Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Văn Cường:
"TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC LÀ TRỤ CỘT CHIẾN LƯỢC, ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUỐC GIA"
Từ những ngày đầu thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước, khu vực này đã giữ vị trí, vai trò nòng cốt, góp phần vào việc ổn định kinh tế vĩ mô, đóng góp cho ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng-an ninh. Bước vào kỷ nguyên vươn mình, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước mang trên vai sứ mệnh lớn lao hơn trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định và bền vững.
Phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính Quốc hội chung quanh vấn đề này.
CHẶNG ĐƯỜNG GIỮ VAI TRÒ NÒNG CỐT CỦA KINH TẾ ĐẤT NƯỚC
Phóng viên: Từ năm 1994, tập đoàn kinh tế nhà nước được hình thành. Ông cho biết dấu ấn của tập đoàn kinh tế nhà nước trong hơn 31 năm phát triển?
Việt Nam có 671 doanh nghiệp nhà nước, trong đó có 6 tập đoàn kinh tế, 53 tổng công ty. Hiện nay, các tập đoàn kinh tế nhà nước đang nắm giữ những vị trí trọng yếu trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. Họ không chỉ đóng vai trò là trụ cột trong nước, mà còn từng bước vươn ra thị trường quốc tế, khẳng định năng lực cạnh tranh của kinh tế Việt Nam trên toàn cầu.
Phóng viên: Tập đoàn kinh tế nhà nước có vị trí vai trò như thế nào trong nền kinh tế quốc dân, góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thưa ông?
Các tập đoàn kinh tế nhà nước không chỉ là các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuần túy, mà còn là trụ cột bảo vệ và dẫn dắt nền kinh tế quốc dân phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, mang lại giá trị ổn định, lâu dài và bền vững cho đất nước.
Theo số liệu Bộ Tài chính, vốn đầu tư năm 2022 của 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước (đã chuyển giao về Bộ Tài chính vào đầu năm 2025) đạt khoảng 156 nghìn tỷ đồng. Trong đó, lĩnh vực năng lượng (điện, than) chiếm 80,47%, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, chiếm 10,61%; viễn thông và công nghệ thông tin chiếm 7,88%.
Năm 2022, các tập đoàn, tổng công ty đã cung cấp cho sản xuất và tiêu dùng 242,7 tỷ kWh điện, 10,84 triệu tấn dầu thô, 8,08 tỷ m3 khí, 42,2 triệu tấn than sạch, 13,76 triệu m3 xăng dầu, 5,78 triệu tấn Alumin, 30 ngàn tấn đồng tấm, 4,8 triệu tấn phân bón, 842 ngàn tấn hóa chất cơ bản, 2,3 triệu kwh ắc quy, 280 ngàn tấn chất giặt rửa, 3,7 triệu chiếc lốp ô -ô, vận chuyển 124,7 triệu lượt hành khách và 131 triệu tấn hàng hóa.
Phóng viên: Như đã đề cập ở trên, bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế, tập đoàn kinh tế nhà nước còn bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực. Giáo sư có thể nói rõ hơn về nhiệm vụ chính trị này?
GS, TS Hoàng Văn Cường: Trong bối cảnh Việt Nam là nền kinh tế mở, thu hút nhiều vốn FDI và có sự tham gia sâu vào thương mại toàn cầu, vẫn tồn tại những lĩnh vực sống còn mà quốc gia không thể phụ thuộc vào nước ngoài. Đó là quốc phòng, an ninh viễn thông, năng lượng, dầu khí, điện lực, hay an ninh lương thực. Bài học từ châu Âu, đặc biệt là Đức, cho thấy khi xung đột địa chính trị bùng phát, chỉ cần nguồn khí đốt bị cắt, kinh tế-xã hội có thể rơi vào khủng hoảng ngay lập tức.
Các tập đoàn kinh tế nhà nước không tồn tại chỉ để tìm kiếm lợi nhuận hay tối đa hóa doanh thu. Mục tiêu chính trị quan trọng mà khu vực kinh tế này đã thực hiện trong suốt những năm qua đó là giúp Nhà nước bảo đảm ổn định chính trị, an ninh xã hội và an toàn kinh tế.
Các tập đoàn kinh tế nhà nước luôn nỗ lực không ngừng để phát triển. Ảnh: VNPT
Các tập đoàn kinh tế nhà nước luôn nỗ lực không ngừng để phát triển. Ảnh: VNPT
Các doanh nghiệp nhà nước, trong đó có các tập đoàn kinh tế nhà nước đã đảm nhận vai trò “xương sống” ở những lĩnh vực này. Các tập đoàn nhà nước đang đóng vai trò là “nguồn bảo đảm an ninh nhiên liệu” những người "điều phối hệ thống mạng lưới điện quốc gia", "giữ vai trò ổn định an ninh lương thực" và "tạo ra sức mạnh ổn định về dự trữ lương thực của quốc gia".
Đây là những công cụ điều tiết quan trọng để Nhà nước thực thi vai trò định hướng, can thiệp vào nền kinh tế khi cần thiết, bảo vệ đất nước, người dân khỏi những biến động của thị trường và thiên tai, và trong bối cảnh biến động toàn cầu ngày càng phức tạp. Đó là sức mạnh bảo đảm độc lập, tự chủ kinh tế và an ninh quốc gia của Việt Nam.
Đặc biệt, các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực an ninh quốc phòng và các doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất phục vụ an ninh quốc phòng đang đóng vai trò nền tảng quan trọng cho việc xây dựng nền quốc phòng vững mạnh, độc lập, tự cường. Nhiều thành quả quan trọng của các doanh nghiệp trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng không phải để ai cũng có thể nhìn thấy ngay được.
Đất nước ta vừa thoát ra khỏi giới hạn của một nước thu nhập thấp, nhưng chúng ta có được một nền kinh tế ổn định, vượt qua mọi khó khăn biến động bất thường của thế giới; có một nền quốc phòng vững mạnh, độc lập, tự lập, tự cường, vị thế và uy tín quốc gia có được như ngày hôm nay phải kể đến có phần đóng góp quan trọng của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước.
TRỌNG TRÁCH “VỪA SẢN XUẤT KINH DOANH, VỪA MANG NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ”
Phóng viên: Từ khi hoạt động đến nay, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước luôn thực hiện cơ chế “vừa sản xuất kinh doanh, vừa mang nhiệm vụ chính trị”. Đồng thời làm hai nhiệm vụ lớn có đang gây khó khăn trong việc vận hành theo nguyên tắc thị trường của các tập đoàn nhà nước không? Làm thế nào để hài hòa hai vai trò này, thưa ông?
GS, TS Hoàng Văn Cường: Cần phải khẳng định rằng, trong thời kỳ tái thiết, xây dựng và phát triển kinh tế sau chiến tranh, chính các doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có các tập đoàn kinh tế đã thực hiện nhiệm vụ nặng nề nhưng đặc biệt quan trọng và vinh quang khi đóng góp cho tăng trưởng đất nước, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh, an toàn trọng yếu của quốc gia.
Đến thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế, chính trị đã có nhiều thay đổi, vai trò kép của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước cũng cần được nhìn nhận, đánh giá lại.
Một thực tế nổi bật của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước là họ luôn phải đối mặt với “xung đột kép”. Một mặt, họ phải thực hiện các nhiệm vụ chính trị theo kế hoạch và chỉ đạo của Nhà nước, kể cả những nhiệm vụ không mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp. Mặt khác, họ vẫn phải tồn tại và cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị trường, nơi lợi nhuận và hiệu quả là thước đo sống còn.
Đây là mâu thuẫn giữa 2 mặt trái ngược mà các doanh nghiệp nhà nước phải đồng thời đáp ứng: sản xuất theo mệnh lệnh có thể đi ngược logic vận hành của thị trường, và ngược lại, tuân quy luật thị trường có thể khiến một số mục tiêu chính trị không được đáp ứng.
Thi công công trình trọng điểm quốc gia Sân bay Long Thành. Ảnh: Tổng công ty Hàng không Việt Nam
Thi công công trình trọng điểm quốc gia Sân bay Long Thành. Ảnh: Tổng công ty Hàng không Việt Nam
Để khắc phục, cần phân định rạch ròi hai loại nhiệm vụ. Với nhiệm vụ chính trị, tiêu chí đánh giá không thể chỉ là lợi nhuận, mà là mức độ hoàn thành mục tiêu chiến lược. Ngược lại, với các hoạt động thuần túy thị trường, doanh nghiệp cần được trao quyền tự chủ, tự do cạnh tranh và chịu trách nhiệm trước các chỉ tiêu kinh tế.
Cách tiếp cận này vừa ngăn tình trạng ưu ái quá mức cho doanh nghiệp nhà nước, vừa chặn việc lợi dụng “nhiệm vụ chính trị” để bao biện cho kết quả kinh doanh kém hiệu quả. Quan trọng hơn, nó giúp các tập đoàn nhà nước phát huy đúng vai trò ở cả hai mặt: là yếu tố phục vụ lợi ích quốc gia và là chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo, cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường.
Gấp rút hoàn thành các hạng mục quan trọng của sân bay Long Thành. Ảnh: Tổng công ty Hàng không Việt Nam
Gấp rút hoàn thành các hạng mục quan trọng của sân bay Long Thành. Ảnh: Tổng công ty Hàng không Việt Nam
Phóng viên: Theo ông, chính sách và thể chế hiện nay đã đủ thông thoáng để các tập đoàn nhà nước chủ động đầu tư, mở rộng thị trường chưa?
GS, TS Hoàng Văn Cường: Thể chế kinh tế hiện nay đang được định hướng tạo môi trường thông thoáng hơn cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là với các tập đoàn kinh tế nhà nước. Nguyên tắc “quản lý theo kết quả đầu ra” thay vì “quản lý theo quy trình” được coi là bước tiến quan trọng, giúp doanh nghiệp nhà nước có quyền tự do đầu tư và kinh doanh tương tự doanh nghiệp tư nhân, nhất là ở những lĩnh vực có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh.
Tuy nhiên, sự thông thoáng này không đồng nghĩa với buông lỏng quản lý. Ngược lại, cơ chế thị trường sẽ trở thành “bộ lọc” tự nhiên để chọn ra những nhà quản trị, những chiến lược và mô hình kinh doanh phù hợp, có năng lực cạnh tranh thực sự. Các tập đoàn, doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, không đáp ứng yêu cầu của thị trường hoặc lựa chọn chiến lược sai lầm sẽ bị loại bỏ.
Cách tiếp cận này vừa là thách thức vừa là cơ hội. Thách thức, vì nó buộc doanh nghiệp nhà nước phải đổi mới, năng động và hiệu quả hơn. Cơ hội, vì đây là cơ chế sàng lọc tự nhiên, giúp lựa chọn ra những tập đoàn mạnh nhất, có chiến lược phù hợp nhất, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn mới.
TRỤ CỘT KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
Phóng viên: Vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật Quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (Luật số 68/2025/QH15 gọi tắt là Luật số 68). Luật số 68 có hiệu lực từ ngày 1/8/2025; được đánh giá là dấu mốc quan trọng trong công tác quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, cũng là giải quyết vướng mắc vừa trao đổi. Ông có thể nói rõ hơn, Luật 68 được thi hành sẽ cởi trói và mở cơ chế mới cho các doanh nghiệp nhà nước, trong đó có các tập đoàn kinh tế nhà nước như thế nào trong kỷ nguyên mới?
GS, TS Hoàng Văn Cường: Cần khẳng định, các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước suốt những năm qua. Tuy nhiên, vẫn chưa phát huy hết hiệu quả nguồn lực tương xứng với tiềm năng. Có những khó khăn, thách thức đã bó buộc các tập đoàn, tổng công ty và cần phải “cởi trói” để phát huy lợi thế, phát triển mạnh mẽ.
Theo Luật số 68/2025/QH15, nhiều thẩm quyền đã được trao lại cho lãnh đạo các Tập đoàn, Tổng công ty. Tôi cho rằng đây là bước cải cách quan trọng, mang tính đột phá, sẽ tháo gỡ triệt để những vướng mắc tồn tại của Luật số 69/2014/QH13 (Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp) trước đây, đặc biệt trong việc tách bạch rõ ràng vai trò quản lý nhà nước và quản trị kinh doanh của doanh nghiệp.
Luật số 68/2025/QH15 cởi trói cho các doanh nghiệp nhà nước để phát huy lợi thế, thúc đẩy tăng trưởng. Ảnh: Tổng công ty Hàng không Việt Nam
Luật số 68/2025/QH15 cởi trói cho các doanh nghiệp nhà nước để phát huy lợi thế, thúc đẩy tăng trưởng. Ảnh: Tổng công ty Hàng không Việt Nam
Điểm nổi bật nhất là Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước, vốn lâu nay mong muốn được vận hành như doanh nghiệp tư nhân, giờ đây có quyền tự xác định chiến lược, lựa chọn hướng đầu tư và đưa ra quyết định kinh doanh phù hợp với diễn biến nhanh chóng của thị trường – vốn không chờ đợi những thủ tục quản lý phức tạp, kéo dài.
Luật 68 đã cắt giảm nhiều ràng buộc về quy trình, thủ tục, trao quyền cho doanh nghiệp tự quyết định các vấn đề then chốt, từ sử dụng vốn, xây dựng chiến lược, lập kế hoạch đến triển khai dự án đầu tư. Nếu trước đây, mọi quyết định chiến lược, kể cả dự án đầu tư, đều phải xin ý kiến cơ quan chủ sở hữu vốn (tức Nhà nước), thì nay phần lớn quyền này được giao cho doanh nghiệp. Nhà nước chỉ giữ quyền phê duyệt trong một số trường hợp đặc biệt, như dự án có quy mô vốn rất lớn hoặc thuộc lĩnh vực bị hạn chế đầu tư.
Về cơ chế phân phối lợi nhuận, Luật 68 cũng tạo ra bước thay đổi lớn. Trước kia, sau khi hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, doanh nghiệp không có quyền tự quyết định phần lợi nhuận còn lại. Nay, luật cho phép doanh nghiệp tự sử dụng lợi nhuận sau khi hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ, đồng thời chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng nguồn lực. Đây là sự thay đổi mang tính “cởi trói” rõ rệt.
Có thể thấy, Luật số 68 không chỉ trao quyền mà còn buộc doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Sự tách bạch chức năng quản lý nhà nước và quản trị kinh doanh giúp tăng tính linh hoạt, khuyến khích sáng tạo, và phù hợp hơn với yêu cầu của một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, chắp đôi cánh để tập đoàn, tổng công ty Nhà nước vươn xa trong kỷ nguyên mới.
Theo Luật số 68/2025/QH15, nhiều thẩm quyền đã được trao lại cho lãnh đạo các Tập đoàn, Tổng công ty. Tôi cho rằng đây là bước cải cách quan trọng, mang tính đột phá, sẽ tháo gỡ triệt để những vướng mắc tồn tại của Luật số 69/2014/QH13 (Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp) trước đây, đặc biệt trong việc tách bạch rõ ràng vai trò quản lý nhà nước và quản trị kinh doanh của doanh nghiệp.
Phóng viên: Không chỉ đứng độc lập, việc phát huy chặt chẽ mối liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI sẽ thúc đẩy mức tăng trưởng cao của nền kinh tế như thế nào trong thời gian tới thưa ông?
GS,TS Hoàng Văn Cường: Nghị quyết của Đảng từ lâu đã khẳng định nguyên tắc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, bảo đảm các thành phần kinh tế được tồn tại và cạnh tranh bình đẳng, không tạo ưu đãi đặc quyền gây méo mó môi trường kinh doanh. Pháp luật hiện hành cũng hướng tới mục tiêu đó, nhằm xây dựng một thị trường cạnh tranh lành mạnh. Trong bối cảnh này, vấn đề đặt ra là mỗi khu vực kinh tế cần phát huy thế mạnh, khắc phục điểm yếu của mình, đồng thời biết tận dụng nguồn lực từ các khu vực khác để tạo hợp lực cho phát triển.
Từ yêu cầu đó, việc liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài trở thành tất yếu. Các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước ở từng ngành, từng lĩnh vực đang được giao trọng trách làm “trụ cột” định hướng và dẫn dắt phát triển. Muốn giữ vững vai trò này, doanh nghiệp nhà nước không chỉ phải tự nâng cao năng lực, khẳng định vị thế, mà còn phải chủ động “bắt tay” với khu vực tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Sự liên kết này sẽ gia tăng sức mạnh tổng hợp, củng cố vai trò dẫn dắt và nâng tầm vị thế của khu vực kinh tế nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cần nắm trong tay lực lượng kinh tế mạnh để bảo đảm định hướng phát triển. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò đó, nhưng không thể vận hành tách rời thị trường. Ngược lại, họ phải tuân thủ các quy luật kinh tế, đầu tư hiệu quả, đồng thời duy trì sự gắn kết chặt chẽ với các thành phần kinh tế khác để đạt hiệu quả kinh doanh.
Phóng viên: Việc định vị lại vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước có ý nghĩa như thế nào trong tiến trình xây dựng một nền kinh tế trong kỷ nguyên vươn mình, thưa ông?
GS, TS Hoàng Văn Cường: Chúng ta đang hướng tới hai mục tiêu 100 năm mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra. Trước hết, mục tiêu năm 2030 là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và trở thành một nước đang phát triển công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển có thu nhập cao.
Để thực hiện mục tiêu trên, ngay lúc này, chúng ta đang có tiềm năng, cơ hội lớn trong việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và có sức cạnh tranh quốc tế cho Việt Nam.
Trong tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam, khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế lớn đã chứng minh vai trò then chốt. Đây là công cụ kinh tế chiến lược giúp Nhà nước điều hành, định hướng sự phát triển của nền kinh tế quốc gia, đồng thời tạo ra hệ thống liên kết lan tỏa để thúc đẩy các lĩnh vực khác cùng phát triển.
Cần có cơ chế khuyến khích sự phát triển tiên phong và mũi nhọn, trong đó các tập đoàn kinh tế nhà nước không chỉ đóng vai trò tạo ra tiềm lực kinh tế mà còn là dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực quan trọng.
Trong tương lai, kỳ vọng đặt ra là các tập đoàn kinh tế nhà nước phải tiếp tục giữ vai trò trụ cột ở những ngành, lĩnh vực Nhà nước cần nắm giữ, trở thành "trụ cột" trong những lĩnh vực đó và làm chủ nhằm bảo đảm ổn định, chính trị, quốc phòng, phát triển kinh tế cũng như duy trì tính độc lập, tự chủ quốc gia.
Khi thực hiện tốt vai trò này, các tập đoàn nhà nước không chỉ trở thành cánh tay dẫn dắt nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường và cạnh tranh lành mạnh, mà còn bảo đảm các hoạt động ấy phù hợp với định hướng phát triển quốc gia. Nói cách khác, đây là khu vực trụ cột chiến lược, động lực phát triển nền kinh tế khi họ vừa phải đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa kiên định mục tiêu chiến lược mà Nhà nước đề ra, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Các tập đoàn nhà nước không chỉ trở thành cánh tay dẫn dắt nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường và cạnh tranh lành mạnh, mà còn bảo đảm các hoạt động đó phù hợp với định hướng phát triển quốc gia.
Ngày xuất bản: 08/9/2025
Chỉ đạo: NGUYỄN NGỌC THANH
Tổ chức sản xuất: TRƯỜNG SƠN-THẢO LÊ
Thực hiện: QUỲNH TRANG-DUY KHÁNH
Trình bày: BẢO MINH