Trong cuộc làm việc mới đây với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải bảo đảm độc lập, tự chủ và cân đối về năng lượng, không phụ thuộc bên ngoài, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh, quốc phòng an ninh, an sinh xã hội… Phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết, để hành động thực hiện bằng được mục tiêu này. Nhận diện những tồn tại trong hệ thống cung ứng và bảo đảm năng lượng, sửa đổi từ cơ chế chính sách đến nâng cao năng lực thực thi là lựa chọn tất yếu.
Bắt đầu từ chuyển đổi về cơ chế
Trong bối cảnh xung đột Nga-Ukraine, các lệnh trừng phạt liên tiếp được các bên liên quan áp đặt cho nhau đã gây ra nhiều hệ lụy cho kinh tế thế giới, nhất là lĩnh vực năng lượng bởi nước Nga giữ vị trí hàng đầu thế giới về sản lượng khí đốt, dầu mỏ, than đá và urani. Tờ The Economist ngày 12/3/2022 cho rằng, đây là cú sốc lớn nhất trên thị trường hàng hóa toàn cầu kể từ khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, còn Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Kristalina Georgieva nhìn nhận, hậu quả của các chính sách cấm vận sẽ còn tệ hại hơn cả đại dịch Covid-19 đối với kinh tế thế giới.
Giá dầu thế giới vẫn "lơ lửng" quanh ngưỡng cao kỷ lục (hơn 100 USD/thùng) suốt bốn tuần qua (tính đến cuối tháng 3/2022), trong lúc Saudi Arabia cũng như toàn bộ Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) vẫn hờ hững với việc tăng sản lượng nhằm bù đắp nguồn cung để bình ổn thị trường, rồi đến kho dự trữ dầu của tập đoàn dầu mỏ hàng đầu thế giới Saudi Aramco bị tiến công (ngày 25/3)... Dường như, các quốc gia và những nền kinh tế phương Tây vẫn chưa có cách nào thoát khỏi việc bị phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu từ nước Nga.
Sự tăng giá của loại hàng hóa này khiến cho mặt bằng giá chung của cả xã hội bị đẩy lên cao, tăng nguy cơ lạm phát, làm chậm tốc độ phát triển kinh tế, suy giảm thu nhập thực tế và chất lượng cuộc sống của người dân. Chẳng thế mà Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã nhận định, năm nay mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ giảm 1 điểm phần trăm và đẩy lạm phát, giá tiêu dùng toàn cầu lên xấp xỉ 2,5 điểm phần trăm.
Cũng như những lần khủng hoảng toàn cầu khác, Việt Nam khó có thể đứng ngoài khi chúng ta đã là nền kinh tế lớn thứ 40 của thế giới. Tuy là quốc gia khai thác và xuất khẩu dầu mỏ, nhưng chúng ta vẫn phải nhập khẩu dầu thô về để chế biến tại hai nhà máy lọc dầu ở Dung Quất (Quảng Ngãi) và Nghi Sơn (Thanh Hóa) cũng như phải nhập khẩu điện từ các nước láng giềng.
Vấn đề an ninh năng lượng, một khái niệm phức tạp liên quan nhiều lĩnh vực, gắn chặt với an ninh kinh tế và an ninh quốc gia cần được nhìn nhận trực diện. Những khó khăn trong cung ứng xăng dầu trong nước giai đoạn vừa qua làm bộc lộ rõ hơn những yếu kém cần phải sửa đổi của hệ thống cung ứng và bảo đảm năng lượng của nước ta.
Những khó khăn trong cung ứng xăng dầu trong nước giai đoạn vừa qua có phần từ yếu tố nhà máy lọc dầu, nhưng còn do những yếu kém của hệ thống cung ứng. Những câu chuyện như: doanh nghiệp bị lỗ vốn bán cầm chừng, cây xăng găm hàng chờ tăng giá, cảnh người dân xếp hàng dài chờ mua xăng mỗi khi có tin tăng giá, hay giá cước vận tải, logistics tăng, tàu cá nằm bến,... luôn lặp lại mỗi khi có biến động lớn về giá nhiên liệu.
Chúng ta cần xác định mức độ can thiệp của Nhà nước vào thị trường năng lượng theo hướng nhanh chóng xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hóa hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh; áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng như Nghị quyết 55-NQ/TW của Trung ương năm 2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã yêu cầu.
Hiện nay chúng ta điều hành giá xăng dầu vừa sát theo diễn biến giá xăng dầu thế giới, vừa phù hợp tình hình cung cầu xăng dầu trong nước để góp phần ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, góp phần giảm chi phí đầu vào của doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, hỗ trợ đời sống sinh hoạt của người dân và hạn chế các hành vi đầu cơ, buôn lậu xăng dầu qua biên giới.
Các cơ quan quản lý nhà nước sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu để giữ ổn định hoặc hạn chế mức tăng giá bán xăng dầu trong nước. Việc điều hành kinh doanh xăng dầu luôn được công khai, minh bạch trên các trang thông tin điện tử của Bộ Công thương, Bộ Tài chính để người dân, doanh nghiệp đều có thể theo dõi và giám sát. Trước đây Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam đã từng đề xuất bỏ Quỹ Bình ổn giá xăng dầu.
Tuy nhiên, theo các cơ quan quản lý nhà nước, xăng dầu thuộc danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư và danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá theo quy định tại Luật Giá nên về nguyên tắc, giá bán xăng dầu trong nước phải được thực hiện theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết, quản lý của nhà nước. Nếu muốn bỏ quỹ, phải sửa đổi các luật này, còn trước mắt có thể rút ngắn thời gian điều hành giá xăng dầu thay vì 10 ngày một lần như hiện nay.
Việt Nam đã chấp nhận thị trường bán buôn điện cạnh tranh và dần tiến tới thị trường bán lẻ điện cạnh tranh hoàn chỉnh khi khách hàng sử dụng điện sẽ được lựa chọn, thay đổi đơn vị bán lẻ điện đồng thời thỏa thuận, thống nhất với đơn vị bán lẻ điện về mức giá bán điện. Vậy thì tại sao xăng dầu lại không đi theo xu thế tiến bộ đó?
Chúng ta mới có hai nhà máy lọc dầu gồm Dung Quất hoạt động từ năm 2009, công suất 6,5 triệu tấn/năm, mỗi năm cung cấp gần 7 triệu tấn, chiếm khoảng 35% thị phần và Nhà máy Nghi Sơn, đưa vào năm 2018, công suất 10 triệu tấn, nhưng mỗi năm cung cấp khoảng 6,5 - 7 triệu tấn.
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng giá xăng, dầu nên được vận hành theo quy luật thị trường và xu hướng chung của thế giới, tuân thủ theo luật chơi và chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên, cần có lộ trình và có cơ chế bảo đảm thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, nhập khẩu, kinh doanh xăng dầu tìm đến các nguồn cung có giá cả cạnh tranh, thực hiện quản trị doanh nghiệp hiện đại để cắt giảm chi phí, chống thất thoát lãng phí để có giá bán tốt nhất cho người tiêu dùng. Hoặc bước đầu có thể coi dầu là tư liệu sản xuất quan trọng nên cần điều tiết, quản lý, bình ổn giá còn xăng thì coi là hàng hóa thông thường cho vận hành theo cơ chế thị trường...
Để bảo đảm yêu cầu chú trọng mục tiêu bình ổn, điều tiết và yêu cầu dự trữ năng lượng quốc gia theo Nghị quyết của Trung ương, có lẽ chúng ta cần sớm hình thành các cơ sở dự trữ xăng dầu chiến lược cấp quốc gia thuộc hệ thống dự trữ quốc gia theo Luật Dự trữ quốc gia.
Trước mắt, việc xây dựng cơ sở dự trữ xăng dầu chiến lược vẫn theo hình thức gửi nhờ doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu như hiện nay để tiết kiệm chi phí. Nhưng dài hạn, Nhà nước cần có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dự trữ chiến lược quốc gia về năng lượng phù hợp chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong từng thời kỳ cũng như xây dựng dự trữ quốc gia đủ mạnh, cơ cấu hợp lý, phù hợp khả năng cân đối của ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, là quốc gia xuất khẩu dầu mỏ nên khi giá dầu thô tăng cao một cách đột biến, cao hơn nhiều so giá dầu thô bình quân/năm dự kiến trong xây dựng dự toán ngân sách nhà nước, nên ngân sách sẽ có khoản tăng thu tương ứng. Nếu được cấp có thẩm quyền theo Luật Ngân sách Nhà nước cho phép, có thể sử dụng một phần của số tăng thu này để bình ổn giá, hỗ trợ cho sản xuất và sinh hoạt của người dân thông qua chính sách thuế, phí như mới đây Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho phép giảm 50% thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu.
Các công cụ thuế và phí đối với xăng dầu, hiện chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá xăng dầu, cần được các cơ quan có liên quan nghiên cứu, đánh giá, xem xét để đề xuất cấp có thẩm quyền điều chỉnh trong khung thuế suất theo luật định tương ứng và phù hợp các mục tiêu ổn định vĩ mô từng giai đoạn.
Việc rà soát, cắt giảm một số điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu nằm trong xu thế cải cách hành chính sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh xăng dầu để thị trường xăng dầu cạnh tranh hơn và bảo đảm nguồn cung tốt hơn.
Trong bối cảnh những diễn biến và thay đổi khó lường của thị trường năng lượng toàn cầu, từ tình hình cụ thể của mình, chúng ta cần có tư duy, cách làm mới, nhanh chóng nghiên cứu, sửa đổi các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý, điều hành thị trường năng lượng với lộ trình và giải pháp hợp lý, để tiếp tục bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia.
PVN cần được trao cơ hội để bứt phá
Xu hướng chuyển dịch năng lượng, những biến động phức tạp của địa chính trị ảnh hưởng tới cung, cầu dầu thô, các sản phẩm từ dầu... đang đặt Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) vào thế buộc phải làm khác để bứt phá. Tuy nhiên cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước đang làm khó kế hoạch này.
PVN đang phải đối mặt những thách thức rất lớn như xu hướng chuyển dịch năng lượng, biến động cung, cầu dầu thô, các sản phẩm từ dầu trên thế giới... Nhưng có lẽ thách thức lớn hơn cả là cơ chế, chính sách để PVN hoạt động. Tập đoàn này cần phải đặt ra tầm nhìn mang tính chiến lược cũng như có đủ năng lực, nguồn lực để thực hiện tầm nhìn, chiến lược đó. Thực tế, đây không chỉ là thách thức của PVN mà của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Rào cản xuất hiện ngay từ quy định pháp luật liên quan quản trị doanh nghiệp, quản lý vốn và tài sản, đất đai, đấu giá, đấu thầu... hiện chưa đồng bộ, chưa phù hợp đầu tư kinh doanh và quản trị điều hành doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế thị trường. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước buộc phải xin ý kiến, xin chấp thuận và phê duyệt của nhiều cơ quan quản lý trong việc quyết định các vấn đề quản trị kinh doanh của doanh nghiệp...
Trong lĩnh vực năng lượng, như khai thác dầu khí, nếu trữ lượng tới hạn thì doanh nghiệp cần tìm kiếm mỏ mới; hay đầu tư vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch để bắt kịp xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu. Nhưng với PVN và nhiều doanh nghiệp nhà nước khác, đây lại là câu hỏi rất khó, nhất là trong bối cảnh mọi việc thay đổi rất nhanh, cần các quyết định kịp thời.
Đúng là cơ chế chấp nhận rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước hầu như không có. Các doanh nghiệp rất sợ đầu tư mà thua lỗ. Cũng vì tính chủ động của doanh nghiệp trong kinh doanh bị bó buộc, khiến doanh nghiệp nhiều khi không được làm, thậm chí không dám làm. Không thể cạnh tranh được trong tình thế này, nhất là khi PVN và các doanh nghiệp nhà nước khác phải bước ra khỏi vùng an toàn, phải đầu tư ra nước ngoài, cạnh tranh trên thị trường quốc tế...
Nếu PVN muốn đầu tư vào các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo hay đặc biệt là công nghệ tích trữ năng lượng, thì cần nguồn lực lớn, cả vốn và nhân lực để đầu tư đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển, mở rộng thị trường...
Nhưng với cơ chế, chính sách dành cho doanh nghiệp thiên về quản lý chặt chẽ vốn nhà nước hơn là gia tăng hiệu quả nguồn lực, thời gian để làm thủ tục cho một dự án mất vài năm, thì PVN hay các doanh nghiệp nhà nước không muốn làm, không dám làm và cũng không thể làm vì không cạnh tranh được với các doanh nghiệp tư nhân trong cùng một sản phẩm, dịch vụ... Doanh nghiệp nhà nước cần có cơ chế để sẵn sàng bước chân vào cạnh tranh quốc tế, sẵn sàng đầu tư mạo hiểm, mở ra hướng kinh doanh mới, tạo hệ sinh thái trong ngành năng lượng.
PVN chỉ được khai thác và chế biến các sản phẩm từ dầu, chỉ ở trong nước thì không thể phát triển được. Việc tái cơ cấu các doanh nghiệp này cần phải có tầm nhìn, chiến lược dài hạn, bứt phá, để có sự chuẩn bị cho giai đoạn tới.
Nhìn vào không gian phát triển của PVN, để phát triển mạnh mẽ hơn, Tập đoàn phải đầu tư ra nước ngoài tìm kiếm các mỏ dầu mới, đầu tư đổi mới công nghệ khai thác, phát triển nguồn năng lượng mới, thậm chí là đầu tư lĩnh vực mới như dự trữ năng lượng. Nhưng với cơ chế hiện hành, PVN không thể làm khác. Dư địa phát triển vì thế bị hạn hẹp.
Covid-19 & bài toán tiết kiệm, hiệu quả
Chuyển đổi năng lượng và tiết kiệm năng lượng cũng là những giải pháp quan trọng để bảo đảm an ninh năng lượng, nhất là nhờ những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tận dụng lợi thế so sánh, tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo của nước ta.
Cơ cấu tiêu thụ năng lượng sơ cấp toàn cầu đã thay đổi đáng kể trong những năm gần đây, nhất là từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát. Trong suốt hai năm dịch bệnh, đã có sự thay đổi đáng kể trong cách thức sử dụng năng lượng của doanh nghiệp, hộ kinh doanh, sản xuất.
Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành đúng vào lúc đại dịch Covid-19 xuất hiện và tác động tiêu cực tới nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả trở thành một đòi hỏi cấp thiết góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Ông Trịnh Quốc Vũ-Phó Vụ trưởng Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững, Bộ Công thương nêu ra một thí dụ: Đối với một chiếc tàu đánh bắt cá, việc chuyển đổi ánh sáng để câu mực hay đánh bắt cá từ ánh sáng đèn sợi đốt trước đây sang ánh sáng đèn LED giúp tiết kiệm được 6-7 lần chi phí năng lượng. Còn nếu dùng các giải pháp sử dụng pin năng lượng mặt trời trên nóc tàu cũng mang lại tiềm năng tiết kiệm dầu diesel, tiết kiệm năng lượng rất lớn cho doanh nghiệp, mang lại hiệu quả kinh tế rất tích cực…
Ngoài Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được ban hành, cần xây dựng các luật mới về khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, khuyến khích chuyển đổi, thay thế các thiết bị, công nghệ có hiệu suất sử dụng năng lượng thấp, phát triển các loại động cơ điện, hỗn hợp xăng-điện hybrid.
Thực tế trên cho thấy, bên cạnh việc quan tâm hiệu quả năng lượng thông qua đầu tư, phát triển các nguồn năng lượng mới và tái tạo công suất lớn vào hệ thống điện quốc gia theo xu hướng chung của thế giới, thì việc tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo vào quá trình sản xuất và tiêu dùng-một hợp phần quan trọng được xác định trong Chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả của quốc gia cũng được nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ sản xuất, kinh doanh cá thể áp dụng khá hiệu quả thời gian gần đây.
Đại diện cho một doanh nghiệp sử dụng nhiều điện năng trong sản xuất, ông Đinh Văn Chung-Phó Giám đốc Công ty CP Thép Hòa Phát Dung Quất chia sẻ, có đến 70% tổng sản lượng điện phải sử dụng của công ty là nhờ vào việc thu hồi nhiệt dư và khí thải phát ra môi trường tận dụng lại để phát điện. Tới đây, công ty còn đặt mục tiêu đạt hơn 80%. Xu thế sử dụng các giải pháp tiết kiệm điện, thu lại nguồn nhiệt thải để tái sử dụng, tận dụng nguồn ánh sáng tự nhiên để chiếu sáng và nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm hiệu suất cao, sử dụng ít điện năng và thân thiện hơn với môi trường... đang được nhiều doanh nghiệp triển khai áp dụng.
Với năng lực sản xuất hơn 40.000 tấn sản phẩm/năm, Công ty TNHH MTV Sơn Hà SSP Việt Nam thuộc diện "cơ sở sản xuất công nghiệp trọng điểm", tiêu thụ điện năng lớn. Ông Chu Thái Sơn-Giám đốc Công ty cho biết: Để xuất khẩu được sang các thị trường khó tính như châu Âu và Mỹ, cùng với việc đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng, tiết kiệm năng lượng còn góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trong bối cảnh đại dịch Covid-19 khiến chi phí dịch vụ logistics hàng xuất khẩu tăng cao.
Bắt nhịp với xu thế này, Tập đoàn Hòa Phát khẳng định, sẽ triển khai dự án Dung Quất 2 công suất 5,6 triệu tấn/năm trong năm 2022 này, với dây chuyền công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít năng lượng hơn, đồng thời áp dụng theo mô hình kinh tế tuần hoàn, tận dụng tối đa các nguồn phát thải để tái sử dụng.
Dẫu vậy, tiết kiệm năng lượng chưa phải là câu chuyện của số đông doanh nghiệp. Số doanh nghiệp nhỏ và vừa, hay siêu nhỏ khó khăn đã đành. Nhưng số lượng doanh nghiệp lớn, có thể trụ vững và quan tâm đầu tư, áp dụng các giải pháp sử dụng hiệu quả năng lượng trước những tác động của đại dịch Covid-19 là không nhiều.
Dịch Covid-19 đã khiến việc triển khai Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với một số tỉnh, thành phố lớn tập trung nhiều khu công nghiệp, tiêu thụ nhiều năng lượng như TP Hồ Chí Minh, Bình Dương..., ông Trịnh Quốc Vũ cho biết thêm. Kết quả khảo sát, đánh giá về tính tuân thủ của các doanh nghiệp với việc kiểm toán năng lượng trong năm 2021 cho thấy, việc xây dựng và duy trì hệ thống quản lý năng lượng chỉ ở mức 30-40%, đây là mức thấp. Cụ thể, cả năm 2021 mới kiểm toán năng lượng được 91 cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm; xây dựng mô hình quản lý năng lượng được 17 cơ sở; hỗ trợ đầu tư trang thiết bị hiệu suất cao tiết kiệm năng lượng cho 11 cơ sở; mới có 12 tòa nhà được đánh giá hiệu quả năng lượng...
Một nguyên nhân dẫn đến tình trạng này chính là việc, trong năm 2020 và năm 2021, vẫn còn hạn chế trong các hoạt động về hỗ trợ kỹ thuật và triển khai các hoạt động sử dụng nguồn ngân sách trung ương cho Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả do nguồn kinh phí khó khăn. So với quy mô toàn quốc, thì nguồn kinh phí 10 tỷ đồng trong năm 2020 và 30 tỷ đồng trong năm 2021 chỉ như muối bỏ bể.
Trong khi thực tế tiềm năng tiết kiệm năng lượng ở nước ta là rất lớn. Hiện nay, các ngành công nghiệp đang chiếm hơn 47% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc, với tiềm năng tiết kiệm năng lượng lên tới 30-35%. Theo tính toán của ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)-trên cơ sở "Danh sách các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm" được Thủ tướng Chính phủ ban hành-các doanh nghiệp có mức tiêu thụ năng lượng từ 1.000 TOE hoặc 6 triệu kWh điện/năm trở lên, hiện cả nước có 2.961 cơ sở - hầu hết là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, với mức tiêu thụ điện bình quân là 72 tỷ kWh/năm, chiếm 33% tổng tiêu thụ điện năng toàn quốc. Nếu các doanh nghiệp này thực hành sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả để tiết kiệm tối thiểu 2% điện năng tiêu thụ/năm (theo Chỉ thị số 20 về việc tăng cường tiết kiệm điện giai đoạn 2020-2025 của Thủ tướng Chính phủ) thì bình quân mỗi năm cả nước tiết kiệm được khoảng 1,4 tỷ kWh, tương ứng với tiền điện tiết kiệm được hơn 2.700 tỷ đồng.
Điều đáng nói, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong khối doanh nghiệp công nghiệp góp phần quan trọng giúp giảm áp lực cung cấp điện cho hệ thống, đồng thời là giải pháp thiết thực giúp giảm chi phí cho chính doanh nghiệp, qua đó nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.
Dư địa tiết kiệm năng lượng còn rất lớn, điều quan trọng là chúng ta cần đưa ra được những chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp tiêu thụ ít năng lượng và có hiệu quả về kinh tế-xã hội. Đồng thời, triển khai áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn bắt buộc kèm theo chế tài về sử dụng hiệu quả năng lượng đối với những lĩnh vực, ngành và sản phẩm có mức tiêu thụ năng lượng cao... Căn cơ trong sử dụng năng lượng chính là giải pháp không thể xem nhẹ trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia
Nghị quyết 55/NQ-TW của Bộ Chính trị xác định rõ, để “bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững...”, cùng với phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, phải sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng trên cơ sở “cơ cấu lại các ngành và khu vực tiêu thụ năng lượng song song với thực hiện chính sách về sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm và hiệu quả”, đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài để giảm cường độ năng lượng.
Phập phồng lo điện
Việc không có những nguồn điện lớn được đầu tư xây dựng trong những năm gần đây và giá điện bất động trong hai năm qua tiếp tục đặt ra những thách thức lớn cho yêu cầu điện đi trước một bước, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế với sự ổn định đi cùng mức giá hợp lý.
Theo Tổng công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC), mặc dù về cơ bản hệ thống điện quốc gia vẫn bảo đảm cấp điện cho phụ tải miền bắc trong năm 2022 nhưng câu chuyện sẽ có các đợt nắng nóng vào mùa hè và sự phục hồi kinh tế sau đại dịch, tăng trưởng phụ tải điện của miền bắc hè năm 2022 có thể đạt tới 12-15%. Xét về số tuyệt đối là phụ tải đỉnh (Pmax) có thể đạt 16.500-16.950 MW (tăng khoảng 2.000 MW so mùa nắng nóng năm 2021).
Đáng nói, ở phía cung, sự bổ sung nguồn điện so năm 2021 tại miền bắc chỉ xấp xỉ khoảng 1.000 MW và năng lực truyền tải của đường dây 500 kV bắc trung vẫn giống như năm ngoái (giới hạn các mạch Hà Tĩnh-Đà Nẵng, Vũng Áng-Đà Nẵng, Hà Tĩnh-Nho Quan truyền tải tối đa khoảng 1.800 MW). Mặt khác, lượng công suất mua điện Trung Quốc cũng bị hạn chế, chỉ mua được Pmax khoảng 540 MW vào tháng 5, tháng 6/2022.
Do đó, dự báo trong các ngày nắng nóng cực đoan năm nay sẽ thiếu hụt công suất đỉnh vào các khung giờ cao điểm (trưa từ 12 giờ-15 giờ, tối từ 21 giờ-24 giờ).
Theo ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hiện công suất nguồn điện tại khu vực miền bắc khoảng 28.000 MW và không có sự gia tăng mạnh trong những năm qua. Năm 2021, công suất tiêu thụ điện ở miền bắc đã đạt 21.700 MW và với mức tăng trưởng cao như hiện nay, dự báo năm 2022, đỉnh công suất ở miền bắc sẽ đạt 24.000 MW.
Trong khi miền bắc lo thiếu điện thì miền nam đã xuất hiện tình trạng “thừa nguồn”, nhưng cũng không thể truyền tải từ nam ra bắc để cấp được bởi đường dây có giới hạn. Thêm nữa, miền nam thừa điện mặt trời, trong khi miền bắc lại thiếu công suất vào cao điểm tối. Thừa nguồn mà vẫn thiếu điện cho thấy sự lãng phí nguồn đầu tư của xã hội khi không khai thác được các nguồn đầu tư đã đổ vào ngành năng lượng.
Về nguồn điện bổ sung, theo thống kê của Bộ Công thương, tới cuối năm 2021, các địa phương đã đề nghị bổ sung 550.000 MW điện các loại vào Dự thảo quy hoạch điện VIII. Trong số này có 129.000 MW điện gió ngoài khơi, 106.000 MW điện gió trên bờ, 140.000 MW điện khí LNG, 118.000 MW điện mặt trời quy mô trang trại…
Như vậy sẽ phải cân lên đặt xuống để loại bớt các đề nghị làm nhà máy điện này bởi với phương án cao tính toán thì tới năm 2030 nhu cầu cũng mới chỉ là 150.000 MW và năm 2045 là khoảng 426.000 MW. Dẫu vậy, ngay kể cả có khớp được các dự án điện vào quy hoạch, cũng không dễ dàng triển khai trên thực tế.
Với thực tế công suất đặt của hệ thống đã khá lớn và tình hình thừa nguồn ở khu vực nam trung bộ và miền nam, cũng như giá điện vẫn bất động, câu chuyện đầu tư vào ngành điện đang trở thành sự thách thức lớn cho cả các bên liên quan.
Hiện các dự án điện mặt trời chưa có giá vẫn đang chờ cơ chế mới sau khi cơ chế mua điện theo giá cố định (FIT) đã hết hiệu lực từ ngày 1/1/2021. Các dự án điện gió cũng tương tự khi cơ chế giá FIT cũ đã hết hiệu lực từ ngày 1/11/2021.
Bộ Công thương đang xây dựng cơ chế giá mua điện năng lượng tái tạo mới nhưng xem ra không dễ. Lý do là ngoài việc tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR) chỉ còn 12%, thấp hơn 30% so với trước đây thì việc đàm phán giá hay có được cam kết mua điện của EVN trong trường hợp đấu giá để trúng quyền bán điện là không hề dễ với thực tế đang thừa điện hiện nay.
Tại các nguồn điện lớn như điện khí LNG, câu chuyện còn khó khăn bội phần khi vướng hàng loạt cơ chế phải cần sửa Nghị định hay Luật mới có thể thực hiện được. Câu chuyện của dự án điện khí LNG Bạc Liêu hơn 4 tỷ USD là một thí dụ. Tuy được cấp phép đầu tư theo dạng Nhà máy điện độc lập (IPP) theo hình thức đầu tư của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) với mục tiêu tham gia chào giá trên thị trường điện, nhưng dự án này đưa các yêu cầu như một dự án BOT với nhiều vấn đề cần có cam kết/bảo lãnh ở cấp Chính phủ. Bởi vậy, dù được cấp phép từ tháng 1/2020 nhưng tới nay các vấn đề pháp lý của dự án này vẫn không thể giải quyết bởi không bộ/ngành nào xử lý được những vấn đề vượt thẩm quyền của mình mà đều chờ ý kiến của Chính phủ.
Lẽ dĩ nhiên Dự án LNG Bạc Liêu tắc thì các dự án điện khí LNG khác cũng khó mà có lời giải bởi tình huống không có gì khác. Đó là chưa kể tới việc nguồn khí LNG hoàn toàn phụ thuộc nhập khẩu và đang có xu hướng trở nên bất định trước những biến động mới ở châu Âu, khiến giá bán tăng vọt, gấp 4-5 lần so trước đây.
Các dự án điện gió ngoài khơi, tuy cũng được xem là "rất triển vọng" nhưng việc thi công trên biển cũng cần những ràng buộc nhất định mà không phải địa phương hay bộ/ngành có thể xử lý được.
Thêm nữa, việc trông chờ vào điện nhập khẩu từ Trung Quốc hay Lào cũng đồng nghĩa với gia tăng sự lệ thuộc vào nhập khẩu trong cung cấp năng lượng nói chung và điện nói riêng.
Ở một khía cạnh khác, việc giữ nguyên giá điện trong khi các chi phí đầu tư biến động mạnh theo thị trường quốc tế chắc chắn sẽ càng làm khó yêu cầu cấp điện an toàn, ổn định. Báo cáo chi phí giá thành sản xuất điện năm 2020 vừa được Bộ Công thương công bố đầu tháng 3/2022 sau khi được kiểm toán và có sự rà soát của các cơ quan chức năng cho thấy, sản lượng điện thương phẩm thực hiện năm 2020 tăng 3,42% so năm 2019.
Tuy nhiên, doanh thu bán điện năm này là 394.892,09 tỷ đồng lại giảm 1,68% so với năm 2019. Mặc dù có ảnh hưởng từ việc giảm giá điện do giảm tiền điện để hỗ trợ các khách hàng bởi dịch Covid-19 với tổng số tiền khoảng 12.300 tỷ đồng nhưng điều đó cũng cho thấy EVN sẽ không có nguồn lực để đầu tư các nguồn điện mới, thực hiện nhiệm vụ chính của mình là cấp điện.
Việc giá bán điện thấp hơn giá thành này đã làm cho thị trường điện méo mó và kém hiệu quả, đơn cử là cường độ thâm dụng năng lượng cao, từ việc đưa ra những tín hiệu không chính xác đến người tiêu dùng về chi phí thực của dịch vụ. Trước đó, giá bán lẻ điện năm 2017 đã bị đóng băng kể từ năm 2015 ở mức tương đương 7,6 UScent/kWh, trong khi tổng giá thành là 11,3 UScent/kWh năm 2017.
Nhu cầu tiêu thụ năm 2022 có thể chạm đỉnh 24.000 MW, nếu so với công suất nguồn hiện có là 28.000 MW, tưởng là đủ, nhưng thực tế sẽ không đủ. Bởi khi nhiệt độ tăng cao, các nhà máy nhiệt điện than không thể phát huy được toàn bộ công suất như thiết kế và thủy điện cũng không chạy được như thiết kế do thiếu nguồn nước. Dự kiến, miền bắc sẽ thiếu khoảng 2.000 MW công suất lắp đặt trong một số thời điểm cực đoan của năm nay.
Thực tế, nhiều dự án điện được lên kế hoạch nhưng không về đích như dự tính trong Tổng sơ đồ điện VII điều chỉnh hay các dự án điện hiện nay không thể đàm phán xong hợp đồng mua bán điện cũng có lý do sâu xa từ hiệu quả kinh tế và giá điện đã không phản ánh đầy đủ các yếu tố của thị trường, khiến thời gian đàm phán, chuẩn bị thực hiện dự án bị kéo dài lê thê.
Từ năm 2011 đến hết năm 2017, ngành điện không thiếu điện để cung cấp cho phát triển kinh tế, nhưng đến năm 2018, ngành điện không còn dự phòng nữa hay hiện nay lại rơi vào tình trạng “thừa nguồn mà vẫn thiếu điện”, rồi xa hơn không dễ triển khai các dự án lớn cũng cho thấy những thách thức không nhỏ trong việc bảo đảm điện cho nền kinh tế trong một tương lai không xa xôi .
Ngày xuất bản: 4/4/2022
Tổ chức sản xuất: Vũ Mai Hoàng
Nội dung: Lưu Hương Giang, Trần Văn, Nguyên Long, Minh Ánh, Kiến Giang, Đông Phong, Nguyễn Hà
Trình bày: Phan Anh, Duy Long