UNCLOS: HIẾN PHÁP CỦA ĐẠI DƯƠNG
Ngày 10/12/1982, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) chính thức được ký kết. Được ví như bản Hiến pháp của đại dương, trải qua 40 năm, UNCLOS năm 1982 không chỉ là một văn kiện pháp lý quốc tế có giá trị phổ quát, giúp các quốc gia thiết lập được trật tự pháp lý toàn diện, công bằng, hòa bình trên biển, mà còn có giá trị hướng về tương lai, phù hợp mục tiêu phát triển bền vững của nhân loại.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH UNCLOS
Luật Biển quốc tế được hình thành như thế nào?
Luật Biển (tiếng Anh là The Law of the Sea) là một tập hợp những chế định, quy định pháp lý dùng để điều chỉnh tất cả các quan hệ có liên quan diễn ra trên tất cả các vùng biển; nếu được các chủ thể trong quan hệ quốc tế ký kết, tham gia thì gọi là Luật Biển quốc tế; nếu được một quốc gia ven biển ban hành thì gọi là Luật Biển quốc gia.
Trong lịch sử nhân loại, vấn đề mở rộng và xác định phạm vi các vùng biển thuộc các quyền quốc gia luôn là vấn đề quan trọng, là đề tài phong phú và phức tạp của nhiều diễn đàn, được cả cộng đồng quốc tế quan tâm; có khi còn là nguyên nhân hoặc nguồn gốc của nhiều xung đột, chiến tranh ở những quy mô khác nhau giữa các quốc gia.
Từ khi quốc gia xuất hiện, các quốc gia ven biển luôn có xu hướng mở rộng quyền lực ra hướng biển. Xu hướng này lại mâu thuẫn với tham vọng muốn duy trì quyền tự do hoạt động trên biển của các cường quốc hàng hải. Trong quá trình đấu tranh giữa 2 xu hướng đó đã xuất hiện các nguyên tắc, chế định, quy định pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ và điều hòa lợi ích giữa các quốc gia. Chính điều đó đã tạo nền móng cho Luật Biển ra đời và phát triển.
Năm 1958, Liên hợp quốc triệu tập Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ nhất tại Geneve (Thụy Sĩ) với 86 nước tham dự. Hội nghị này đã thông qua 4 Công ước quốc tế về Luật Biển, gồm: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải; Công ước về đánh cá và bảo tồn tài nguyên sinh vật; Công ước về thềm lục địa; Công ước về biển cả. Tuy nhiên một số nội dung quan trọng chưa được giải quyết, như chiều rộng lãnh hải, quyền đi qua eo biển quốc tế, giới hạn vùng đánh cá, ranh giới ngoài của thềm lục địa.
Năm 1960, cũng tại Geneve, Liên hợp quốc triệu tập Hội nghị Luật Biển lần thứ 2 để giải quyết những tồn tại nói trên, song không đạt thỏa thuận mới nào.
Năm 1973, Liên hợp quốc triệu tập Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 để tiếp tục thảo luận và thông qua Công ước Luật Biển mới. Trải qua 5 năm trù bị (1967-1972), 9 năm thương lượng (1973-1982) và 11 khóa họp, ngày 30/4/1982, Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật Biển lần thứ 3 đã thông qua được một Công ước mới, gọi là UNCLOS năm 1982, với tỷ lệ 130 phiếu thuận, 4 phiếu chống, 17 phiếu trắng và 2 nước không tham gia bỏ phiếu. Sau đó, ngày 10/12/1982, tại Vịnh Montego (Jamaica), 117 đoàn đại biểu quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã chính thức ký Công ước. Ngày 16/11/1994, một năm sau khi có đủ 60 quốc gia thành viên phê chuẩn, UNCLOS năm 1982 đã chính thức có hiệu lực.
Nội dung cơ bản của UNCLOS năm 1982 là gì?
UNCLOS năm 1982 bao gồm tất cả mọi khía cạnh liên quan đến Luật Biển và được các quốc gia chấp nhận theo nguyên tắc “nhất trí”. UNCLOS năm 1982 gồm 17 phần với 320 điều khoản, cùng 9 phụ lục với hơn 100 điều khoản và 4 nghị quyết kèm theo, chứa đựng 1.000 quy phạm pháp luật quốc tế.
Đây là một văn kiện pháp lý quốc tế tổng hợp, toàn diện, bao hàm tất cả những nội dung quan trọng nhất trong luật pháp và thực tiễn quốc tế về biển và đại dương thế giới; trong đó quan trọng nhất là thống nhất phương pháp xác định phạm vi không gian của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các nước ven biển, quy định rõ ràng các quyền và nghĩa vụ của mọi quốc gia, có biển và không có biển, phát triển hay đang phát triển, trong nhiều lĩnh vực như an ninh, bảo vệ môi trường, thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên, giao thông liên lạc, nghiên cứu khoa học và công nghệ… trên các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, cũng như tại các vùng biển nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia. UNCLOS năm 1982 cũng định ra trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp trên biển giữa các quốc gia bằng biện pháp hòa bình.
UNCLOS năm 1982 đã khắc phục những điểm hạn chế của các Công ước năm 1958 và tạo dựng một khuôn khổ pháp lý công bằng, hài hòa lợi ích của các nhóm nước khác nhau, như giữa những nước có biển và không có biển hoặc gặp bất lợi về mặt địa lý, giữa nước phát triển với các nước đang phát triển và kém phát triển.
Lần đầu tiên, UNCLOS năm 1982 đã hoàn chỉnh các quy định về xác định ranh giới các vùng biển từ nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, biển cả và vùng đáy biển quốc tế. Đặc biệt, chế độ vùng đặc quyền kinh tế ra đời là kết quả của việc bảo vệ các đặc quyền về kinh tế của các quốc gia đang phát triển và các quốc gia mới giành được độc lập trong phong trào giải phóng dân tộc vào những năm 60 của thế kỷ XX. Đây là chế định pháp lý lần đầu tiên được quy định có tính tới đặc thù phân bổ tự nhiên của các tài nguyên sinh vật biển trong phạm vi 200 hải lý và thiết lập công bằng cho tất cả quốc gia, loại trừ các quy định dựa trên quyền đánh bắt cá truyền thống, lịch sử do các quốc gia có điều kiện khoa học-kỹ thuật phát triển thiết lập kể từ trước khi Công ước ra đời.
Với thềm lục địa, UNCLOS năm 1982 quy định các tiêu chí xác định ranh giới thềm lục địa dựa trên các tiêu chí khách quan về mặt địa lý trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc đất thống trị biển. Theo đó, thềm lục địa là một khái niệm địa chất, là phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của các quốc gia ven biển. Vì vậy, tối thiểu các quốc gia có thể xác định chiều rộng vùng thềm lục địa pháp lý là 200 hải lý kể từ đường cơ sở. Các quốc gia có thềm lục địa tự nhiên rộng hơn 200 hải lý được phép xác định thềm lục địa pháp lý mở rộng.
Tuy nhiên, để bảo đảm yếu tố công bằng, khách quan, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS) của Liên hợp quốc có thẩm quyền xem xét phương pháp xác định thềm lục địa mở rộng của các quốc gia ven biển và chỉ những ranh giới thềm lục địa mở rộng nào được xác định phù hợp với khuyến nghị của CLCS mới có giá trị ràng buộc và nhận được sự công nhận từ các quốc gia khác.
Quyền lợi của các quốc gia không có biển hoặc gặp bất lợi về mặt địa lý cũng được tính tới khi một loạt quy định về quá cảnh, khai thác lượng đánh bắt cá dư được quy định trong quy chế về vùng đặc quyền kinh tế. Bên cạnh đó, đặc thù của các quốc gia quần đảo cũng lần đầu tiên được xem xét và pháp điển hóa thành quy chế pháp lý của quốc gia quần đảo.
Đặc biệt, bên cạnh việc kế thừa quy định tự do biển cả, UNCLOS năm 1982 lần đầu tiên xây dựng quy chế pháp lý về vùng đáy biển quốc tế với đặc trưng là di sản chung của nhân loại. Trong đó, Cơ quan quyền lực đáy đại dương (ISA) được thành lập để xây dựng quy chế về khai thác tài nguyên tại vùng đáy biển quốc tế và phân bổ lợi ích công bằng tới các quốc gia thành viên. Hiệp định về thực hiện phần XI cũng đã được ký kết vào năm 1994 để bổ sung vào UNCLOS năm 1982 các quy định cụ thể về quản lý và khai thác vùng đáy biển quốc tế.
NỖ LỰC CỦA VIỆT NAM THỰC THI CÔNG ƯỚC
Việt Nam thể hiện trách nhiệm thành viên UNCLOS 1982 như thế nào?
Theo PGS, TS. Nguyễn Thị Lan Anh, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao, ngay sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã tích cực tham gia Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 của Liên hợp quốc; ngày 12/5/1977 ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế, thềm lục địa. Mặc dù được công bố từ năm 1977, nhưng nội dung của Tuyên bố này hoàn toàn phù hợp các quy định của UNCLOS được các quốc gia ký kết vào năm 1982. Năm 1994, Việt Nam là quốc gia thứ 63 phê chuẩn UNCLOS năm 1982, trước khi Công ước chính thức có hiệu lực vào tháng 12/1994. Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn UNCLOS năm 1982 đã khẳng định rõ, bằng việc phê chuẩn UNCLOS năm 1982, Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển.
Sau khi trở thành thành viên chính thức của UNCLOS năm 1982, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trong nước để cụ thể hóa các quy định của Công ước trong nhiều lĩnh vực, như biên giới lãnh thổ, hàng hải, thủy sản, dầu khí, bảo vệ môi trường biển và hải đảo... Đặc biệt, năm 2012, Việt Nam đã ban hành Luật Biển Việt Nam với hầu hết các nội dung tương thích với UNCLOS năm 1982.
Thực hiện nghĩa vụ quy định tại UNCLOS năm 1982, năm 2009, sau 15 năm trở thành thành viên của Công ước, Việt Nam đã đệ trình ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng khu vực phía Bắc lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS) của Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng hợp tác cùng Malaysia đệ trình lên CLCS ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng chung tại phía Nam Biển Đông, nơi hai nước có thềm lục địa chồng lấn, chưa phân định.
Với tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS năm 1982, Việt Nam đã phân định thành công các vùng biển chồng lấn với nhiều nước láng giềng. Song song với phân định biển, Việt Nam và Trung Quốc cũng đạt được thỏa thuận về hợp tác nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ, qua đó xác lập khu vực hợp tác đánh bắt cá chung và tuần tra chung để ngăn ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm trên biển.
Cho tới nay, các hiệp định phân định biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng được thực hiện đúng nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS năm 1982, góp phần thúc đẩy quan hệ hòa bình, ổn định và phát triển giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng. Bên cạnh phân định biển, Việt Nam cũng đã đạt được thỏa thuận với Campuchia về vùng nước lịch sử tại khu vực biển chưa phân định giữa hai nước. Đồng thời, cùng với Malaysia, thiết lập khu vực khai thác dầu khí chung tại khu vực thềm lục địa chồng lấn chưa được phân định giữa hai nước.
Tại các khu vực biển chống lấn chưa được phân định với các nước láng giềng, như khu vực chồng lấn với Campuchia, khu vực chồng lấn ba bên giữa Việt Nam, Malaysia và Thái Lan, hoặc khu vực có khả năng chồng lấn giữa Việt Nam và Brunei, cũng như giữa Việt Nam và Philippines, Việt Nam luôn tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, trong khi thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, Việt Nam ủng hộ việc duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Đặc biệt với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một mặt, Việt Nam khẳng định có đầy đủ các bằng chứng lịch sử và pháp lý để minh chứng cho chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo này, mặt khác, Việt Nam xác định cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của UNCLOS năm 1982. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã tham gia ký kết và thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đồng thời đang tích cực cùng Trung Quốc và các quốc gia thành viên ASEAN đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Ngày 22/10/2018, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã được ban hành. Chiến lược xác định rõ: Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh các mục tiêu phát triển kinh tế biển xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, giữ gìn, phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa biển, kết hợp với tiếp thu khoa học-công nghệ, tiên tiến, hiện đại, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, Chiến lược xác định tầm nhìn tới năm 2045 là Việt Nam sẽ tham gia trên tinh thần chủ động, có trách nhiệm giải quyết các vấn đề quốc tế, khu vực về biển và đại dương.
Thực hiện tinh thần này, năm 2021, Việt Nam đã cùng 11 nước sáng lập Nhóm bạn bè của UNCLOS năm 1982 nhằm tạo ra một diễn đàn cởi mở, thân thiện để các nước cùng trao đổi các vấn đề về biển và đại dương, qua đó đóng góp chung vào việc thực hiện đầy đủ UNCLOS. Việt Nam tiếp tục chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn đa phương, thảo luận về các vấn đề mới nổi lên của biển và đại dương như bảo tồn đa dạng sinh học tại vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia, ứng phó với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu với biển và đại dương, quản trị các hoạt động trên biển trong điều kiện có các thách thức an ninh phi truyền thống mới, như đại dịch Covid-19, nạn buôn bán người, di cư trái phép...
Luật Biển Việt Nam có những mối liên hệ nào với Luật Biển quốc tế?
Sự kiện ban hành Luật Biển Việt Nam là sự kiện pháp lý rất cần thiết và quan trọng của quy trình xây dựng luật pháp của Nhà nước Việt Nam trong mối liên quan với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Theo Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới của Chính phủ, có 3 lý do để lý giải về sự kiện này, đồng thời cũng cho thấy mối quan hệ giữa Luật Biển Việt Nam và Luật Biển quốc tế:
Thứ nhất, sau khi ký UNCLOS 1982, năm 1994, Quốc hội đã phê chuẩn và chính thức trở thành thành viên Công ước. Việc nhanh chóng nội luật hóa, biến các quy định của UNCLOS 1982 thành quy định cụ thể là yêu cầu tất yếu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải có nghĩa vụ thực hiện. mọi quy định của Luật Biển Việt Nam không được trái những quy định của Luật Biển quốc tế mà chỉ được phép cụ thể hoá các chế định, quy định của Luật Biển quốc tế.
Thứ hai, trước Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ 3 được ký kết, để đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động trên biển, Việt Nam đã có những văn bản quy phạm pháp luật về biển, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, chưa thích hợp để xử lý mối quan hệ ngày càng phát triển, các hoạt động kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh trên biển, đặc biệt trong tình hình có những tranh chấp phức tạp. Do vậy, không thể không có Luật Biển quốc gia để đáp ứng tất cả đòi hỏi đó, hơn nữa, điều đó cũng thể hiện trách nhiệm và tính nghiêm túc của Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức của UNCLOS 1982.
Thứ ba, xu hướng thế giới hiện nay là hướng ra biển và đại dương. Trên thực tế việc khai thác nguồn lợi đại dương, từ giao thông hàng hải, tài nguyên sinh vật và không sinh vật, khai thác dầu khí ngày càng phát triển, đưa đến lợi ích rất lớn với quốc gia, đặc biệt quốc gia ven biển như Việt Nam, một quốc gia có bờ biển dài, vùng biển rộng. Sự nghiệp phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trong tình hình hiện nay đòi hỏi Việt Nam phải vươn ra biển để khai thác và bảo vệ, quản lý biển là đòi hỏi tất yếu. Nếu không kịp thời có luật điều chỉnh ngay những hoạt động đó phù hợp luật pháp quốc tế, phù hợp quan hệ chính trị ngoại giao trong khu vực và các nước thì dẫn tới xung đột, mà nguy cơ xung đột không chỉ ảnh hưởng tới khu vực và thế giới, mà chính là lợi ích của đất nước.
Ca-nô tuần tra trên vùng biển Trường Sa. (Ảnh: MINH PHÚ)
Ca-nô tuần tra trên vùng biển Trường Sa. (Ảnh: MINH PHÚ)
Ngày xuất bản: 06/12/2022
Tổ chức thực hiện: CHU HỒNG THẮNG - PHẠM TRƯỜNG SƠN
Nội dung: SƠN NINH - ĐINH TRƯỜNG
Trình bày: HOÀNG HÀ
Nguồn tư liệu: Ủy ban Biên giới quốc gia, Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao, Bộ Ngoại giao.