Bà đỡ của văn chương là ai? Xin được nói ngay đó là báo chí. Tại sao báo chí lại được ví là bà đỡ của văn chương trong khi các tác phẩm in ấn của nhà văn đều đi ra từ nhà xuất bản và ngạch xuất bản không được tính vào hàng ngũ báo chí? Nghe qua tưởng tréo ngoe nhưng lại là sự thật, bởi các nhà văn của ta hiện nay và cả trước đó rất xa, nếu không có báo chí đăng tải và giới thiệu tác phẩm thì liệu có thành danh?

Thập niên 80 thế kỷ trước, cái tên Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện trên Báo Văn nghệ bằng truyện ngắn “Những ngọn gió Hua Tát”. Liên tiếp những tác phẩm sau đó mà đỉnh cao là “Tướng về hưu” đã làm nên tên tuổi Nguyễn Huy Thiệp lừng danh văn đàn. Cho dù ông sáng tác sớm trước thời điểm công bố tác phẩm trên Báo Văn nghệ thì vẫn phải thừa nhận nhờ diễn đàn báo chí, Nguyễn Huy Thiệp đã được độc giả chấp nhận và đón đợi. Sau này ngoài Báo Văn nghệ, nhà văn còn in tác phẩm của mình trên nhiều tờ báo trong nước và cả ngoài nước.

Trường hợp của cây bút hàng đầu văn giới như Nguyễn Huy Thiệp tạo được tên tuổi với sự công phá mạnh bằng tác phẩm của mình, trong giai đoạn xã hội bước vào thời kỳ Đổi mới là minh chứng chắc chắn về vai trò bà đỡ của báo chí. Ngoài truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp đăng tải trên báo chí nhiều bài tiểu luận sắc sảo và một số loại thể khác, trong đó có kịch và thơ.

Truyện ngắn “Những ngọn gió Hua Tát” xuất hiện ban đầu trên Báo Văn nghệ.

Truyện ngắn “Những ngọn gió Hua Tát” xuất hiện ban đầu trên Báo Văn nghệ.

Một trường hợp khác có vẻ như ngược lại, nhưng theo tôi vẫn nằm trong cái sự “bà đỡ” của báo chí, đó là nhà văn Bảo Ninh. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 1990.

Tiểu thuyết này vừa ra đời đã nhận được quan tâm đặc biệt của dư luận, vì nó hay, nó lạ ở một cách nhìn mới về chiến tranh của chính người trong cuộc. Hầu như không có một tờ báo hoặc tạp chí có chuyên mục văn nghệ nào lại không có bài viết về “Nỗi buồn chiến tranh”. Không hề nói quá, nếu không có báo chí phê bình, tranh luận, giới thiệu thì tiểu thuyết này khó đạt tầm vóc như vậy.

Thậm chí, nhờ có những tranh luận nhiều chiều về tác phẩm, trong đó có sự đánh giá lại tác phẩm của chính những người trao giải đã khiến “Nỗi buồn chiến tranh” càng nổi tiếng, được dịch ra nhiều thứ tiếng và được xuất bản ở nhiều nước.

Nhà văn Bảo Ninh. Ảnh: Nguyễn Đình Toán

Nhà văn Bảo Ninh. Ảnh: Nguyễn Đình Toán

Đại đa số các nhà văn Việt Nam có tác phẩm nổi tiếng đều ở thể loại truyện ngắn và thành danh nhờ được báo chí đăng tải, kế sau đó mới là tiểu thuyết, truyện dài.

Tạ Duy Anh với truyện ngắn “Bước qua lời nguyền” như một khắc dấu của sự dịch chuyển quan trọng trong một thời kỳ đổi mới mạnh mẽ cả ở trong xã hội lẫn văn chương. Sau này tên tuổi ông được ấn chứng bởi một loạt tiểu thuyết, nhưng tôi cho rằng, nhà văn họ Tạ nổi danh vẫn là ở những truyện ngắn và đặc biệt những bài tiểu luận xuất sắc in trên báo chí. Tất nhiên qua báo chí thì những tiểu thuyết kia mới được biết đến rộng rãi và lan tỏa.

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có hàng trăm truyện vừa, truyện dài thiếu nhi nhưng nếu không có báo chí bình luận, phê bình, giới thiệu thì làm sao tác phẩm của anh đứng chân vững bền được mãi trong lòng độc giả và được đón nhận nồng nhiệt. Tất nhiên đỡ đến đâu thì vẫn phải tiêu chí hàng đầu là chất lượng tác phẩm.

Có thể liệt kê không hết những tên tuổi ghi dấu ấn bằng những sáng tác trên báo chí. Nguyễn Thị Thu Huệ với những tập truyện ngắn bao gồm hầu hết tác phẩm đã đăng báo được tập hợp lại in thành sách. Nhà văn Y Ban xuất hiện bằng truyện ngắn “Bức thư gửi mẹ Âu Cơ” từ Tạp chí Văn nghệ quân đội.

Nhiều tên tuổi ghi dấu ấn bằng những sáng tác trên báo chí

Nhiều tên tuổi ghi dấu ấn bằng những sáng tác trên báo chí

Văn xuôi là thế, còn thơ thì sao? Xin thưa, nhờ báo chí tôi mới biết đến những bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Nhớ mãi có lần ở chiến trường, tôi được nghe Lửa đèn qua Đài Tiếng nói Việt Nam. Bài thơ hay đến mức các anh lính đều biết, có người thuộc lòng. Tôi chép lại bài thơ này trong sổ nhật ký qua trí nhớ của một bạn lính. Vài chục năm sau chiến tranh, tôi đã cho anh Duật xem bài thơ tôi chép, có sai một số câu. Phạm Tiến Duật nhẹ nhàng bảo, “thơ tôi được nhiều người chép, nhiều người nhớ nhưng đọc trang nhật ký của Tiến tôi thấy xúc động”.

“Nhớ mãi có lần ở chiến trường, tôi được nghe Lửa đèn qua Đài Tiếng nói Việt Nam. Bài thơ hay đến mức các anh lính đều biết, có người thuộc lòng.”

Có một giao thừa ở chiến trường Đông Nam Bộ, cả đơn vị tập hợp đón năm mới đã rất xúc động khi được nghe chương Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trong thời khắc thiêng liêng chuyển giao thời gian, rất nhiều người lính đã rơi nước mắt. Đấy, nếu không có báo chí, trong trường hợp này là báo nói thì làm sao những người con xa Hà Nội ngày ấy biết đến cảm xúc tận cùng về đất nước, về con người xứ sở, về tình yêu quê hương.

CÁC BÁO, KỂ CẢ NHỮNG TỜ KHÔNG CHUYÊN VĂN CHƯƠNG, VẪN HAY MỞ NHỮNG CUỘC THI THƠ VĂN. NHỮNG CUỘC THI CHỌN RA NHỮNG TÁC PHẨM XUẤT SẮC NHẤT VÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN TÁC GIẢ CỦA NÓ CÓ MỘT SỰ KHÍCH LỆ LỚN CÙNG ĐỘNG LỰC MẠNH MẼ ĐỂ THEO ĐUỔI NGHIỆP VĂN. RẤT NHIỀU TÁC GIẢ TRƯỞNG THÀNH VÀ TRỞ THÀNH NHÀ VĂN TỪ NHỮNG GIẢI THƯỞNG ĐẦY KHÍCH LỆ NÀY.

Nguyên Tổng Biên tập Thuận Hữu cùng các lãnh đạo Báo Nhân Dân qua các thời kỳ gặp mặt cộng tác viên văn nghệ năm 2019.

Nguyên Tổng Biên tập Thuận Hữu cùng các lãnh đạo Báo Nhân Dân qua các thời kỳ gặp mặt cộng tác viên văn nghệ năm 2019.

Với tôi, báo chí không chỉ là bà đỡ mà còn là nơi tạo dựng cho tôi sự nghiệp. Thuở ban đầu chập chững vào nghề, tình yêu văn chương cháy bỏng nhưng cũng đầy thử thách khó khăn. Đầu tiên tôi thử sức bằng truyện ngắn mi-ni và gửi ở những tờ báo có chuyên mục văn hóa-văn nghệ. Ở ta, ngoài vài tờ báo chuyên văn chương như Văn nghệ hay Văn nghệ quân đội, hầu hết các báo và tạp chí đều dành số trang nhất định cho văn thơ.

Tôi nhớ Báo Văn hóa từ thời nhà báo Nguyễn Văn Anh làm Thư ký tòa soạn, nơi đăng tải các truyện ngắn của tôi ở thời ban đầu vụng dại. Một lần gửi anh truyện ngắn mới Chạy trốn, anh bảo, truyện này dài và rất chất lượng, hãy tìm tới một tờ báo văn chương. Nghe lời anh, tôi gửi vào hòm thư của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhờ đó Chạy trốn mang lại cho tôi Giải nhì cuộc thi của tạp chí này năm 1989-1990.

Nhà văn Phạm Ngọc Tiến và cuốn sách được xuất bản từ những bài báo ông viết cho chuyên mục của Báo Nhân Dân hằng tháng.

Nhà văn Phạm Ngọc Tiến và cuốn sách được xuất bản từ những bài báo ông viết cho chuyên mục của Báo Nhân Dân hằng tháng.

Với Báo Nhân Dân, tôi đã cộng tác từ những truyện ngắn xinh xẻo ở tờ Nhân Dân cuối tuần, được nhà thơ Lê Quang Trang biên tập. Những năm gần đây, tôi giữ một vài chuyên mục cộng tác với nhà báo Phan Thanh Phong ở Nhân Dân hằng tháng. Có chuyên mục kéo dài vài năm, số bài đăng cũng được tờ báo tập hợp in thành sách. Một niềm vui không hề nhỏ với một nhà văn tham gia viết báo.

Tôi từng được mời dự nhiều cuộc họp cộng tác viên cuối năm do Báo Nhân Dân hằng tháng tổ chức. Các buổi gặp mặt ấy quy tụ đông đảo nhà báo, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, kiến trúc sư, đạo diễn điện ảnh, nghệ sĩ - những gương mặt nổi bật trong đời sống văn hóa nghệ thuật nước nhà, trong đó có không ít cây bút trẻ đang ở độ tuổi sung sức. Họ đã cùng với “cánh già” chúng tôi góp phần mang lại một không khí văn chương cởi mở, phong phú trên Báo Nhân Dân.

Chủ trì hầu hết các buổi gặp mặt ấy là nguyên Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, nhà thơ Thuận Hữu. Với chúng tôi, ông không chỉ là một nhà hoạt động chính trị sắc sảo mà còn là một thi sĩ đích thực. Ông luôn dành sự quan tâm và ưu ái “chăm chút” cho mảng văn học nghệ thuật trên một tờ báo chính trị của Đảng-điều mà ít tờ báo làm được. Nếu tôi nhớ không lầm thì hơn mười năm qua, đã có không ít tập thơ, truyện ngắn, tản văn từng in trên các ấn phẩm của Báo Nhân Dân được xuất bản thành sách, và nhiều tập trong số đó gây tiếng vang thực sự trong đời sống văn nghệ nước nhà.

Công tác ở Đài Truyền hình Việt Nam, ngoài công việc biên tập, tôi là biên kịch của nhiều kịch bản phim truyện truyền hình trong khi vẫn cộng tác với các báo viết. Những kịch bản này được gọi là kịch bản văn học cho dù ít liên quan trực tiếp đến văn chương. Đấy, rất cụ thể và rõ ràng qua trường hợp của bản thân tôi, báo chí là bà đỡ, là nơi gây dựng sự nghiệp và nói một cách chính xác nhất, đó là cuộc sống của chính tôi.

Lịch sử đã ghi nhận từ rất lâu trước đây, các nhà văn đã viết truyện in báo, trong đó điển hình là tiểu thuyết đăng dài kỳ (Feuilleton). Feuilleton có từ cuối thế kỷ 19, theo một số tài liệu báo chí đã công bố. Trước năm 1954, cả Hà Nội và Sài Gòn đều chuộng viết dài kỳ đăng tải trên báo chí. Một số tiểu thuyết đình đám thời Tự lực Văn đoàn có chung điểm xuất phát này.

Feuilleton được viết từng kỳ, in theo ngày hoặc cách nhật theo số báo. Có nhà văn cùng lúc viết cả chục feuilleton, thế mới tài. Đây có lẽ là cách báo chí làm bà đỡ hiệu quả nhất cho nhà văn, không chỉ ở lĩnh vực tác phẩm mà còn ở cuộc sống. Nhà văn Lê Thị Bạch Vân (1915-2006), bút danh Bà Tùng Long có không ít tiểu thuyết feuilleton. Có lần khi nhắc đến thể loại này, nhà văn Nguyễn Đông Thức - con trai Bà Tùng Long nói một cách đầy tự hào: “Nhờ viết feuilleton mà má tôi nuôi cả một bầy con ăn học đàng hoàng”.

Báo chí là bà đỡ của văn chương và ở chiều ngược lại, nhà văn viết báo để vừa gửi gắm tác phẩm và vừa có được nguồn thu nhập chính đáng. Báo chí luôn là sân chơi cho nhà văn mọi lứa tuổi, bởi ngoài in ấn tác phẩm thì đây là nơi quảng bá, tôi luyện và cũng mang lại nguồn thu nhập không nhỏ. Với riêng tôi - một nhà văn viết báo thì đó không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm hạnh phúc.

Báo chí là bà đỡ của văn chương và ở chiều ngược lại, nhà văn viết báo để vừa gửi gắm tác phẩm và vừa có được nguồn thu nhập chính đáng. Báo chí luôn là sân chơi cho nhà văn mọi lứa tuổi, bởi ngoài in ấn tác phẩm thì đây là nơi quảng bá, tôi luyện và cũng mang lại nguồn thu nhập không nhỏ. Với riêng tôi - một nhà văn viết báo thì đó không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm hạnh phúc.
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến

Trình bày: Bảo Minh