Tháng 2/1943, tại Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng, Đề cương văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo được thông qua. Bản Đề cương được coi là cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, đã giải quyết những vấn đề cơ bản về tư tưởng, học thuật và mục tiêu, nhiệm vụ của nền văn hóa, tạo nền tảng ban đầu cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới.

Đề cương khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng văn hoá: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa”[1]. Đề cương văn hóa Việt Nam nêu lên những nguyên tắc lớn của văn hóa Việt Nam trong tương lai: Xây dựng nền văn hóa dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa. Đề cương văn hóa Việt Nam đã góp phần thức tỉnh, tập hợp những nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ và đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật thiết. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý quốc dân. Nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập.

--Chủ tịch Hồ Chí Minh--

Đến dự Hội nghị văn hóa toàn quốc, được khẩn trương tổ chức lần đầu tiên khi cuộc kháng chiến chống xâm lược đang đến gần, ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Người nêu tâm nguyện “thiết tha mong muốn nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”[2]. Đặc biệt, Người khẳng định: “Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật thiết. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý quốc dân. Nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nghệ sĩ nhiếp ảnh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nghệ sĩ nhiếp ảnh.

Ngày 16/7/1948 Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai có sự tham gia của nhiều nhà lãnh đạo, các nhà văn hóa, các văn nghệ sĩ nổi tiếng trong toàn quốc. Tại Hội nghị, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đọc báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, xác định rõ đường lối, phương châm phát triển văn hóa Việt Nam từ trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Văn hóa - văn nghệ được xác định là một mặt trận và văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Tại Đại hội II của Đảng, tháng 2/1951, đường lối phát triển văn hóa Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”.

Với khẩu hiệu hành động Kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến, đời sống văn hóa đã có những chuyển biến mạnh mẽ hòa với hiện thực cuộc sống và cuộc kháng chiến của dân tộc. Những định hướng đó còn tiếp tục chỉ đạo nền văn hóa trong cả cuộc kháng chiến chống xâm lược tiếp theo và sự nghiệp thống nhất đất nước của dân tộc. Sức mạnh văn hóa từ truyền thống được tỏa sáng và nâng cao trong Thời đại Hồ Chí Minh đã phát huy sức mạnh to lớn, góp sức để quân và dân Việt Nam chiến đấu và chiến thắng.  


Sức mạnh văn hóa từ truyền thống được tỏa sáng và nâng cao trong Thời đại Hồ Chí Minh đã phát huy sức mạnh to lớn, góp sức để quân và dân Việt Nam chiến đấu và chiến thắng. 

 

Sau khi thống nhất đất nước, Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm của cuộc cách mạng tư tưởng-văn hóa là xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, chỉ rõ nhiệm vụ trung tâm là xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII (6/1998) đã có Nghị quyết Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, mang tầm của một Cương lĩnh văn hóa trong thời kỳ Đổi mới của Đảng, khẳng định vi trò của văn hóa là: Nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế-xã hội.

Đây là một bước phát triển trong tư duy lý luận của Đảng về văn hóa, đã đặt đúng vị trí, vai trò của văn hóa trong những nhân tố phát triển, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của Việt Nam. Nghị quyết đã đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng tích cực và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, góp phần đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình và tạo nền tảng trở thành một nước công nghiệp.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Cương lĩnh cũng khẳng định: Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.

Nghị quyết Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Hội nghị Trung ương lần thứ 9, khóa XI, 6/2014) chỉ rõ việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người phải làm cho “văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội”, văn hóa phải “là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”. Yêu cầu nhiệm vụ của văn hóa Việt Nam là phát huy tinh thần yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc trong cương vực quốc gia dân tộc Việt Nam thống nhất. Đó cũng là sứ mệnh và mục tiêu của văn hóa: Xây dựng Xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bức tranh tổng thể của văn hóa Việt Nam trong quá trình Đổi mới mang những sắc thái mới, đa dạng và năng động. Đời sống văn hóa ở cơ sở đã có bước phát triển, thu hút quần chúng nhân dân tham gia hoạt động, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Các hoạt động văn hóa dân gian truyền thống được phục hồi và tổ chức với sự hưởng ứng rộng rãi của nhân dân. Đời sống văn hóa ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa đã có những cải thiện rõ rệt. Một chủ trương, chính sách văn hóa lớn của Đảng là xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở, tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân được hưởng thụ và tham gia vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Đây cũng là một trong những nội dung trọng tâm của Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, đã tạo điều kiện cho văn hóa, văn nghệ và thể dục thể thao quần chúng cả ở khu vục nông thôn, đô thị và cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp được duy trì và phát triển.

Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa đã góp phần quan trọng nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc. Sách báo, tạp chí và các ấn phẩm văn hóa phù hợp đã được đưa tới các bản làng, vùng sâu, vùng xa. Ở các cấp cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được quan tâm hỗ trợ xây dựng các nhà văn hóa là nơi sinh hoạt, tổ chức các hoạt động văn hóa-văn nghệ và hội họp chung của cộng đồng. Gần 100% số xã vùng dân tộc, miền núi có nhà văn hóa hoặc bưu điện văn hóa; nhiều thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng.

Trên lĩnh vực văn học-nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước phát triển mới, với sự phong phú, đa dạng của sản phẩm văn hóa. Nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống tuy gặp nhiều khó khăn khi chuyển đổi cơ chế, nhưng vẫn được giữ gìn và phát huy. Nhiều dự án sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóa được thực hiện. Nhiều tư liệu quý từ kho tàng văn hóa Việt Nam được sưu tầm, công bố tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư tưởng, học thuật và thẩm mỹ của dân tộc. Bên cạnh những nỗ lực bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền thống (tuồng, chèo, cải lương, quan họ, rối nước…), các loại hình nghệ thuật hiện đại (ca, múa, nhạc, kịch, xiếc, điện ảnh…) cũng có bước tiến mới, từng bước ứng dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào việc sản xuất và lưu trữ phim, bảo tồn và phát huy các tác phẩm văn học, nghệ thuật, nâng cao bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan theo quy định của pháp luật, hình thành tổ chức bảo hộ quyền tác giả, bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo v.v.

Các di sản văn hóa được bảo tồn và phát huy đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển bền vững đất nước. Đến tháng 12/2024, Việt Nam có khoảng 40.000 di tích và khoảng gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể trên cả nước được kiểm kê - trong đó có: 32 di sản được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc ghi danh gồm 08 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới, 3 công viên địa chất toàn cầu, 9 khu ramsar, 15 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh và 10 di sản tư liệu được Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO ghi danh. Hệ thống di sản văn hóa phong phú, cảnh quan kỳ vĩ và thơ mộng là tài sản vô giá, có tiềm năng chuyển hóa thành những sản phẩm, dịch vụ độc đáo, đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế, thương mại cũng như tạo dựng thương hiệu, vị thế của văn hóa Việt Nam.

Nhiều hiệp định văn hóa song phương và đa phương, các điều ước quốc tế về di sản văn hóa, về quyền tác giả và quyền liên quan đã được ký kết và tham gia; nhiều dự án về hợp tác văn hóa được thực hiện có hiệu quả. Nhiều hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa quốc tế trên quy mô lớn đã được tổ chức ở Việt Nam và nước ngoài gây được tiếng vang và tạo được ấn tượng tốt đẹp. Các liên hoan phim quốc tế, triển lãm mỹ thuật nhiếp ảnh quốc tế ở Việt Nam và của Việt Nam ở nước ngoài thời gian qua cũng đã làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước, con người bạn bè quốc tế và con người Việt Nam, góp phần vào sự hiểu biết lẫn nhau và quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và các nước.

Việc quảng bá, giới thiệu đất nước, con người, văn hóa nghệ thuật Việt Nam được đẩy mạnh thông qua những hoạt động xúc tiến văn hoá, thể thao và du lịch ở nhiều nước hoặc qua các phương tiện công cộng, truyền thông, báo chí, làm phim quảng bá trong nước và quốc tế, tổ chức thành công các hoạt động văn hóa đối ngoại, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ở nước ngoài trên diện rộng, trọng điểm tại những địa bàn truyền thống, những đối tác quan trọng.

Đến tháng 12/2024, Việt Nam có khoảng 40.000 di tích và khoảng gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể trên cả nước được kiểm kê; trong đó: 32 di sản được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc ghi danh gồm 08 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới, 3 công viên địa chất toàn cầu, 9 khu ramsar, 15 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh và 10 di sản tư liệu được Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO ghi danh.

Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững.
Lấy con người là trung tâm của phát triển và được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển.

--- Đại hội XIII của Đảng ---

Đại hội XIII của Đảng xác định những quan điểm, chủ trương mới, sâu sắc và toàn diện, đột phá về phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực: “Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”. Đại hội cũng xác định: “Lấy con người là trung tâm của phát triển và được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII).

Đại hội XIII của Đảng yêu cầu nghiên cứu, xác định và triển khai “xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII). Xây dựng, hoàn thiện các giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam thời đại mới với sự triển toàn diện về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, năng lực đổi mới sáng tạo, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế...

Đại hội XIII của Đảng xác định, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng. Cùng với đó là phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh quốc gia “để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế, tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII).

Thuật ngữ “sức mạnh mềm” và “phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam” cũng lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại hội của Đảng đã khẳng định và định hướng phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam, những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam là cội rễ của sức mạnh mềm văn hóa dân tộc, là sức mạnh nội sinh, là nguồn lực và động lực to lớn của đất nước trong phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

Các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý và công việc “tập trung xây dựng Đảng về đạo đức” cũng được Đại hội XIII của Đảng xác định phải thực hiện với nhiều giải pháp mới, trong đó nhấn mạnh: Đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng toàn diện gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hành dân chủ sâu rộng gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức.

Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.

---Tống Bí thư Nguyễn Phú Trọng ---

Từng bước đưa những định hướng phát triển văn hóa của Đại hội XIII vào thực tiễn, ngày 12/11/2021, Chính phủ đã ban hành Quyết định 1909/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Những mục tiêu phát triển văn hóa được xác định cụ thể, toàn diện, phù hợp xu thế thời đại, đáp ứng/thích ứng những yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hướng đến xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi thế; có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, huy động nguồn lực để phát triển văn hóa, con người.

Ngày 24/11/2021, Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng - “Hội nghị Diên Hồng về văn hóa”, đã thống nhất các định hướng nổi bật khi xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới là: Tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững; Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát huy hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới; Hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ máy quản lý Nhà nước về văn hóa;  Phát triển nguồn nhân lực ngành văn hóa, văn nghệ, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý; cho các lĩnh vực then chốt, đặc thù; Xây dựng văn hóa trong chính trị, trong kinh tế, đặc biệt là văn hóa trong Đảng trở thành tấm gương đạo đức cho xã hội; văn hóa doanh nghiệp trở thành hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế-xã hội; Phát triển thị trường văn hóa, các ngành công nghiệp văn hóa để đáp ứng nhu cầu tiếp nhận, hưởng thụ của người tiêu dùng và thị trường ngoài nước; Xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại; Tập trung nguồn lực từ Nhà nước và các thành phần kinh tế khác đầu tư cho phát triển văn hóa, xây dựng con người; Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hóa số... dưới sự lãnh đạo của Đảng “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” (Hồ Chí Minh), những định hướng đó cụ thể hóa đường lối của Đảng để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam khi bước vào Kỷ nguyên mới.

Ngày xuất bản: 29/1/2025
Tổ chức: HỒNG MINH
Nội dung: VƯƠNG ANH-TUYẾT LOAN
Trình bày: NGỌC BÍCH
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN