BẢO ĐẢM VŨ KHÍ ĐẠN, QUÂN NHU CHO CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ HÀ NỘI TRONG NHỮNG NGÀY ĐẦU KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

Sau khi đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn (11/1946), thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị lực lượng tiến công Hà Nội hòng nhanh chóng hoàn tất âm mưu tái chiếm Việt Nam. Trước hành động gây chiến ngày càng trắng trợn của Pháp, ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Về phương hướng bảo đảm vật chất cho kháng chiến, Chỉ thị nêu rõ: “Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến", "Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc", "Hết sức sản xuất võ khí”. Với dân: “Phải tăng gia sản xuất", "Phải tiếp tế bộ đội". Với quân “Không để mất súng", "Không bắn phí đạn”, “Mỗi viên đạn một quân thù", "Cướp súng giặc bắn giặc". (Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Nxb CTQG, H, 2000, tr.151, 152).
Thực hiện Chỉ thị trên, Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội chủ động khẩn trương tiến hành công tác bảo đảm, thành lập Ban tiếp tế khí giới và quân nhu làm nhiệm vụ nhận vũ khí đạn dược, quân nhu ở La Khê, Ba La, Bông Đỏ, sau đó dùng xe bò chở về khu vực Cầu Mới, Ngã Tư Sở giao cho các đơn vị chiến đấu.
Mặt trận Hà Nội được lệnh dự trữ 1 tháng lương thực thực phẩm (riêng lực lượng chiến đấu ở Liên khu 1([1]) dự trữ 3 tháng). Mỗi tự vệ chiến đấu dự trữ 15kg gạo cùng một số thực phẩm khô, muối.
Các gia đình nội đô, chuẩn bị lương thực thực phẩm, dự trữ nước sạch bằng nhiều cách (bể, chum, đào giếng). Ủy ban bảo vệ Thành phố đã huy động lương thực từ các huyện ngoại thành và chuyển số gạo thu được từ các kho thóc của Nhật trong Tổng khởi nghĩa về các kho lương thực ở Thanh Liệt, Mễ Trì và một số điểm ven sông Nhuệ.
Các ban tiếp tế huyện, xã huy động nhân dân ủng hộ thóc gạo, thực phẩm và nấu ăn cho bộ đội. Chỉ trong ngày 20 và 21-12-1946, nhân dân vùng Tả Thanh Oai đã góp 150 tấn thóc ủng hộ bộ đội. Nhân dân lao động, trí thức, học sinh, tiểu thương, nhà tư sản, nhà sư... đều ra sức phục vụ chiến đấu.
Trong các ngày 15 và 16/12/1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17/12/1946, chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh.(Ảnh: TTXVN)
Trong các ngày 15 và 16/12/1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17/12/1946, chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh.(Ảnh: TTXVN)
Để bảo đảm cho Liên khu 1, Đảng ủy Mặt trận Hà Nội chỉ đạo chuyển lương thực từ ngoài vào bằng cách kết bè thả gạo trôi sông hoặc bí mật vận chuyển vào ban đêm. Trong khó khăn gian khổ, quân dân Liên khu 1 nêu cao tinh thần cần kiệm và phát huy nhiều sáng kiến bảo đảm tại chỗ như: sân gạch được lật lên để trồng rau, giếng nước đào ngay trên đường hè, ngõ phố; sử dụng quân trang chiến lợi phẩm của Bảo an binh (áo sơ mi, giày dép, vải) phát cho bộ đội; vận động nhiều gia đình tự trang bị quần áo, lương thực cho con em mình tham gia chiến đấu...
Chính quyền cách mạng Hà Nội vận động và tổ chức nhân dân sơ tán người già, phụ nữ, trẻ em ra khỏi thành phố. Đường vận chuyển từ ngoại thành vào trung tâm thành phố được tổ chức men theo sông Hồng qua gầm cầu Long Biên. Công văn tài liệu, lương thực thực phẩm, vũ khí đạn theo con đường này đến với lực lượng vũ trang tham gia chiến đấu và chuyển thương binh về vùng tự do.
Liên khu 1 đặt các trạm cấp cứu ở nhà số 26 phố Hàng Buồm và rạp Olympia ở Hàng Da (nay là rạp Hồng Hà). Các trạm cấp cứu quân dân y đặt ở cơ quan chỉ huy của Liên khu 2 và Liên khu 3. Thương binh sau khi sơ cứu được chuyển về các bệnh viện ở Văn Điển, Cự Đà, Khúc Thủy. Quân y viện Trung ương bố trí tại Vân Đình (Hà Đông) là tuyến chính tiếp nhận thương binh của Mặt trận.
Nhờ làm tốt công tác bảo đảm vũ khí đạn, lực lượng bảo vệ Hà Nội có đến 7 khẩu pháo, 1 bazôca (5 viên đạn), 4 đại liên và trung liên, 1.516 súng trường, 20.000 viên đạn, 1.000 lựu đạn, 80 bom ba càng, 200 chai cháy cùng mìn, lựu đạn, dao, kiếm...
Phần lớn người dân Hà Nội đã được tản cư, chướng ngại vật được dựng lên ở khắp nơi. Thủ đô sẵn sàng chiến đấu chống lại quân xâm lược Pháp. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Phần lớn người dân Hà Nội đã được tản cư, chướng ngại vật được dựng lên ở khắp nơi. Thủ đô sẵn sàng chiến đấu chống lại quân xâm lược Pháp. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội Vương Thừa Vũ chỉ thị cho Phòng Quân giới tổ chức kiểm kê vũ khí đạn tại 5 tiểu đoàn Vệ quốc. Các đơn vị được phân phối đủ vũ khí đạn với khả năng hiện có. Do yêu cầu nhiệm vụ, riêng lực lượng chiến đấu tại Liên khu 1 được bảo đảm một nửa số vũ khí đạn của Mặt trận.
Nhiều đơn vị được bảo đảm trang bị khá tốt.
Tiểu đoàn 101 với quân số chiến đấu 110 người được trang bị 3 trung liên, 15 tiểu liên, 11 súng ngắn, 60 súng trường, nhiều mìn cải tiến từ đầu đạn pháo; ngoài ra còn lựa đạn, dao găm, mã tấu, chai xăng, chai với sỏi (vôi bột trộn với sỏi).
Tiểu đội hỏa lực của Đại đội 4 (Tiểu đoàn 56) có trong biên chế 1 cối 60mm, 1 trung liên và mỗi chiến sĩ nhận được 4 quả lựu đạn...
Từ khu vực nội thành, các xưởng AVIA, STAR, Sở Công binh Việt Nam, Công ty Cao Thắng di chuyển về Mỹ Đức (Hà Đông), Kim Bôi (Hòa Bình), Chi Nê (Hà Nam) cùng với các cơ sở cũ ở khu vực này hình thành các xưởng quân giới phục vụ Mặt trận. Các xưởng vừa di chuyển vừa tổ chức các bộ phận sản xuất lựu đạn, bom mìn, chai xăng cung cấp cho lực lượng vũ trang Hà Nội bước vào chiến đấu.
Chuẩn bị khai hỏa tại pháo đài Láng, mở đầu toàn quốc kháng chiến. Ảnh trong sách: Hà Nội - Thủ đô anh hùng, thành phố vì hòa bình, NXB Hà Nội, 2014
Chuẩn bị khai hỏa tại pháo đài Láng, mở đầu toàn quốc kháng chiến. Ảnh trong sách: Hà Nội - Thủ đô anh hùng, thành phố vì hòa bình, NXB Hà Nội, 2014
Công tác bảo đảm cho các đơn vị pháo chiến đấu được quan tâm đặc biệt.
Trung đội pháo ở pháo đài Xuân Canh được cung cấp thiết bị quan sát điểm nổ và hiệu chỉnh bắn, cải tiến thiết bị hiệu chỉnh bắn, bộ đội còn có sáng kiến dùng tre uốn thành một cung tròn trên đó có đánh dấu vị trí góc tương ứng với từng mục tiêu cần bắn.
Tại pháo đài Láng, ngoài số lượng đạn pháo của quân Trung Hoa Dân Quốc giao lại (400-500 viên), còn có 200 đạn pháo do nhân dân Láng Trung phát hiện địch chôn dấu ở Gò Ma và được tự vệ thay nhau chuyển hết về cho Pháo đài ngay trong đêm 19-12-1946; xưởng sửa chữa pháo với kíp thợ trên 10 người đã dồn lắp sửa chữa được 2 khẩu pháo cao xạ của Pháo đài. Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp tổ chức cho Khu 10 dùng thuyền chuyển gấp 300 đạn pháo đến pháo đài Xuân Canh.
Vệ Quốc đoàn lập chốt chiến đấu tại chợ Đồng Xuân. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Vệ Quốc đoàn lập chốt chiến đấu tại chợ Đồng Xuân. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Đầu tháng 12-1946, Ban giao thông Hà Nội do đồng chí Nguyễn Duy Soạn phụ trách được thành lập. Ban có 3 tiểu ban (liên lạc chạy chân, hữu tuyến và vô tuyến điện).
Bộ phận hữu tuyến có hàng nghìn mét dây, 1 máy lẻ ở ga xe điện Cầu Mới; 1 tổng đài, 2 máy lẻ ở đồn Phương Liệt; 2 máy lẻ ở Nhà thương Vọng (Bệnh viện Bạch Mai ngày nay); 1 tổng đài, 1 máy lẻ ở đồn Công an Khâm Thiên.
Tiểu ban vô tuyến điện do đồng chí Hoàng Việt Huy làm Đài trưởng có 1 tổng đài vô tuyến điện MKII (loại tổng đài chất lượng tốt nhất lúc bấy giờ). Liên khu 1 cũng được trang bị máy MKII. Trung đoàn 35 của Chiến khu 2 ở Sơn Tây, khi tăng cường cho Mặt trận Hà Nội được trang bị 1 tổng đài thông với tổng đài bưu điện ở Hà Đông; tổng đài ở Trúc Sơn của Ty Bưu điện Sơn Tây (nơi có tổng đài Bộ Quốc phòng) nối thông với máy các tiểu đoàn thuộc Trung đoàn. Các phân đội pháo binh bố trí ở Hà Nội cũng được trang bị 2 máy điện thoại.
Đến 5 giờ chiều ngày 19-12-1946, toàn bộ tình trạng kỹ thuật mạng thông tin liên lạc đã được kiểm tra và sẵn sàng bước vào phục vụ chiến đấu.
Sáng 20/12/1946, tại Hang Trầm (huyện Chương Mỹ, Hà Nội), Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát đi “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đồng bào, chiến sĩ cả nước. Trong ảnh: Phát lệnh toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội, tháng 12/1946. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Sáng 20/12/1946, tại Hang Trầm (huyện Chương Mỹ, Hà Nội), Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát đi “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đồng bào, chiến sĩ cả nước. Trong ảnh: Phát lệnh toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội, tháng 12/1946. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay trong đêm 19-12-1946, quân dân Hà Nội đã chủ động nổ súng tiến công địch. Tại Hà Nội lúc này ta có 5 tiểu đoàn Vệ quốc quân, 1 đại đội cảnh vệ, 8 trung đội công an xung phong, khoảng 8.500 tự vệ chiến đấu và 4 trung đội pháo cao xạ, phải chống lại 6.500 quân Pháp dày dạn kinh nghiệm tác chiến, được trang bị hiện đại với 30 máy bay, 42 khẩu pháo, 52 xe tăng, xe bọc thép, nhiều tàu chiến và ca nô. Trong điều kiện so sánh lực lượng, trang bị giữa ta và địch hết sức chênh lệch, để hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, công tác bảo đảm vũ khí đạn, quân nhu... là rất nặng nề, khó khăn và chịu nhiều hy sinh, tổn thất.
Trong quá trình chiến đấu, công tác bảo đảm quân nhu được chuẩn bị khá chu đáo.
Hàng chục tấn gạo được nhân dân ngoại thành trong đêm tối men theo bãi sông Hồng mang vào tiếp tế cho Liên khu 1. Dân quân khi vào mang theo thực phẩm tươi, vũ khí đạn; khi ra vừa chuyển thương binh lên Phúc Yên, vừa hướng dẫn nhân dân tản cư.
Các tổ nuôi quân ban ngày bảo đảm cơm nước, ban đêm ra bãi sông kiếm rau xanh. Các đội giao thông bảo đảm giao thông thông suốt trong quá trình chiến đấu.
Ở pháo đài Láng, trong những ngày chiến đấu ác liệt, việc ăn uống hoàn toàn do dân xã Yên Lãng đảm nhiệm.
Đội tiếp tế (thành viên đều là phụ nữ) phụ trách việc cơm nước. Nhiều khi chị em phải gánh cơm cho bộ đội dưới làn đạn địch.
Ông Vũ Huỳnh thường xuyên dẫn đầu các đoàn đại biểu của các ban ngành đoàn thể trong xã ban đêm đến úy lạo, tặng quà, động viên bộ đội, tự vệ chiến đấu.
Đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán Đinh Hợi, nhân dân đã chuyển vào cho bộ đội chiến đấu ở nội thành bánh chưng, gạo nếp, bánh mứt kẹo và cả cành đào của làng hoa Nhật Tân.
Theo đề nghị ngừng bắn của Trung Hoa Dân Quốc, Ban chỉ huy Trung đoàn Liên khu 1 mở tiệc chiêu đãi các lãnh sự Anh, Mỹ, Trung Hoa Dân Quốc. Các món ăn dân tộc Việt Nam cùng với hoa đào trong buổi tiệc giữa những ngày khói lửa gây ấn tượng mạnh với người nước ngoài ở Hà Nội.
Bộ đội đào giao thông hào ở Bắc Bộ Phủ, sẵn sàng quyết chiến với giặc Pháp. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Bộ đội đào giao thông hào ở Bắc Bộ Phủ, sẵn sàng quyết chiến với giặc Pháp. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Những ngày đầu kháng chiến, thương binh còn ít. Sau khi địch liên tiếp mở các cuộc phản công, cuộc chiến ngày càng ác liệt, thương binh ngày càng tăng. Trước tình hình trên, các tổ hồng thập tự, cứu thương vượt lửa đạn đến từng trận địa. Việc chuyển thương, phục vụ thương bệnh binh ở các trạm xá, bệnh viện chủ yếu dựa vào đoàn thể phụ nữ. Nhiều gia đình nhận thương binh về nhà nuôi dưỡng chăm sóc. Tại khu vực chiến sự, những trạm cấp cứu thương binh được thành lập, kịp thời cứu chữa thương binh. Thương binh từ các trạm được chuyển về cơ sở điều trị ở ngoại thành Hà Nội được triển khai ở các nhà dân, đình chùa.
Quá trình chiến đấu ở nội đô, bộ phận tiếp tế khí giới của Ban tiếp tế khí giới và quân nhu bổ sung đạn cho các đơn vị. Đường tắc, các thành viên trong bộ phận dùng xe điện chuyên chở, khi đường ray xe điện bị bóc đi, mọi người dùng ba lô vượt qua lửa đạn chuyển cho các trận địa Ô Chợ Dừa, Bạch Mai. Nhân dân nội, ngoại thành Hà Nội hăng hái phục vụ chiến đấu. Nhiều chị em phụ nữ và các cháu thiếu nhi đã luồn lách trong các dãy giao thông hào, các chướng ngại vật tới tận chiến hào tiếp tế đạn cho bộ đội. Các tổ sửa chữa cơ động sửa chữa vũ khí hỏng hóc ngay tại chỗ.
Ở pháo đài Thổ Khối, máy bay địch ném bom làm hỏng 1 khẩu pháo, tổ thợ của xưởng sửa chữa pháo do Nguyễn Văn Quế phụ trách nhanh chóng khắc phục kịp thời đưa pháo vào chiến đấu. Khẩu pháo của pháo đài Xuân Canh, sau khi bắn những viên đạn đầu tiên bị nứt càng và gãy chốt hãm, ngay trong đêm tối, công nhân xưởng sửa chữa xe lửa Đông Anh cơ động tới sửa chữa khắc phục kịp thời.
Tiểu ban hữu tuyến trong chiến đấu dùng xe đạp để kéo đinamô kịp thời nạp ắc qui cho đài vô tuyến điện và khắc phục tình trạng thiếu pin bằng sản xuất pin nước. Lực lượng công binh cùng nhân dân đào chiến hào ngay trong thành phố bằng cách đục tường nhà, nối thông từ nhà này sang nhà khác. Nhờ con đường này mà ngay giữa vòng vây quân địch, bộ đội và tự vệ Hà Nội đã bí mật, bất ngờ cơ động tiêu diệt quân thù.
Các chiến sĩ tự vệ Hà Nội chôn mìn ở chợ Đồng Xuân. (Ảnh: TTXVN)
Các chiến sĩ tự vệ Hà Nội chôn mìn ở chợ Đồng Xuân. (Ảnh: TTXVN)
Trong những ngày giao tranh ác liệt, số vũ khí trang bị được lực lượng vũ trang Hà Nội sử dụng một cách sáng tạo, hiệu quả cùng với tinh thần dũng cảm Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy hàng chục xe tăng, xe bọc thép (tính riêng từ ngày 20 đến 23-12-1946, số xe quân sự của địch bị diệt lên tới 14 chiếc, trong đó có 8 xe tăng); trong đó có một số trận giành thắng lợi quan trọng như: Trận phòng ngự tại trụ sở Bộ Tổng Tham mưu (23-12-1946), trận Ô Chợ Dừa, Nam Đồng ( 6-1-1947), trận ở phố Hàng Khoai, trận ở làng Nam Dư Hạ, Thanh Trì, Hà Đông (18-1-1947), trận phố Hàng Thiếc(8-2-1947)...
Điển hình của việc sử dụng mọi thứ vũ khí trong tay là trận chiến đấu ngăn chặn 1 tiểu đoàn lính Lê dương cùng 5 xe tăng tiến công chợ Đồng Xuân (14-2-1947). Trong trận này, hoả lực của ta bố trí trên các tầng gác cao kết hợp với mìn và lựu đạn gài trên các đường phố làm hàng chục lính Pháp bị diệt. Khi địch tiến công vào chợ, bộ đội cùng với tự vệ và tiểu thương dùng lưỡi lê, dao găm, dao thái thịt, báng súng quần lộn với lính Lê dương quanh các quầy hàng.
Thực dân Pháp hết sức bất ngờ trước “một đội quân non trẻ với những trang bị yếu kém lại dám nổ súng vào quân viễn chinh”([2]).
Phóng viên hãng thông tấn Pháp AFP trong bài phóng sự Cuộc chiến tranh kỳ dị ở Hà Nội, mô tả: “Tôi đã thấy những người Pháp chết như thế nào dưới súng đạn Việt Nam ở hậu tuyến Hà Nội hay ở những trận kỳ dị ngay giữa trung tâm thành phố, ở một góc đường dưới những làn đạn tiểu liên bắn dọc theo đại lộ...”([3])


Ban chỉ huy Trung đoàn Thủ đô bàn kế hoạch tác chiến trong những ngày Toàn quốc kháng chiến.(Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Ban chỉ huy Trung đoàn Thủ đô bàn kế hoạch tác chiến trong những ngày Toàn quốc kháng chiến.(Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Chủ trương đồng loạt nổ súng tiến công trong đêm 19/12/1946 tại Thủ đô Hà Nội và các thành phố khác thể hiện sâu sắc tư tưởng chiến lược tiến công. Ta chủ động giành quyền đánh trước, đẩy địch vào thế bị động đối phó, phá tan âm mưu của Pháp định huy động toàn lực đè bẹp quân và dân ta bằng một đòn tiến công quân sự chớp nhoáng. (Ảnh: TTXVN)
Chủ trương đồng loạt nổ súng tiến công trong đêm 19/12/1946 tại Thủ đô Hà Nội và các thành phố khác thể hiện sâu sắc tư tưởng chiến lược tiến công. Ta chủ động giành quyền đánh trước, đẩy địch vào thế bị động đối phó, phá tan âm mưu của Pháp định huy động toàn lực đè bẹp quân và dân ta bằng một đòn tiến công quân sự chớp nhoáng. (Ảnh: TTXVN)
Tuy nhiên, do vũ khí đạn chất lượng còn kém, nên trong chiến đấu, bộ đội và tự vệ Hà Nội bỏ lỡ nhiều thời cơ tiêu diệt địch và gây thương vong cho chính mình. Ví như hai quả bom được gài sẵn ở khách sạn Mêtrôpôn và rạp Majestic (khách sạn Thống Nhất và rạp Tháng Tám ngày nay) không nổ, làm mất cơ hội tiêu diệt nhiều quân Pháp đóng ở đây. Hay trường hợp một quả mìn lớn bằng thùng phuy xăng gài ở cầu Long Biên, khi địch tiến công về phía cầu, mìn nổ, nhưng sức công phá của mìn yếu chỉ diệt được mấy lính gác, cầu không sập. Súng máy tắc, 5 quả lựu đạn ném theo Xanhtơny (đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội) và Moóclie (chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Bộ) chạy khỏi biệt thự riêng ở số 71 Hàng Trống, chỉ có 1 quả nổ làm Xanhtony bị thương...
Chiến sĩ Trần Thành, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu, ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Thủ đô Hà Nội ngày 23-12-1946 - những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, với ý chí "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Ảnh: Nguyễn Bá Khoản (TTXVN)
Chiến sĩ Trần Thành, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu, ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Thủ đô Hà Nội ngày 23-12-1946 - những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, với ý chí "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Ảnh: Nguyễn Bá Khoản (TTXVN)
Lúc bấy giờ do rất ít vũ khí diệt xe tăng nên ta phải dùng bom ba càng thu được của quân đội Nhật trang bị cho đơn vị Vệ quốc đoàn của Mặt trận Hà Nội. Mặt trận thành lập 10 tổ Cảm tử quân với khoảng 100 đội viên. Được chọn vào Cảm tử quân là niềm vinh dự với các chiến sĩ Vệ quốc.
Cảm tử quân đã gây nhiều tổn thất cho quân Pháp trong các trận chặn đánh địch trên đường Tràng Thi, Nhà thương Vọng, trận chiến đấu bảo vệ Bắc Bộ Phủ, Bộ Tổng Tham mưu...Trong các trận đánh đó, nhiều chiến sĩ sử dụng bom ba càng đã hy sinh.
Đêm 17, rạng sáng 18/2/1947, lực lượng của Trung đoàn Thủ đô chia thành từng đơn vị nhỏ cùng nhân dân Liên khu phố I lặng lẽ đi dưới gầm cầu Long Biên, vượt sông Hồng, sông Đuống, bí mật vượt qua vòng vây an toàn lên chiến khu, kết thúc 60 ngày đêm giam chân quân Pháp trong lòng Hà Nội.(Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Đêm 17, rạng sáng 18/2/1947, lực lượng của Trung đoàn Thủ đô chia thành từng đơn vị nhỏ cùng nhân dân Liên khu phố I lặng lẽ đi dưới gầm cầu Long Biên, vượt sông Hồng, sông Đuống, bí mật vượt qua vòng vây an toàn lên chiến khu, kết thúc 60 ngày đêm giam chân quân Pháp trong lòng Hà Nội.(Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Đầu tháng 2-1947, địch tăng viện tiến công lớn vào Liên khu 1. Việc tiếp tế lương thực, đạn dược ngày càng khó khăn. Nguồn dự trữ trong nội thành cạn, Trung đoàn Thủ Đô (Trung đoàn Liên khu 1) sau trận Đồng Xuân chỉ còn 5 ngày lương thực, đạn còn rất ít, mỗi khẩu súng chỉ còn khoảng 50 viên, bom ba càng, chai cháy cũng đã gần hết.
Để bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài, Bộ Tổng chỉ huy lệnh cho các lực lượng vũ trang Liên khu 1 bí mật vượt sông Hồng rút khỏi Hà Nội. Công tác bảo đảm cho rút quân lúc này hết sức khó khăn vì xung quanh Liên khu 1, các trục đường đều có địch canh giữ. Con đường Nhật Tân, Yên Phụ dọc theo ngoài đê sông Hồng đến Cột Đồng Hồ trước đây ta vẫn dùng để tiếp tế cho Liên khu 1, bị địch theo dõi chặt chẽ. Đầu cầu Long Biên thường xuyên có 1 trung đội Lê dương canh gác. Đèn pha cực mạnh của vọng gác địch quét suốt đêm.
Để bảo đảm bí mật phương tiện chuyên chở, Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội giao cho Trung đội du kích Hồng Hà bảo đảm phương tiện, người chèo thuyền và dẫn đường qua sông Hồng sang vùng tự do Đông Anh, Phúc Yên.
5 giờ sáng ngày 18-2-1947, Trung đoàn Thủ đô lần lượt qua sông. Đồng bào ven sông Hồng tổ chức 1 đội thuyền 20 chiếc tham gia đưa bộ đội sang sông. Khẩu sơn pháo 75mm cùng toàn bộ hệ thống ngắm bắn của 2 khẩu phòng không (do 2 khẩu này chôn tại chỗ bằng bê tông nên không thể di dời) của Pháo đài Láng được chở qua sông Tô Lịch về Mễ Trì, Hữu Từ. Nhiều người dân biết tin đến tiễn đưa và gói cơm nắm cho các chiến sĩ ăn đường. Khoảng 8 giờ sáng cùng ngày, các đơn vị vượt sông đến đích an toàn với toàn bộ quân số và vũ khí trang bị.
Trong hơn 60 ngày đêm, quân dân Hà Nội đánh gần 200 trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 địch, phá hủy hơn 100 xe quân sự, bắn chìm 1 ca nô, bắn rơi và phá hủy 5 máy bay, thu nhiều quân trang, quân dụng, giam chân quân Pháp nhiều ngày.
Trong hơn 60 ngày đêm, quân dân Hà Nội đánh gần 200 trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 địch, phá hủy hơn 100 xe quân sự, bắn chìm 1 ca nô, bắn rơi và phá hủy 5 máy bay, thu nhiều quân trang, quân dụng, giam chân quân Pháp nhiều ngày.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị quyết tử của Hà Nội đầu năm 1947. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị quyết tử của Hà Nội đầu năm 1947. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Trung đoàn Thủ đô chính thức được thành lập ngày 7/1/1947, giữa cuộc chiến kéo dài 2 tháng tại Hà Nội mở đầu Toàn quốc kháng chiến. Trong ảnh: Chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô thề Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh để giữ vững Thủ đô. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Trung đoàn Thủ đô chính thức được thành lập ngày 7/1/1947, giữa cuộc chiến kéo dài 2 tháng tại Hà Nội mở đầu Toàn quốc kháng chiến. Trong ảnh: Chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô thề Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh để giữ vững Thủ đô. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Bảo đảm vũ khí đạn, quân nhu... cho chiến đấu bảo vệ Hà Nội đã góp phần đánh bại âm mưu, kế hoạch tiêu diệt lực lượng vũ trang Việt Nam ở các thành phố, thị xã thực dân Pháp, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào trường kỳ kháng chiến và còn để lại nhiều kinh nghiệm quý về bảo đảm hậu cần tại chỗ cho chiến đấu ở đô thị. Đó là, vận động và tổ chức nhân dân làm công tác hậu cần tại chỗ ở đô thị, nhằm nâng cao khả năng bảo đảm chủ động, vững chắc đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu vật chất cơ bản cho lực lượng vũ trang đánh địch.
Đây cũng là biện pháp rất quan trọng nhằm tiết kiệm sức người, sức của trên các tuyến chi viện, là cách đối phó kịp thời, có hiệu quả với kẻ địch có trang bị kỹ thuật mạnh, phương tiện cơ động cao.
Đây còn là cách chuẩn bị về hậu cần một cách tích cực chủ động để sẵn sàng bảo đảm cho bộ đội đến những địa bàn tác chiến lựa chọn, đánh tiêu diệt lớn trên từng chiến trường. Đó là, huy động được sức mạnh đoàn kết của công nhân và mọi tầng lớp nhân dân cho công tác bảo đảm hậu cần tại chỗ.
Trước những khó khăn về nguồn vật chất, nhân dân nội ngoại thành Hà Nội đã hăng hái xung phong bảo đảm lương thực thực phẩm, vận chuyển và sản xuất vũ khí đạn cho bộ đội, cấp cứu thương bệnh binh... Sự tham gia của nhân dân cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của chiến trường trong điều kiện lúc bấy giờ. Thực hiện tốt phương châm lấy vũ khí địch đánh địch, trong quá trình chiến đấu nhiều cán bộ, chiến sĩ tích cực lấy súng đạn địch tự trang bị cho mình. Hầu hết số vũ khí đạn, toàn bộ pháo và đạn pháo bảo đảm cho lực lượng vũ trang Hà Nội là thu được của địch....
Ba năm sau ngày kháng chiến, khi trả lời một nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Ba phần tư khí giới của chúng tôi là lấy từ quân đội Pháp”([4]).
Cuộc chiến đấu bảo vệ Hà Nội những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp đã cho thấy: Vận động và tổ chức nhân dân tham gia công tác hậu cần tại chỗ ở đô thị là một đòi hỏi tất yếu, một yêu cầu cấp bách cho sự tồn tại và hoạt động của lực lượng vũ trang. Đây cũng là một phương thức bảo đảm hậu cần cơ bản trong tác chiến cần được phổ biến tới tất cả các thành phố, thị xã Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Xẻ đường chắn xe địch ở ngoại ô Hà Nội. (Ảnh: TTXVN)
Xẻ đường chắn xe địch ở ngoại ô Hà Nội. (Ảnh: TTXVN)
Bộ đội, tự vệ cùng nhân dân thành phố đắp lũy, dựng vật cản chặn quân Pháp trên phố Mai Hắc Đế. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Bộ đội, tự vệ cùng nhân dân thành phố đắp lũy, dựng vật cản chặn quân Pháp trên phố Mai Hắc Đế. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Tài liệu tham khảo
- Thành ủy Hà Nội - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Quân khu Thủ đô. Hà Nội mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc - Tầm vóc và ý nghĩa. NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập I,NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Lịch sử kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954). NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002.
- Quân khu Thủ đô. Thủ đô Hà Nội - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954). NXB Hà Nội, Hà Nội, 1986.
Chú thích:
[1] Hà Nội, thời gian này được được chia thành 3 liên khu: Liên khu 1, Liên khu 2 và Liên khu 3.
[2] Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chuẩn bị cho trận đánh then chốt mở đầu kháng chiến toàn quốc, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Hà Nội mở đầu kháng chiến toàn quốc - Tầm vóc và ý nghĩa, Nxb QĐND, H, 1996, tr.22.
[3] Dẫn theo Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, Tập 1. Viện LSQSVN, Nxb QĐND. H, 1994, tr.203.
[4] Giải quyết một số vấn đề kỹ thuật quân sự trong 30 năm kháng chiến (1945-1954). Nxb QĐND, H, 2000, tr.187.
Trình bày: BẢO MINH
Ảnh: TTXVN