
Với nhãn quan sâu rộng và sắc sảo, bằng sự so sánh tương quan lực lượng khoa học và chính xác, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị thông qua phương án tác chiến trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 3 đại đoàn bộ binh, toàn bộ pháo binh, công binh, lực lượng phòng không... quân số khoảng 35.000 người.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, toàn Đảng, toàn dân tập trung chi viện cho tiền tuyến. Hội đồng Cung cấp mặt trận Trung ương và ở một số tỉnh được thành lập. Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng được cử làm Chủ tịch Hội đồng Cung cấp mặt trận Trung ương. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được Trung ương cử vào Thanh Hóa, tỉnh có khả năng lớn nhất về nhân lực, vật lực để động viên, đôn đốc việc huy động mọi mặt cho chiến dịch. Tiền phương Tổng cục Cung cấp cũng được thành lập do Phó Chủ nhiệm Tổng cục Đặng Kim Giang phụ trách, cùng hơn 300 cán bộ trung, cao cấp của Đảng. Lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục Cung cấp và các cục chuyên ngành đều trực tiếp tham gia chiến dịch...
Theo phương châm tác chiến, dự kiến nhu cầu hậu cần chiến dịch gồm: 434 tấn đạn, 7.730 tấn gạo, 140 tấn muối, 465 tấn thực phẩm, cứu chữa 5.000 thương binh và ngày 20/1/1954 phải hoàn thành chuẩn bị về hậu cần. Tổng Quân ủy nhận định: "Để tiến hành chiến dịch rất lớn này, ta có nhiều khó khăn, khó khăn lớn nhất là cung cấp mà chủ yếu là vấn đề đường sá"[1].
Tổ chức cung cấp cho chiến dịch được chia thành 2 tuyến: Tuyến hậu phương do Tổng cục Cung cấp và Hội đồng Cung cấp các Liên khu Việt Bắc, Liên khu 3 và Liên khu 4 đảm nhiệm. Tuyến chiến dịch do Tiền phương Tổng cục Cung cấp và Hội đồng Cung cấp Khu Tây Bắc đảm nhiệm. Tuyến hậu phương bàn giao dân công, phương tiện, vũ khí, đạn dược, thuốc quân y, xăng dầu, gạo, muối... cho tuyến chiến dịch ở Ba Khe (Nghĩa Lộ) trên Đường 13 hướng từ Việt Bắc sang và ở Suối Rút, Bãi Sang trên Đường 41.
Dự kiến nhu cầu hậu cần chiến dịch gồm: 434 tấn đạn, 7.730 tấn gạo, 140 tấn muối, 465 tấn thực phẩm, cứu chữa 5.000 thương binh.
Tuyến hậu cần chiến dịch trải dài trên 350km, ban đầu tổ chức thành 4 binh trạm (Ba Khe, Sơn La, Tuần Giáo và km 62 trên đường từ Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ). Mỗi binh trạm có lực lượng vận tải, quân y, kho... bảo đảm cho bộ đội hành quân và chuyển vật chất lên tuyến trước. Tổng cục Cung cấp còn tổ chức tuyến vận tải Sơn La-Mường Luân-Nà Sang phối hợp với các địa phương ở thượng nguồn Sông Mã huy động nhân lực, vật lực bảo đảm cho Đại đoàn 304 tác chiến ở Hồng Cúm, đồng thời cải tạo sông Nậm Na để tổ chức vận tải bằng thuyền, mảng về Lai Châu, rồi chuyển tiếp cho các đơn vị.
Nhằm tập trung lực lượng bảo đảm cho phía trước, cuối giai đoạn chuẩn bị, ta có sự điều chỉnh tổ chức bố trí hậu cần. Tuyến hậu phương của Tổng cục Cung cấp và Hội đồng Cung cấp mặt trận các liên khu vươn đến Sơn La. Cơ quan Hội đồng Cung cấp mặt trận Trung ương do Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Trân phụ trách lên sát Cò Nòi (gần tuyến tiền phương), trực tiếp chỉ đạo việc huy động nhân lực, vật lực của Liên khu 3, Liên khu 4 và Việt Bắc.

Đèo Pha-đin trên đường số 6 và đèo Lũng Lô trên đường 13, nơi đã chứng kiến các cuộc hành quân lớn của quân đội ta vào chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Đèo Pha-đin trên đường số 6 và đèo Lũng Lô trên đường 13, nơi đã chứng kiến các cuộc hành quân lớn của quân đội ta vào chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Hậu cần chiến dịch được điều chỉnh gồm 3 tuyến, mỗi tuyến có kho, trạm, lực lượng quân y và vận tải đồng bộ. Tuyến Sơn La-Tuần Giáo do đồng chí Đinh Đức Thiện phụ trách (sở chỉ huy ở thị xã Sơn La); tuyến Tuần Giáo-Lai Châu do đồng chí Vũ Văn Đôn phụ trách (sở chỉ huy ở Tuần Giáo); tuyến hậu cần hỏa tuyến - trực tiếp bảo đảm cho chiến đấu, do đồng chí Nguyễn Thanh Bình phụ trách (sở chỉ huy ở gần Nà Tấu). Quân y chiến dịch tổ chức 3 đội điều trị ở sau đội điều trị các đại đoàn bộ binh. Các đơn vị dân công, bệnh xá, bệnh viện được bố trí theo các tuyến hậu cần. Các kho vật chất được ngụy trang kín đáo, bảo đảm bí mật, an toàn...
17 giờ 5 phút ngày 13/3/1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ mở màn bằng trận tiến công Him Lam. Các tuyến hậu cần bước vào phục vụ bộ đội chiến đấu. Khó khăn lớn nhất của công tác bảo đảm chiến dịch là các tuyến vận tải rất dài, qua địa hình rừng núi hiểm trở, sông suối chia cắt, đường xấu... Tuyến từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến Sơn La dài hơn 600km; tuyến từ Nho Quan, Ninh Bình và Thanh Hóa lên Sơn La dài hơn 300km; tuyến từ Sơn La đến mặt trận dài hơn 150 km.
Hậu cần chiến dịch được điều chỉnh gồm 3 tuyến, mỗi tuyến có kho, trạm, lực lượng quân y và vận tải đồng bộ.
Trên các tuyến đường đó, địch xác định có 40 trọng điểm đánh phá có thể cắt đứt toàn bộ tuyến tiếp viện của ta. Để tập trung đánh phá các trọng điểm, máy bay địch đánh 1.186 trận vào các tuyến giao thông, ngày cao nhất sử dụng 250 lần chiếc (có cả B26). Các đèo Lũng Lô, Pha Đin, các đầu mối giao thông Cò Nòi, Tuần Giáo... trở thành trọng điểm đánh phá của địch (có ngày chúng ném xuống Cò Nòi và đèo Pha Đin 160-300 quả bom các loại).
Song, huyết mạch giao thông vận tải phục vụ chiến dịch luôn được bảo đảm. Để bảo vệ giao thông, ta sử dụng 2 tiểu đoàn pháo cao xạ 37mm, các tiểu đoàn súng máy 12,7mm bắn máy bay; 4 tiểu đoàn công binh cùng hàng vạn dân công liên tục bám các trục đường bảo đảm giao thông. Chính Nava cũng phải thừa nhận "... Hiếm có đoạn đường nào bị đứt quá 24 giờ. Hơn nữa, trong thời gian đường bị cắt đứt, việc vận chuyển vẫn được tiếp tục bằng cách chuyển tải hoặc đi vòng đường khác"[2].
Huyết mạch giao thông vận tải phục vụ chiến dịch luôn được bảo đảm
Để vận chuyển khối lượng lớn vật chất lên mặt trận, hậu cần chiến dịch thực hiện phương châm "lấy vận tải cơ giới là chủ yếu, triệt để phát huy cơ giới, đồng thời tranh thủ mọi phương tiện thô sơ". 16 đại đội ô-tô vận tải (534 xe) của Tổng cục Cung cấp được huy động, có thời gian còn được tăng cường 94 xe của các đơn vị pháo binh, phòng không. Phong trào thi đua "Vượt cung, tăng chuyến, tiết kiệm xăng dầu, giữ gìn xe tốt" phát triển sâu rộng trong các đơn vị vận tải. Bộ Chỉ huy chiến dịch tăng cường phương tiện thông tin để chỉ huy trên từng chặng và toàn tuyến, giữa Tổng cục Cung cấp hậu phương và tiền phương. Tuyến vận tải chiến dịch bố trí 18 trạm điều chỉnh giao thông... Hơn hai vạn xe đạp thồ được các địa phương huy động phục vụ chiến dịch. Nhà báo Giuyn Roa, nguyên Đại tá quân đội Pháp viết: "... không phải viện trợ của Trung Quốc đánh bại tướng Nava mà đó là những chiếc xe đạp Pơgiô thồ 200-300kg hàng, do những dân công ăn không no, ngủ trên những tấm nylon trải ngay trên mặt đất. Tướng Nava bị đánh bại bởi trí thông minh và quyết tâm chiến thắng của đối phương"[3].

Các đơn vị bộ binh cơ giới đang khẩn trương đưa bộ đội vào Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Các đơn vị bộ binh cơ giới đang khẩn trương đưa bộ đội vào Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Để bảo đảm sức khỏe cho bộ đội chiến đấu liên tục, dài ngày trong điều kiện khó khăn, hậu cần chiến dịch chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp như: Chế biến các loại thực phẩm khô (vừng, đỗ, lạc), ướp muối thịt, muối dưa... gửi lên mặt trận. Hậu cần Đại đoàn 316 đưa được nhiều đàn bò từ Thanh Hóa lên Điện Biên Phủ. Hậu cần Đại đoàn công pháo 351 ướp muối hàng chục tấn thịt bảo đảm cho các đơn vị. Hậu cần Đại đoàn 312 tổ chức đội xe thồ 100 chiếc vận chuyển thực phẩm từ Phú Thọ lên mặt trận. Đại đoàn 308 khai thác tại chỗ 52 tấn củ mài, 32 tấn rau rừng, đánh bắt 32 tấn cá...
Trong đợt 2 chiến dịch, bộ đội đào hào đánh lấn dưới làn hỏa lực ác liệt của địch, trời mưa, chiến hào lầy lội... hậu cần chiến dịch chỉ đạo các đơn vị đào bếp Hoàng Cầm, tổ chức dự trữ lương thực, thực phẩm, củi khô, nước sinh hoạt tại trận địa; củng cố hầm ngủ nghỉ, nhà vệ sinh dã chiến; luân phiên tắm giặt... nên sức khỏe bộ đội dần khôi phục và ổn định. Do thương bệnh binh tăng gấp đôi dự kiến, ngành Quân y đã huy động toàn bộ lực lượng của 7 đội điều trị (Cục Quân y), 4 đội điều trị của các đại đoàn tham gia chiến dịch, trong đó 5 đội điều trị được xây dựng thành bệnh viện mặt trận, 3 đội triển khai ở tuyến hậu cần hoả tuyến. Nhiều giáo viên, sinh viên Trường Đại học Y-Dược cũng được điều động lên phục vụ mặt trận[4].

Sau 56 ngày đêm liên tục kiên cường chiến đấu, chiều ngày 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến, quyết thắng" của quân đội ta tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi.

Trong toàn chiến dịch, ngành Hậu cần đã huy động toàn bộ lực lượng, bảo đảm cho hơn 87.000 người tham gia chiến dịch (lực lượng chiến đấu 53.830 người); khối lượng vật chất phục vụ chiến dịch lên tới 20.000 tấn: 1.200 tấn đạn, 1.733 tấn xăng dầu, 14.950 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác[5]...
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: "...Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề bảo đảm cung cấp lương thực, đạn dược là một nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật, khó khăn về cung cấp thực không kém khó khăn về tác chiến. Tình hình cung cấp khẩn trương từng ngày, từng giờ, không kém tình hình chiến đấu... quân địch không bao giờ tưởng tượng được rằng, chúng ta có thể khắc phục được khó khăn này. Bọn đế quốc, bọn phản động không bao giờ đánh giá được được sức mạnh của cả một dân tộc, sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể khắc phục tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù"[6]. Với tinh thần "Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng", quân và dân ta vượt mọi khó khăn, bảo đảm cho chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi.
Trong toàn chiến dịch, ngành Hậu cần đã huy động toàn bộ lực lượng, bảo đảm cho hơn 87.000 người tham gia chiến dịch; khối lượng vật chất phục vụ chiến dịch lên tới 20.000 tấn...
Công tác hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ có bước tiến vượt bậc và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý. Đó là, quán triệt nắm vững chủ trương, quyết tâm chiến lược, vượt mọi khó khăn tổ chức bảo đảm hậu cần sáng tạo, hiệu quả; kết hợp hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân các cấp, huy động mọi nguồn lực phục vụ chiến dịch; tổ chức chỉ huy, chỉ đạo chặt chẽ, lấy vận tải làm trung tâm và phân tuyến hậu cần hợp lý; bảo đảm đời sống sinh hoạt của bộ đội ở trong hầm hào (khi đánh lấn), cứu chữa, vận chuyển thương binh hiệu quả; chú trọng bảo toàn lực lượng để bảo đảm cho bộ đội tác chiến liên tục, dài ngày... Trong đó, phát huy thế trận hậu cần nhân dân là bài học lớn nhất, quyết định làm nên chiến thắng của chiến dịch. Kế thừa, phát triển những kinh nghiệm đó, chúng ta đã thực hiện tốt công tác bảo đảm hậu cần trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.

Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến. (Ảnh: TTXVN)
Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến. (Ảnh: TTXVN)
Từ thực tiễn và kinh nghiệm bảo đảm hậu cần trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, phát huy thế trận hậu cần nhân dân trong chuẩn bị thế trận và tiềm lực hậu cần các cấp trong điều kiện mới, cần chú trọng một số vấn đề chủ yếu sau:
Một là, thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về chiến tranh nhân dân, hậu cần toàn dân. Xây dựng thế trận hậu cần lấy tạo nguồn, khai thác tiềm năng tại chỗ là cơ bản. Hình thành các khu vực hậu cần tại chỗ có khả năng độc lập bảo đảm cho lực lượng vũ trang hoạt động, tác chiến trong mọi tình huống. Trên cơ sở đó, quy hoạch, xây dựng thế trận hậu cần chiến lược, chiến dịch, hậu cần khu vực phòng thủ vững chắc, có khả năng cơ động cao, tạo thế liên hoàn, vững chắc. Thực hiện quy hoạch đi trước một bước, đảm bảo sự thống nhất giữa quy hoạch căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần các vùng, miền với phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân trên từng hướng (địa bàn) chiến lược. Ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng căn cứ hậu phương, nhất là hệ thống mạng lưới giao thông vận tải đường bộ, đường thủy để triển khai phương thức vận tải linh hoạt, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa căn cứ hậu phương với căn cứ hậu cần và lực lượng hậu cần các cấp trên từng địa bàn... Nghiên cứu phương án đưa đến dự trữ trước vật tư chiến lược và công nghệ của một số nhà máy, xí nghiệp công nghiệp hậu cần, nhằm tăng cường tiềm lực tại các địa bàn chiến lược trọng yếu, sẵn sàng chuyển thế sang bảo đảm khi có tình huống chiến tranh.
Xây dựng thế trận hậu cần lấy tạo nguồn, khai thác tiềm năng tại chỗ là cơ bản
Hai là, tiếp tục nghiên cứu thực hiện sáng tạo Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị, Nghị định 152 của Chính phủ về xây dựng hậu cần khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong tình hình mới. Tập trung chỉ đạo, đầu tư nguồn lực tổng hợp xây dựng hậu cần khu vực phòng thủ địa phương vững mạnh toàn diện đi vào chiều sâu theo phương châm hậu cần gắn với dân và kinh tế theo địa bàn; chú trọng địa bàn chiến lược trọng yếu. Tham mưu cho Bộ để tham mưu cho Chính phủ ban hành quyết định thành lập Hội đồng cung cấp khu vực phòng thủ các cấp; có quy chế hoạt động thống nhất giữa cấp ủy và chính quyền trong xây dựng và huy động các nguồn lực hậu cần. Chú trọng xây dựng lực lượng hậu cần dự bị động viên chất lượng cao, thực hiện các yêu cầu cơ bản: Phải phù hợp với yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang và kế hoạch phòng thủ của địa phương; hình thành lực lượng rộng khắp trong các ngành kinh tế-xã hội có chức năng chuyên môn tương ứng với hậu cần quân đội; phù hợp điều kiện địa phương, kết hợp chặt chẽ nhu cầu thời bình và sẵn sàng động viên. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng-an ninh; định kỳ diễn tập và có giải pháp đồng bộ không ngừng nâng cao khả năng bảo đảm tại chỗ của từng khu vực phòng thủ.
Chú trọng xây dựng lực lượng hậu cần dự bị động viên chất lượng cao
Ba là, có chiến lược và kế hoạch thu hút các dự án, các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển trước một bước cơ sở hạ tầng vùng căn cứ, tạo điều kiện phân bố lại dân cư, phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường tiềm lực hậu cần ở địa bàn chiến lược, vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa... Tính toán các phương án, lộ trình thích hợp trong xây dựng các công trình hậu cần trong các căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Ưu tiên đầu tư triển khai trước các công trình lưỡng dụng (đường giao thông, cầu, bến cảng, kho bãi, cơ sở y tế, bưu chính viễn thông...) trên cơ sở kết hợp nguồn lực của Trung ương, địa phương, quân đội. Kết hợp lồng ghép trong các dự án phát triển kinh tế-xã hội của Trung ương, địa phương và của các đoàn kinh tế-quốc phòng, nhất là với các công trình trọng điểm, vốn đầu tư lớn. Tập trung hoàn thiện các văn bản pháp lý về huy động nguồn lực địa phương. Tiếp tục duy trì, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế-quốc phòng trên các địa bàn chiến lược nhằm tạo thế, tạo lực hậu cần; liên kết chặt chẽ giữa căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần của quân khu, khu vực phòng thủ với căn cứ hậu phương chiến lược, hình thành các khu vực hậu cần tại chỗ trên từng địa bàn chiến lược, sẵn sàng bảo đảm trong các tình huống.
Bốn là, chủ động nghiên cứu, xây dựng và từng bước hoàn thiện các phương án tổ chức, bố trí, sơ tán, di chuyển, phòng tránh, bảo toàn các cơ sở hậu cần chiến lược, duy trì sản xuất tạo nguồn trong các căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần đã xác định. Tổ chức dự trữ vật chất, trang bị hậu cần tại các căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần các cấp hợp lý, phù hợp với khả năng của địa phương, kết hợp với dự trữ quốc gia, trong các ngành kinh tế và trong dân trên từng địa bàn. Nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách hợp lý để huy động nguồn lực hậu cần tại chỗ đáp ứng nhu cầu thời chiến. Chú trọng công tác bảo vệ, triển khai phương án phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng trên từng địa bàn trong bảo vệ căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần và tiềm lực hậu cần các cấp, duy trì ổn định thế trận, bảo đảm hậu cần kịp thời, liên tục.
Hậu cần quân đội là cầu nối chuyển sức mạnh của đất nước tới lực lượng vũ trang để bảo đảm cho tác chiến thắng lợi. Kế thừa và phát triển các bài học hậu cần nhân dân bảo đảm cho Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương-Bộ Quốc phòng, Ngành Hậu cần quân đội phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần cùng toàn quân, toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng Trần Duy Giang, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần
Tham luận tại Hội thảo khoa học "Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954 – 7/5/2019)"
Trình bày: T. Nguyên

