Đảng ta đã ra nghị quyết nhấn mạnh vai trò quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội. Những vấn đề quan trọng đang đặt ra với văn hóa hiện nay là gì, thưa ông?

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Theo tôi, văn hóa vừa chuẩn bị cho trước mắt, vừa chuẩn bị cho lâu dài; cho thế hệ hiện nay và cho thế hệ tương lai, vì sự phát triển toàn diện con người. Phải đến những năm 1997-1998, UNESCO mới đặt ra vấn đề mới về văn hóa, như là nhân tố bảo đảm cho quá trình vận động và phát triển của loài người, là động lực cho sự phát triển của xã hội. Đảng ta đã nhanh chóng nắm bắt tư tưởng này và cho ra đời Nghị quyết Trung ương 5 về phát triển văn hóa trên tinh thần của UNESCO theo những điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Con người hôm nay không chỉ là con người chính trị mà còn là con người của đời sống kinh tế, đời sống xã hội, của gia đình, làng mạc, của những hiện thực mà họ đối diện, của thế giới tâm linh mà họ tôn thờ…, tức là rất đa dạng. Phải tôn trọng sự đa dạng và bảo đảm cho người dân được sống trong văn hóa tinh thần của họ. Ở khía cạnh này, phải nói rằng, từng có sự hẹp hòi, thiếu động viên, giúp đỡ kịp thời để mở rộng khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Gần đây, các nghị quyết về văn hóa đã cởi mở hơn, tạo điều kiện cho văn học, nghệ thuật phát triển, nhưng điều đáng lo hiện nay là tác động của thế giới vật chất càng ngày càng mạnh, bên cạnh những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới như AI, tác động của thế giới bên ngoài vào Việt Nam cũng rất nhiều, khiến chúng ta đứng trước những lựa chọn không dễ dàng, đó chính là những vấn đề mới đặt ra với văn hóa.

"Chính sự chuyển mình về văn hóa đã làm cho cuộc chiến đấu giành tự do, độc lập của nhân dân ta có thêm yếu tố sức mạnh".

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

Phóng viên: Là tác giả của các tác phẩm nổi tiếng “Đất ngoại ô”, “Mặt đường khát vọng”, “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” và gần nhất là “Cõi lặng”, ông có thể chia sẻ về chặng đường đến với thơ ca của mình?

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Tôi học khóa 3 năm của Trường đại học Sư phạm Hà Nội cùng với Phạm Tiến Duật, Nghiêm Đa Văn, Tô Hoàng, Vương Trí Nhàn... Học xong đại học, thì khám sức khỏe để đi bộ đội, nhưng tôi lại được chọn đi B (vào miền nam) theo diện cán bộ ngành giáo dục. Đoàn của chúng tôi có Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân), Phan Huỳnh Điểu… tập trung ở Hà Nội, lên Phú Thọ, rồi cuối năm 1964 vào miền nam. Một buổi chiều cuối năm, đến sông Sê-pôn (Hướng Hóa, Quảng Trị) tôi chia tay với Ca Lê Hiến, anh đi tiếp theo trục dọc, còn tôi rẽ ngang vào Trị Thiên.

Trong thời kỳ chiến tranh tôi từng làm báo Vùng lên của sinh viên Huế với Trần Vàng Sao. Theo yêu cầu của tòa soạn, trang báo thỉnh thoảng nên có một vài bài thơ cho tươi mát, nên tôi cũng viết và đăng thơ, nay xem lại thì cũng là thơ tuyên truyền, cổ động thôi. Mãi đến cuối năm 1968, chúng tôi được điều lên Khu ủy Trị Thiên, giáp biên giới Việt- Lào, chỗ anh Trần Hoàn (nhạc sĩ Trần Hoàn) phụ trách. Tới lúc đó có điều kiện yên tĩnh hơn, nên tôi bắt đầu tập trung vào viết. Những bài đầu tiên gửi ra Hà Nội, được dùng là Đất ngoại ô, Người con gái đội nón bài thơ… Lúc này tôi mới có ý thức làm văn nghệ thật sự và có tâm tình đầy đủ hơn, xây dựng bút pháp cho riêng mình tốt hơn là viết những lời động viên ồn ào.

Sách từ dưới thành phố Huế chuyển lên, tôi đọc văn chương của anh em văn nghệ miền nam trong vùng đô thị, dần dần mình học được, cảm thông được cách tư duy sáng tạo của họ, tạo thêm cho mình quyết tâm viết. Ngoài bắc các anh rất ủng hộ những gì miền nam gửi ra. Văn học vùng giải phóng bấy giờ có bao nhiêu đâu, nên có cái gì là đều được ưu tiên in hết. Có bài được, cũng có bài xoàng, nhưng dần dần nó giúp cho mình quyết tâm, hào hứng, tự tin hơn; nếu không có cái thúc sau lưng, khuyến khích ấy thì có lẽ chúng tôi cũng buông xuôi thôi.

Nhà thơ Lê Anh Xuân (bìa trái), chị Loan - vợ nhà văn Anh Đức và nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu tại Hà Nội năm 1964. (Ảnh tư liệu)

Nhà thơ Lê Anh Xuân (bìa trái), chị Loan - vợ nhà văn Anh Đức và nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu tại Hà Nội năm 1964. (Ảnh tư liệu)

Phóng viên: Có thể nói Trường ca “Mặt đường khát vọng”, mà đặc sắc nhất là chương Đất nước là cảm hứng về lịch sử, văn hóa và dân tộc dồn nén trong cảm xúc, khát vọng của tầng lớp thanh niên trí thức yêu nước. Trường ca viết khoảng năm 1971-1972 khi ông chưa đầy 30 tuổi. Xin ông “bật mí” về quá trình viết trường ca này?

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Năm 1971, trên Khu ủy, anh Trần Hoàn mở trại sáng tác văn học trong vòng một tháng. Tham gia chỉ có hơn chục người, chủ yếu là những anh em đã có viết bài, bắt đầu được chú ý.

Lúc đầu tôi cũng chưa có ý đồ sáng tác gì cụ thể. Anh Trần Hoàn hỏi, ông định viết gì. Tôi trả lời: Có lẽ sẽ viết một số bài thơ. Anh Trần Hoàn bảo: Không, ông nên viết một trường ca về cuộc đấu tranh của học sinh, sinh viên đô thị đi. Lời anh nói đúng vào tâm huyết của tôi, vì từ 1964-1971, tôi lo công việc phong trào đô thị nên được tiếp xúc nhiều với anh em. Những đêm không đọc sách thì ngồi kể chuyện cho nhau nghe. Lúc đó trong Huế có nhiều phong trào đấu tranh mạnh lắm. Năm 1971 biểu tình chống Mỹ, ảnh chụp đưa lên cứ hàng xấp dày. Cái đó tác động, nuôi dưỡng cho mình cảm xúc mạnh và mình tự thấy như là một thành viên của thế hệ đó.

Nhân vật trữ tình trong trường ca đó là chính mình, hóa thân thành một người sinh viên thành phố. Mình viết câu chuyện của đôi bạn trẻ sống trong phong trào đô thị, viết cả nỗi niềm xúc động, đau khổ khi quê hương bị giặc xâm chiếm, họ phải xuống đường đấu tranh. Bây giờ nhiều người nhớ chương Đất nước thôi, nhưng anh em văn nghệ ở Huế đọc lại nói thích chương khác cơ. Như Tuổi trẻ không yên chẳng hạn, viết về tâm tình của thế hệ trẻ khá sâu sắc. Mặt đường khát vọng giống như một tổng kết những năm tháng mình gắn với phong trào học sinh, sinh viên ở Huế, mặc dù mình không phải là người trực tiếp xuống đường như anh em, nhưng mình sống với họ hằng ngày, hồi hộp theo dõi công việc, phong trào của anh em, viết báo về anh em, nên cũng như mình đang có mặt trong đó. Và đây cũng là những trang trải của mình về những ngày gắn bó với phong trào sinh viên đô thị. Mình vừa chịu ơn họ về các vấn đề văn hóa, lịch sử mà họ đem lại cho mình, đồng thời mình cũng trao lại mong muốn về những tương lai, khát vọng mà người trẻ phải vươn tới.

Phóng viên: Thưa ông, giả dụ nhạc sĩ Trần Hoàn không gợi lên khát vọng viết về phong trào sinh viên đô thị trong ông, thì kết thúc trại, có lẽ ông cũng chỉ cho ra đời mươi bài thơ, chứ không thể có được một “Mặt đường khát vọng” dày dặn và nổi tiếng như ngày hôm nay?

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Tôi rút ra rằng, với anh em trẻ, ngoài cảm xúc ban đầu, họ rất cần sự động viên, khích lệ của người đi trước, mở rộng đường cho họ ăn nói, thì khi đó, họ mới dám viết, dám sáng tạo; không thì họ sợ, họ ngại, mà chủ yếu là lười nữa. Viết ra mà người ta không đồng tình, ủng hộ là nhụt chí rồi.

Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao để tạo được một khát vọng lớn trong giới trẻ, trong cán bộ, trong người về hưu, trong nhân dân nói chung, vươn lên đúng với đòi hỏi mới của đất nước. Tương quan trong thế giới ngày càng phức tạp. Sự cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng gay gắt. Khoa học - công nghệ dẫn con người tới văn minh, hiện đại thì đồng thời cũng dẫn tới những vũ khí hủy diệt, rồi những trò ma quỷ lợi dụng thành tựu của thông tin hiện đại khiến con người bất an, lo lắng. Hằng ngày, hằng giờ có thông tin giả, với một xã hội nhiều yếu tố phức tạp. Vì vậy chúng ta đang rất cần một khát vọng mới, các thế hệ cùng góp phần tạo cho được sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước.

Phóng viên: Ông có thấy sự khác nhau giữa khát vọng của thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và thế hệ thanh niên hôm nay?

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, thế hệ chúng tôi bắt đầu từ 1964-1965 đã làm nên một cuộc tập hợp với khát vọng giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Khóa sinh viên đại học chúng tôi năm ấy có hơn 200 người lên đường vào miền nam, rải khắp chiều dài đất nước. Trước lúc đi, Lê Anh Xuân ôm cây đàn ghita, chơi một giai điệu và đọc bài thơ Gửi Bến Tre. Năm 1968, anh hy sinh ở Sài Gòn. Đó là một thế hệ đầy hào sảng, đầy khát vọng, không nghĩ gì đến mình cả, chỉ nghĩ đến sự nghiệp lớn thôi.

Đến sau năm 1975, các thế hệ lại bắt đầu một hành trình mới, tập hợp khát vọng mới. Chặng đường này nhiều phức tạp, gập ghềnh hơn, nhưng trong những người trẻ đều mang đầy ý chí, tâm huyết. Khó khăn thời hậu chiến tứ bề, thiếu ăn, thiếu mặc, không phải là không có hoang mang, mất phương hướng. Có người ngồi giữa Thành phố Hồ Chí Minh khóc, nói Sài Gòn giải phóng cho tôi, chứ không phải tôi giải phóng Sài Gòn, vì khi đó Sài Gòn gây cho anh ta
một sự choáng ngợp về vật chất, giàu có. Nhưng sau đó tới chiến tranh biên giới Tây Nam, biên giới phía bắc, rồi thoát khỏi vòng bao vây, cấm vận của chủ nghĩa đế quốc; tiếp đó là giai đoạn đổi mới, lại là một cuộc tập hợp mới. Hiện nay, Đảng ta đang đặt ra một hành trình mới, bước vào kỷ nguyên mới, nước ta phải đi vào giai đoạn phát triển mới, tạo sức bật mới cho dân tộc, sự lựa chọn chiến lược ấy, tôi thấy đúng.

Trong tâm lý một bộ phận lớp trẻ bây giờ, họ sống để thỏa mãn tuổi trẻ của họ, chứ chưa chú ý nuôi dưỡng khát vọng, đau đáu vì khát vọng. Tôi thấy tâm lý bỏ cuộc, vọng ngoại có khá nhiều đấy anh ạ. Mình không đề cao nhiều chủ nghĩa dân tộc, nhưng tinh thần tự cường luôn phải có, phải quyết liệt. Nền kinh tế độc lập, tự chủ trên tinh thần tự cường quốc gia mà không có thì rất nguy hiểm. Mình bắt tay học hỏi cả thế giới, nhưng mình không để thế giới chi phối, mà phải chủ động gây dựng nội lực. Mình không thể như ngày xưa, khép kín, nhưng cũng không thể thả mình trôi nổi giữa mênh mông thế giới này.

Phóng viên: Là một nhà thơ, đồng thời là nhà chính trị từng giữ cương vị cao trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng của Đảng, ông có thể chia sẻ về sự dấn thân của một nhà văn, nhà thơ và của một nhà chính trị khác nhau như thế nào không, thưa ông?

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Người hoạt động chính trị mà viết văn, làm thơ thì thơ văn sẽ bổ sung cho anh cách nhìn những vấn đề cơ bản, những hướng tư duy lý tính. Nhưng tác động này cũng chỉ mức độ thôi, vì lợi ích chính trị khác với lợi ích văn chương. Với người làm chính trị đôi khi phải hạn chế bớt con người văn chương của mình, bởi vì chính trị yêu cầu sự đúng đắn, chặt chẽ còn văn chương lại bay bổng. Từ khi nghỉ hưu mình có thể viết như mình muốn, bày tỏ tình cảm, nỗi lòng mình trước cuộc sống. Mình tự tìm trong tâm hồn mình những điều mà người khác chờ đợi ở mình, có khi người đọc thấy hơi lạ, hơi khó chịu, nhưng đến khi nhận ra mình không có động cơ xấu gì cả, thì sẽ khác. Trong sáng tác cũng phải “liều” một chút, cùng chia sẻ với anh em không khí văn chương thật sự, để xã hội đa dạng hơn, giàu màu sắc, hương vị hơn. Tôi cũng mong xã hội có sự nhìn nhận rộng rãi như thế với nhà văn. Đó là cách mở đường cho văn chương.

"Bây giờ có xu hướng anh em trong giới đặt vấn đề với Đảng, Nhà nước cần có hỗ trợ, giúp đỡ thì văn học, nghệ thuật mới phát triển được. Tôi thấy cách đặt vấn đề như thế không đúng với tính chất của nghệ thuật. Bản chất của nghệ thuật là chính anh. Nếu anh không đủ nội lực để sáng tạo văn chương, nghệ thuật thì có một trăm sự giúp đỡ bên ngoài cũng vô ích thôi".

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

Phóng viên: Xin ông nói cụ thể về “cách mở đường” cho văn học, nghệ thuật hiện nay…

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Trước hết, trong chính con người nghệ sĩ phải chuẩn bị mình như thế nào, để nói được điều quan trọng trong đời sống mà anh quan sát, nhận thức và thể hiện. Một điều rất lớn với người nghệ sĩ là phải học, học rất nhiều; phải sáng tác tốt, nói đúng cái mong muốn của xã hội, của nhân dân hiện nay; phải chạm tới chỗ u uẩn nhất trong tâm hồn con người, qua đó thức tỉnh được người ta, đưa người ta đến với những điều tốt đẹp có thể thực hiện được.

Mình phải nói với nhau thế này: Người Việt Nam có mặt mạnh và cũng có mặt còn yếu. Thời kháng chiến, tôi đi công tác đến ở nhờ nhà bà con. Bà chị ở nhà trước, bà em ở nhà sau, chung một vuông sân. Hai gia đình khi nào cũng tươi cười, đon đả chào đón cán bộ, là những người yêu nước hết sức. Nhưng một hôm, chỉ vì chuyện mấy con gà gì đó, họ cự cãi nhau nát luôn. Họ không tiếc gạo nuôi bộ đội, nhưng lại chửi nhau vì mấy con gà. Tôi cho rằng, khi nào trong con người vẫn còn những chuyện như thế thì văn chương vẫn còn trách nhiệm viết về điểm yếu trong tâm hồn, về sự chưa trọn vẹn nhân tính.

Văn chương phải lo cho con người, chăm sóc phần hồn cho con người, thức tỉnh những điều tốt đẹp trong con người, biết đến những khó khăn, u uẩn trong tâm hồn họ. Nhà văn phải tiếp tục soi sáng chính mình trước khi phát hiện những vấn đề lớn của đời sống. Điều này rất quan trọng, vì từ đó mới có khả năng đọc được những vấn đề của xã hội, giống như tinh thần của đạo Phật, hướng con người trở về với chính mình đã, rồi anh sẽ thấy được nhân loại.

Xin trân trọng cảm ơn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm!

Nội dung: Hữu Việt
Trình bày: Nam Đông - Hải Nam
Ảnh: Báo Nhân Dân, cand.com.vn, taodan.com, baodongnai.com.vn...