
Những tờ báo đầu tiên ở Việt Nam ra đời trong bối cảnh dân tộc ta vẫn còn đang nằm dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp. Dù cách làm báo còn rất sơ khai, nhưng những tờ báo lúc đó đã không chỉ làm nhiệm vụ mở đường khai phóng dân trí, đưa tin, phản ánh đời sống, mà dần trở thành vũ khí sắc bén trong các cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
Báo chí buổi đầu ấy vừa là trường học khai trí, vừa là tấm gương phản chiếu những áp bức, bất công trong đời sống xã hội đương thời. Dù phải đối diện với sự kiểm duyệt hà khắc của chính quyền thực dân, những người làm báo đã kiên cường, khéo léo lồng ghép, lan tỏa tinh thần yêu nước, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trong từng trang báo.
Mỗi tờ báo, mỗi trang viết không chỉ nuôi dưỡng ý chí độc lập mà còn tạo dựng dư luận xã hội, định hình ý thức công dân, và góp phần phác họa chân dung những người làm báo - những trí thức, nhà văn, nhà thơ tiên phong trên mặt trận tư tưởng.
Gia Định: Tờ báo mở đầu của nền báo chí Việt Nam

Gia Định báo.
Gia Định báo.
Năm 1865, giữa lòng Nam Kỳ thuộc địa, tờ Gia Định báo ra đời, đánh dấu cột mốc đặc biệt, mở đầu cho hành trình hình thành và phát triển của nền báo chí Việt Nam.
Đây là tờ báo đầu tiên xuất bản bằng chữ quốc ngữ, phát hành tại Nam Kỳ, số đầu tiên ra ngày 15/4/1865, với khổ 25x32cm, 4 trang, mỗi tháng một số. Sự ra đời của Gia Định báo đã mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên chữ quốc ngữ lan tỏa trong đời sống người dân, và đặt nền móng cho văn hóa báo chí Việt Nam hiện đại.
Ban đầu, Gia Định báo là một tờ công báo tiếng Pháp của Soái phủ Nam kỳ (Courrier de Saigon, ấn hành năm 1864) dịch ra chữ Quốc ngữ, được xuất bản nhằm mục đích công khai các văn bản, nghị định, huấn lệnh của chính quyền thuộc địa để dân chúng nắm bắt, tuân thủ. Tuy là một tờ công báo, mang đậm tính hành chính, nhưng sự xuất hiện của Gia Định báo đã vượt khỏi giới hạn của một phương tiện quản lý đơn thuần. Quan trọng hơn, Gia Định báo đã trở thành công cụ mạnh mẽ trong việc phổ biến chữ quốc ngữ – loại chữ mà lúc ấy chỉ bắt đầu len lỏi vào đời sống xã hội, khi mà chữ Hán vẫn còn là công cụ chữ viết chính của tầng lớp quan lại và trí thức.
Điều này được minh chứng sinh động qua bức thư của G. Roze, Thống đốc chỉ huy trưởng Nam Kỳ - gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp ngày 9/5/1865. Trong thư, ông viết: “Gia Định báo được công chúng ủng hộ nồng nhiệt và ở nhiều địa phương những em bé biết đọc chữ quốc ngữ đã đọc báo cho cha mẹ chúng nghe. Như vậy tờ báo này xuất bản mỗi tháng một lần sẽ là một sự hữu ích không thể chối cãi được và nó sẽ góp phần vào việc thay thế chữ của chúng ta và chữ Hán, một thứ chữ mà chỉ có một thiểu số quan lại hiểu biết mà thôi”[1]. Qua đó, có thể thấy Gia Định báo không chỉ là tờ báo chính quyền, mà còn là phương tiện hữu hiệu thúc đẩy quá trình phổ cập chữ quốc ngữ, từng bước hình thành nền văn hóa đọc mới trong xã hội.
Đặc biệt, ngoài phần Công vụ đăng các nghị định và thông tư của chính quyền, Gia Định báo còn có phần Tạp vụ - đăng tải những tin tức về kinh tế, xã hội, giá cả, các vấn đề thiết thực của đời sống thường nhật. Chính phần nội dung này đã giúp tờ báo đến gần hơn với người dân, khiến báo chí không còn xa lạ, khô cứng, mà trở thành cầu nối giữa chính quyền và xã hội, giữa chữ nghĩa và cuộc sống đời thường.
Gia Định báo được công chúng ủng hộ nồng nhiệt và ở nhiều địa phương những em bé biết đọc chữ quốc ngữ đã đọc báo cho cha mẹ chúng nghe. Như vậy tờ báo này xuất bản mỗi tháng một lần sẽ là một sự hữu ích không thể chối cãi được và nó sẽ góp phần vào việc thay thế chữ của chúng ta và chữ Hán, một thứ chữ mà chỉ có một thiểu số quan lại hiểu biết mà thôi


Bên cạnh Gia Định báo, những năm cuối thế kỷ XIX còn ghi dấu Phan Yên báo - tờ báo tư nhân đầu tiên ở Nam Kỳ do Diệp Văn Cương sáng lập. Theo nhiều nguồn thư tịch như Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam (Nguyễn Thành) hay Thư tịch báo chí Việt Nam (Tô Huy Rứa chủ biên), Phan Yên báo được lập ra vào khoảng cuối năm 1898 và tồn tại đến đầu năm 1899.
Dù tuổi đời ngắn ngủi, tờ báo đã kịp để lại dấu ấn qua những bài viết mang hơi hướng chính trị, điển hình là bài “Đòn cân archimède” ký tên Cuồng Sĩ, được cho là nguyên nhân dẫn đến việc chính quyền ban hành Huấn lệnh ngày 30/12/1898 hạn chế tự do ngôn luận ở Nam Kỳ. Phan Yên báo, dù chỉ “sống” trong vài tháng, đã góp phần phác họa chân dung nền báo chí quốc ngữ buổi đầu với tinh thần dấn thân và khát vọng canh tân.
Một tờ báo khác cũng góp phần vào diện mạo báo chí quốc ngữ buổi đầu là Nam Việt Công báo, ra đời năm 1908. Đây là công báo của chính quyền thuộc địa, mang tính chất hành chính nhưng có đặc điểm nổi bật là kết hợp song ngữ: chữ Hán và chữ quốc ngữ. Trên trang bìa của Nam Việt Công báo, dòng chữ Pháp “Journal officiel en caractères et en quoc ngu” (Công báo bằng chữ quốc ngữ) đã nhấn mạnh vai trò của tờ báo trong việc phổ biến văn bản chính quyền bằng cả hai loại chữ. Nội dung chủ yếu của báo là công bố nghị định, chỉ thị, các thông báo chính thức, góp phần phổ biến chữ quốc ngữ không chỉ trong dân gian mà cả trong đời sống hành chính, từng bước thay thế vị thế độc tôn của chữ Hán. Qua đó, Nam Việt Công báo tuy không phải tờ báo tranh đấu, nhưng vẫn gián tiếp góp phần vào sự lan tỏa của quốc ngữ, đáp ứng yêu cầu chuyển biến văn hóa chữ viết trong xã hội thuộc địa.
Nông cổ Mín Đàm.
Nông cổ Mín Đàm.
Thời điểm này, xuất hiện tờ "Nông cổ Mín Đàm" được xem là tờ báo kinh tế đầu tiên của Nam Kỳ, ra mắt số đầu tiên vào ngày 1/8/1901. Tiêu chí của báo là "Uống trà nói chuyện nông nghiệp và thương mại". Tờ báo xuất bản hàng tuần, duy trì 115 số với dung lượng từ 8 đến 12 trang. Nhiều danh sĩ tên tuổi đã lần lượt giữ vai trò chủ bút sau Lương Khắc Ninh, có thể kể đến Gilbert Chiếu (Trần Chánh Chiếu), Nguyễn Đồng Trụ, Lê Văn Trung và Nguyễn Chánh Sắt.
"Nông cổ Mín Đàm" khẳng định vai trò là tờ báo kinh tế qua chuyên mục "Thương cổ luận", nơi giới thiệu kinh nghiệm và cổ vũ phát triển thương mại, nông nghiệp, kỹ nghệ. Đặc biệt, mục "Lời rao" cung cấp thông tin kinh tế phong phú, phác họa rõ nét sự chuyển biến kinh tế-xã hội Nam Kỳ. Mục quảng cáo, thường chiếm trọn trang 8, cũng rất đáng chú ý với thông tin liên tục về tình hình in ấn, xuất bản sách. Dù là báo kinh tế, "Nông cổ Mín Đàm" dành đến 3 trang để đăng tải truyện dịch, truyện dài, truyện ngắn và mục "Thi phổ".
Đây cũng là tờ báo đầu tiên tổ chức cuộc thi truyện ngắn trong lịch sử Văn học Việt Nam hiện đại. Lương Dũ Thúc (Lương Khắc Ninh), người trực tiếp phụ trách chuyên mục "Thương cổ luận", đã có công lớn trong việc cổ động phong trào Minh Tân, khuyến khích giới chủ thương gia người Việt cạnh tranh quyền lợi kinh tế với người Hoa và các ngoại kiều khác tại Lục tỉnh.
Từ bước khởi đầu ấy, những tờ báo quốc ngữ tiếp nối như Thông loại khóa trình, Lục tỉnh Tân văn, Đăng cổ tùng báo đã lần lượt ra đời, góp phần hình thành ý thức dân tộc, hun đúc tinh thần tự cường, và đặt nền tảng cho sự hình thành báo chí cách mạng về sau.
Những tờ báo tiêu biểu giai đoạn 1865-1925 được trưng bày tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam.
Những tờ báo tiêu biểu giai đoạn 1865-1925 được trưng bày tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam.
Những tờ báo tiêu biểu giai đoạn 1865-1925 được trưng bày tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam.
Những tờ báo tiêu biểu giai đoạn 1865-1925 được trưng bày tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam.
Những tờ báo tiêu biểu giai đoạn 1865-1925 được trưng bày tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam.
Những tờ báo tiêu biểu giai đoạn 1865-1925 được trưng bày tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam.
Sứ mệnh mở đường cho văn hóa, học thuật dân tộc

Nếu như Gia Định báo mở đầu cho lịch sử báo chí Việt Nam bằng vai trò một tờ công báo góp phần phổ biến chữ quốc ngữ và định hình văn hóa đọc sơ khai, thì các tờ báo kế tiếp đã nhanh chóng mở rộng nội dung, mục tiêu, và phong cách thể hiện. Báo chí giai đoạn trước năm 1925 không chỉ dừng lại ở nhiệm vụ truyền đạt thông tin mà từng bước trở thành phương tiện giáo dục, khai dân trí, cổ vũ thực nghiệp, định hình công luận và nuôi dưỡng tinh thần yêu nước.
Thực nghiệp dân báo.
Thực nghiệp dân báo.
Trong dòng báo chí khai dân trí, giáo dục và cổ vũ văn hóa-học thuật, Thông loại khóa trình là tờ báo giáo dục đầu tiên dành cho học trò, ra đời cuối thế kỷ XIX (1888-1889). Tờ báo không chỉ mang đến cho trẻ em những tri thức bổ trợ ngoài sách giáo khoa mà còn truyền bá tinh thần “phép học là trước học lễ, sau học văn”. Chính định hướng đó đã góp phần gieo mầm lễ nghĩa, tri thức cho thế hệ nhỏ tuổi trong buổi giao thời đầy biến động. Với sự tham gia của những cây bút như Trương Minh Ký, Tôn Thọ Tường, Trần Chánh Chiếu… Thông loại khóa trình đã trở thành một điểm sáng trong dòng báo chí giáo dục sớm.
Ở miền bắc, Đăng cổ tùng báo - tờ báo tư nhân đầu tiên ra đời năm 1907 - đã có những bài viết mạnh dạn phê phán lối học cử nghiệp lỗi thời, đề cao chữ quốc ngữ như công cụ phổ biến tri thức rộng rãi, khơi dậy tinh thần cải cách trong tư duy và lối viết. Với sự tham gia của những trí thức như Nguyễn Văn Vĩnh, tờ báo không ngại nêu vấn đề xã hội gai góc, mở chuyên mục “Lời đàn bà” đưa tiếng nói nữ giới ra công luận. Đây là một điều hiếm thấy ở thời điểm đó.
Cùng tham gia mở mang dân trí và cổ vũ giáo dục, văn hóa cho người dân thời bấy giờ là tờ Nam Phong tạp chí (1917-1934). Tạp chí này không chỉ là diễn đàn học thuật, văn hóa, văn học tiêu biểu mà còn góp phần nuôi dưỡng quốc văn và hình thành lớp trí thức mới giao thoa giữa Đông học và Tây học. Với hệ thống phân mục bài bản từ luận thuyết, văn học bình luận, triết học, khoa học đến thời đàm, tiểu thuyết…, Nam Phong thực sự trở thành trường học mở về văn hóa-học thuật thời kỳ đầu thế kỷ XX. Cùng thời, tạp chí Hữu Thanh (1921-1924) cũng khẳng định tiếng nói cổ vũ chủ nghĩa hữu ái, đạo đức, văn hóa dân tộc và luân lý. Tạp chí ghi dấu khi đăng Chén thuốc độc của Vũ Đình Long - vở kịch thuần Việt đầu tiên - mở đường cho sân khấu kịch nói hiện đại.
Trên lĩnh vực kinh tế, đồng hành cùng phong trào thực nghiệp và tự cường là tờ Thực nghiệp dân báo (1920). Báo kêu gọi chấn hưng công thương, cổ vũ tiêu dùng hàng nội hóa, qua những câu thơ cổ động như lời Phan Châu Trinh: “Xấu ta ta dụng của ta/Tuy rằng tốt đẹp cũng ra của người...”. Lục tỉnh Tân văn (1907) tại Nam Kỳ vừa đăng tải thời sự, vừa cổ vũ dân trí, dân khí, hợp quần kinh doanh chống độc quyền tư bản Pháp và cạnh tranh của tư bản Hoa, Ấn. Cách thể hiện giàu tính tranh luận, phản biện, gần gũi công luận. Còn Nam Kỳ Kinh Tế Báo (1922) là tiếng nói thực dụng của giới doanh thương bản xứ, tập trung thông tin buôn bán, thời sự kinh tế-thương mại, đồng thời góp phần hình thành văn hóa đọc trong giới doanh nhân.
Nam kỳ Kinh tế Báo.
Nam kỳ Kinh tế Báo.
Những trang báo tiếp lửa phong trào giải phóng dân tộc

Từ cuối thế kỷ XIX bước sang những thập niên đầu thế kỷ XX, nền báo chí Việt Nam đã từng bước chuyển mình để trở thành một vũ khí tinh thần sắc bén, đồng hành cùng phong trào đấu tranh chống áp bức, bóc lột. Dưới ách kiểm soát hà khắc của chính quyền thực dân, các tờ báo vẫn khéo léo lồng ghép, lan tỏa tinh thần yêu nước, nuôi dưỡng ý chí độc lập, và từng bước công khai cổ vũ cải cách, đấu tranh chính trị.
Tiêu biểu trong dòng báo chí này chính là Đông Pháp Thời Báo. Ra đời ngày 4/5/1923 tại Sài Gòn, do Trần Huy Liệu và Phạm Văn Trường làm giám đốc, tờ báo được coi là tiếng nói đối lập với chính quyền thuộc địa. Đông Pháp Thời Báo không ngần ngại đăng tải những bài viết cổ vũ phong trào yêu nước ở Nam Kỳ, như Thư ngỏ của thanh niên gửi Toàn quyền Varenne, hay bài của Trần Huy Liệu kêu gọi đón tiếp Bùi Quang Chiêu từ Pháp về nước, cùng nhiều bài ca ngợi nhà yêu nước Phan Châu Trinh. Sức lan tỏa của Đông Pháp Thời Báo không dừng lại ở không gian báo chí chính thống, mà còn được bí mật lưu truyền vào tận nhà lao Hải Phòng năm 1930 và Côn Đảo năm 1935, như ghi lại trong hồi ký Chặng đường nóng bỏng của Hoàng Quốc Việt. Đây chính là minh chứng sống động cho sức mạnh tinh thần của báo chí đồng hành cùng phong trào yêu nước, đấu tranh giải phóng dân tộc.
Báo La Cloche Fêlée.
Báo La Cloche Fêlée.
Một ngọn cờ khác trên mặt trận báo chí yêu nước là La Cloche Fêlée (Tiếng chuông rè), ra đời ngày 14/2/1923 tại Sài Gòn. Được Nguyễn An Ninh sáng lập và điều hành sau khi trở về từ Pháp, tờ báo viết bằng tiếng Pháp nhưng lại là vũ khí sắc bén phê phán thực dân bằng chính ngôn ngữ của họ. Tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, lời văn sắc sảo của La Cloche Fêlée khiến tờ báo này trở thành cái gai trong mắt chính quyền thuộc địa và liên tục bị sách nhiễu, đàn áp.
Không thể không nhắc đến Trung Lập - tờ báo từng nhận trợ cấp của chính quyền thực dân và có số lượng in nhiều nhất Nam Kỳ. Tuy nhiên, khi phong trào yêu nước dâng cao đầu năm 1926, Trung Lập đã hòa vào dòng chảy của dân tộc: cổ vũ các sự kiện đón Bùi Quang Chiêu, để tang Phan Châu Trinh, cổ động đám tang cụ Phan. Sau khi Nguyễn An Ninh mãn hạn tù cuối 1931, ông cùng Nguyễn Văn Tạo đã vực dậy tờ báo, với các bài viết ký tên Thông Reo trong mục “Bia miệng”, thu hút đông đảo độc giả yêu nước.
Báo chí trước năm 1925 đã thực sự góp phần định hình công luận, hun đúc tinh thần yêu nước, tạo nền tảng tư tưởng và tinh thần cho báo chí cách mạng Việt Nam đồng hành cùng sự nghiệp giải phóng dân tộc trong các giai đoạn tiếp theo.
Tổ chức sản xuất: Nam Đông
Nội dung: Quỳnh Trang - Hải Yến tổng hợp
Trình bày: Diệc Dương
Ảnh: Quỳnh Trang