Mới đây, nhóm Envim, Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã công bố kết quả nghiên cứu về ô nhiễm bụi mịn (PM₂.₅) tại Hà Nội trên Tạp chí Môi trường khí quyển châu Á.

“Với góc độ của người nghiên cứu, tôi cho rằng mức độ ô nhiễm tại Hà Nội là nghiêm trọng... Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới khu vực trung tâm của Hà Nội với kết luận có ô nhiễm PM₂.₅ cao nhưng không chứng minh được do phát thải tại chỗ. Điều này nhấn mạnh vai trò của vận chuyển liên vùng (tức lan truyền bụi) trong nội đô Hà Nội”, Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Tá Long, dẫn đầu nhóm nghiên cứu, cho biết.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới khu vực trung tâm của Hà Nội với kết luận có ô nhiễm PM₂.₅ cao nhưng không chứng minh được do phát thải tại chỗ, cho thấy vai trò của vận chuyển liên vùng trong nội đô Hà Nội.
Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Tá Long,

Trao đổi với phóng viên Báo Nhân Dân, Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Tá Long, Phòng thí nghiệm trọng điểm Điều khiển số và Kỹ thuật hệ thống, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã phân tích rõ thực trạng, nguyên nhân và những giải pháp cấp bách, lâu dài để kiểm soát ô nhiễm không khí ở Thủ đô.

Mức độ ô nhiễm tại Hà Nội là nghiêm trọng.

Phóng viên: Thưa Giáo sư Bùi Tá Long, là một trong những chuyên gia về lĩnh vực môi trường, ông đánh giá như thế nào về mức độ ô nhiễm không khí hiện nay tại các đô thị lớn và vùng kinh tế trọng điểm?

Giáo sư Bùi Tá Long: Việc đánh giá mức độ ô nhiễm hiện nay tại các đô thị lớn thuộc thẩm quyền của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng với các Sở dưới quyền. Với góc độ của người nghiên cứu, tôi cho rằng mức độ ô nhiễm tại Hà Nội là nghiêm trọng. Riêng tại các vùng kinh tế trọng điểm phía nam, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh là đáng lo ngại. Ô nhiễm không khí, đặc biệt từ các hạt siêu mịn như PM₂.₅, là một vấn đề toàn cầu nghiêm trọng, nhất là đối với những thành phố đông dân cư như Hà Nội, thủ đô của Việt Nam.

Theo tính toán của chúng tôi cho năm 2023, là năm kinh tế Hà Nội khởi sắc trở lại sau Covid-19, trong cả năm có 100 ngày nồng độ PM₂.₅ trung bình ngày vượt ngưỡng cho phép (50 µg/m³ theo QCVN 05:2023/BTNMT), tức chiếm 27,4% tổng số ngày trong năm. Đặc biệt trong tháng 1/2023 có 27/31 ngày vượt chuẩn, tháng tiếp theo vượt chuẩn là tháng 4/2023 với 17/30 ngày. Tháng “sạch” nhất trong năm là 7/2023 có 1 ngày vượt chuẩn. Các tính toán của chúng tôi dựa trên phương pháp mô hình hóa sử dụng các công cụ hiện đại đang được áp dụng rộng rãi hiện nay trên thế giới.

Phóng viên: Từ các nghiên cứu và số liệu quan trắc, theo ông, đâu là những nguồn phát thải chính, và quá trình đô thị hóa-phát triển kinh tế nhanh đang góp phần như thế nào vào tình trạng ô nhiễm này?

Giáo sư Bùi Tá Long: Trong các nghiên cứu về Hà Nội, nhóm nghiên cứu Envim (www.envim.net) của chúng tôi dựa trên cách tiếp cận mô hình hóa. Dựa trên bộ số liệu quan trắc dưới đất của Hà Nội cộng với phương pháp Top-Down để xây dựng bộ dữ liệu phát thải. Cùng với đó, dữ liệu khí tượng được sử dụng dựa trên mô hình toàn cầu được trích xuất cho khu vực nghiên cứu.

Phương pháp Top‑Down xuất phát từ quan trắc khí quyển (thí dụ dữ liệu vệ tinh hoặc mạng lưới cảm biến) rồi dùng mô hình vận chuyển khí quyển để suy ngược lại lượng phát thải cần thiết nhằm tạo ra nồng độ quan sát được. Ưu điểm của cách này bao quát toàn vùng, phát hiện được cả nguồn chưa thống kê.

Tôi cũng lưu ý rằng, nhiều đồng nghiệp Việt Nam sử dụng cách tiếp cận Down-Up. Theo quan điểm của chúng tôi, cách tiếp cận nào cũng có ưu và khuyết, sở dĩ chúng tôi chọn cách tiếp cận của mình là vì cách còn lại phụ thuộc vào độ chính xác của dữ liệu hoạt động kinh tế-xã hội và hệ số phát thải, dễ thiếu sót nếu nguồn phát thải chưa được thống kê đầy đủ.

Dù sử dụng cách tiếp cận nào thì số liệu quan trắc tại mặt đất rất quan trọng. Tôi đề nghị các cơ quan chức năng nên tổ chức lại các nguồn số liệu để giúp cho các nhà khoa học có được bộ số liệu thực đo quý giá. 

CO

159,944 tấn/năm (≈39.6%)

BC

64,679 tấn/năm (≈16%)

OC

125,494 tấn/năm (≈31%)

NOx

30,757 tấn/năm (≈7.6%)

Mối tương quan giữa nồng độ PM 2.5 và các tiền chất từ ​​các vùng

Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, trung tâm Hà Nội chịu ảnh hưởng đáng kể bởi ô nhiễm PM2.5. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng chắc chắn rằng ô nhiễm này trực tiếp do khí thải trong khu vực trung tâm gây ra, đặc biệt là CO từ hoạt động giao thông.

Phân tích từ hình trên cho thấy mối quan hệ nghịch đảo giữa nồng độ PM2.5 và lượng khí thải CO cùng các tiền chất khác như OC, BC, NOx , SO₂ và NMVOCs tại HN1 (trung tâm Hà Nội). Điều này cho thấy việc tăng lượng khí thải của các tiền chất này không làm tăng nồng độ PM2.5 tại HN1 nhưng lại có tương quan thuận với nồng độ PM2.5 ở các khu vực lân cận HN2 và HN3.

Do đó, vai trò của giao thông liên vùng trong Hà Nội rất quan trọng và cần được nhấn mạnh khi xây dựng các chiến lược giảm thiểu ô nhiễm.

Vai trò của giao thông liên vùng trong Hà Nội rất quan trọng

(Trích dẫn nghiên cứu của nhóm Envim đăng trên Tạp chí Môi trường khí quyển châu Á, xuất bản ngày 10/6/2025)

Dựa trên nghiên cứu của mình chúng tôi đã tính toán lượng phát thải tại Hà Nội là 403,533 tấn/năm (2023) từ 9 tiền chất cơ bản. Trong số này 4 tiền chất đóng góp lớn nhất là CO: 159,944 tấn/năm (≈39.6%), OC: 125,494 tấn/năm (≈31%), BC: 64,679 tấn/năm (≈16%), NOx: 30,757 tấn/năm (≈7.6%) (4 tiền chất này chiếm 94.38% tổng phát thải).

Cùng với đó, chúng tôi làm rõ đóng góp từ các ngành vào lượng phát thải này, cụ thể là CO: công nghiệp 37%, giao thông 34%, dân cư 21%. OC: công nghiệp 45%, dân cư 36%, nông nghiệp (đốt rơm rạ) 15%. BC: công nghiệp 76%, dân cư 11.4%, giao thông 7.6%. NOₓ: công nghiệp 78.7%, giao thông 17%, dân cư 2%.

Kết quả của chúng tôi cho thấy sự khác biệt về ô nhiễm tại thủ đô theo mùa: mùa khô (tháng 11 đến tháng 4 năm sau): PM₂.₅ dao động 51.3–63.7 µg/m³, mùa mưa (tháng 5 đến tháng 10): PM₂.₅ dao động 30.45–39.67 µg/m³.

Hà Nội cần lưu ý tới quá trình đô thị hóa và phát triển kinh tế xã hội tại ven đô, bởi khu vực này có thể ảnh hưởng tới khu vực trung tâm.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới khu vực trung tâm của Hà Nội với kết luận có ô nhiễm PM₂.₅ cao nhưng không chứng minh được do phát thải tại chỗ. Điều này nhấn mạnh vai trò của vận chuyển liên vùng (tức lan truyền bụi) trong nội đô Hà Nội đối với ô nhiễm PM₂.₅.

Do vậy Hà Nội cần lưu ý tới quá trình đô thị hóa và phát triển kinh tế xã hội tại ven đô, bởi khu vực này có thể ảnh hưởng tới khu vực trung tâm.

Phóng viên: Sau khi nghiên cứu được công bố, rất nhiều người đã cho rằng như vậy ô nhiễm không khí Hà Nội không phải do sử dụng xe máy ở nội đô. Giáo sư có khuyến cáo như thế nào về vấn đề này?

Giáo sư Bùi Tá Long: Cần nhìn nghiên cứu của chúng tôi toàn diện hơn và được minh chứng từ số liệu thực tế. Từ bài báo của chúng tôi có thể thấy vai trò chi phối của khu vực công nghiệp và giao thông trong cơ cấu phát thải tiền chất PM₂.₅ của Hà Nội.

Theo đó, giao thông chỉ đóng góp 34% vào CO (thua ngành công nghiệp 37%), đóng góp rất nhỏ vào BC (7.6%), đóng góp vào NOₓ (17%). Trong khi đó, công nghiệp là nguồn phát thải lớn nhất đối với 3/4 tiền chất quan trọng (OC, BC, NOₓ), cụ thể là đối với CO, công nghiệp cũng đứng đầu (37%), OC (45%), BC (76%), NOx (78.7%).

Điều này cho thấy các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và hoạt động sản xuất là yếu tố then chốt trong cấu trúc phát thải của Hà Nội. Vì vậy, giảm phát thải công nghiệp sẽ mang lại hiệu quả lớn nhất trong việc giảm PM₂.₅ toàn thành phố.

Sự khác biệt về ô nhiễm tại thủ đô theo mùa

PM₂.₅ dao động

51.3–63.7
µg/m³

(tháng 11 đến tháng 4 năm sau)

PM₂.₅ dao động

30.45–39.67 µg/m³

(tháng 5 đến tháng 10)

Phóng viên: Những yếu tố khí tượng như biến đổi khí hậu hiện nay có đang làm trầm trọng thêm tình hình ô nhiễm không khí không, thưa Giáo sư?

Giáo sư Bùi Tá Long: Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng, khí hậu chịu trách nhiệm tạo ra ô nhiễm khoảng 30%-40% (lớn hơn nhiều so với nhiều khu vực khác trên thế giới). Các yếu tố thời tiết gây ảnh hưởng tới mức độ ô nhiễm không khí tại Hà Nội gồm: nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, lớp biên khí quyển, áp suất, vận tốc gió và hướng gió.

Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy vận tốc gió ảnh hưởng lớn nhất tới nồng độ chất ô nhiễm và vào mùa đông tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau chiều cao tầng biên ở Hà Nội thấp dẫn tới ô nhiễm nặng khu vực dưới đất.

Trạm quan trắc chất lượng không khí tại Hà Nội. (Nguồn: CEM)

Trạm quan trắc chất lượng không khí tại Hà Nội. (Nguồn: CEM)

Phóng viên: Theo ông, các công cụ và mô hình khoa học nào đang được sử dụng để giám sát và phân tích ô nhiễm không khí, và mức độ ứng dụng của chúng ở Việt Nam hiện nay ra sao?

Giáo sư Bùi Tá Long: Hiện nay, việc ứng dụng công cụ mô hình hóa vào công tác dự báo ô nhiễm không khí chưa được chú ý đúng mức.

Tôi cho rằng phải xây dựng mạng lưới quan trắc không khí dưới đất thật tốt và ứng dụng mạnh mẽ mô hình mới có thể thúc đẩy các giải pháp và chính sách giảm thiểu ô nhiễm.

Tôi nghĩ rằng các đồng nghiệp của tôi tại một số trường và Viện đã và đang làm nhưng từ góc độ Nhà nước, tôi chưa thấy thể hiện sự quan tâm này. Trước mắt, nên luận chứng xây dựng, bố trí các điểm quan trắc và chương trình ứng dụng các phương pháp mô hình hóa để dự báo trước 5 ngày ô nhiễm tại Hà Nội. Các biện pháp giảm thiểu đã được chúng tôi đề xuất trong bài báo khoa học gần đây.

Tôi cho rằng phải xây dựng mạng lưới quan trắc không khí dưới đất thật tốt và ứng dụng mạnh mẽ mô hình mới có thể thúc đẩy các giải pháp và chính sách giảm thiểu ô nhiễm.
Giáo sư Bùi Tá Long

Phóng viên: Sau khi nghiên cứu được công bố, rất nhiều người đã cho rằng như vậy ô nhiễm không khí Hà Nội không phải do sử dụng xe máy ở nội đô. Giáo sư có khuyến cáo như thế nào về vấn đề này?

Giáo sư Bùi Tá Long: Cần nhìn nghiên cứu của chúng tôi toàn diện hơn và được minh chứng từ số liệu thực tế. Từ bài báo của chúng tôi có thể thấy vai trò chi phối của khu vực công nghiệp và giao thông trong cơ cấu phát thải tiền chất PM₂.₅ của Hà Nội.

Theo đó, giao thông chỉ đóng góp 34% vào CO (thua ngành công nghiệp 37%), đóng góp rất nhỏ vào BC (7.6%), đóng góp vào NOₓ (17%). Trong khi đó, công nghiệp là nguồn phát thải lớn nhất đối với 3/4 tiền chất quan trọng (OC, BC, NOₓ), cụ thể là đối với CO, công nghiệp cũng đứng đầu (37%), OC (45%), BC (76%), NOx (78.7%).

Giảm phát thải công nghiệp sẽ mang lại hiệu quả lớn nhất trong việc giảm PM₂.₅ toàn thành phố.

Điều này cho thấy các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và hoạt động sản xuất là yếu tố then chốt trong cấu trúc phát thải của Hà Nội. Vì vậy, giảm phát thải công nghiệp sẽ mang lại hiệu quả lớn nhất trong việc giảm PM₂.₅ toàn thành phố.

5 kết luận của bài báo nghiên cứu

  1. PM₂.₅ mùa khô cao hơn mùa mưa do lớp biên thấp, ít mưa, điều kiện khí tượng bất lợi và tăng hoạt động đốt rơm rạ – giao thông – công nghiệp – xây dựng.
  2. CO, OC, BC và NOₓ chiếm 94.38% tổng phát thải, ảnh hưởng đến toàn bộ Hà Nội.
  3. Công nghiệp là nguồn chi phối hầu hết tiền chất (CO 37%, OC 45%, BC 76%, NOₓ 78.7%), trong khi giao thông chỉ đóng góp mạnh vào CO (34%).
  4. HN2 phát thải cao nhất do công nghiệp, giao thông, hạ tầng môi trường yếu và nông nghiệp truyền thống; HN4 giảm phát thải tốt nhờ công nghệ xử lý và năng lượng tái tạo.
  5. PM₂.₅ ở HN1 chủ yếu do vận chuyển liên vùng, vì phát thải tại chỗ không tương quan với PM₂.₅, trong khi HN2–HN3 lại tương quan dương mạnh.

Phóng viên: Ở góc độ chuyên môn, Phó Giáo sư đánh giá các giải pháp ngắn hạn và dài hạn nào là cần thiết nhất để kiểm soát và cải thiện chất lượng không khí một cách bền vững?

Giáo sư Bùi Tá Long: Chúng tôi đã trả lời câu hỏi này trong bài báo khoa học đã được tạp chí có uy tín đăng vào tháng 6/2025.

Biện pháp ngắn hạn (tức thời, ứng phó nhanh): Tăng cường giám sát và cảnh báo, mở rộng mạng lưới quan trắc, công bố dữ liệu AQI theo thời gian thực để người dân chủ động phòng tránh.

Kiểm soát giao thông: Hạn chế xe cá nhân trong giờ cao điểm, khuyến khích sử dụng phương tiện công cộng, kiểm tra khí thải xe cơ giới thường xuyên.

Giảm phát thải từ xây dựng và dân sinh: Che chắn công trình, hạn chế đốt rơm rạ và chất thải nông nghiệp, khuyến cáo sử dụng nhiên liệu sạch trong hộ gia đình.

Cột xả khói Nhà máy Dệt kim Đông Xuân nằm giữa KĐT Vinhomes Times City và VinaHud - Cửu Long.

Cột xả khói Nhà máy Dệt kim Đông Xuân nằm giữa KĐT Vinhomes Times City và VinaHud - Cửu Long.

Cột xả khói Nhà máy Dệt kim Đông Xuân nằm giữa KĐT Vinhomes Times City và VinaHud - Cửu Long.

Yêu cầu các nhà máy giảm công suất hoặc tạm dừng khi vượt ngưỡng phát thải.

Biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng: Khuyến cáo đeo khẩu trang, hạn chế hoạt động ngoài trời khi chất lượng không khí ở mức nguy hại.

Tăng cường kiểm tra công nghiệp: Yêu cầu các nhà máy giảm công suất hoặc tạm dừng khi vượt ngưỡng phát thải.

Biện pháp dài hạn (chiến lược bền vững). Chuyển đổi công nghệ sản xuất. Khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió). Bên cạnh đó cần đánh giá và cải tiến công nghệ đốt nhiên liệu trong công nghiệp (lò hơi, nhà máy).

Cải cách giao thông đô thị. Loại bỏ dần xe máy chạy xăng tại các quận trung tâm. Phát triển metro, xe buýt điện, hạ tầng giao thông xanh.

Quản lý chất thải và môi trường: Xây dựng hệ thống xử lý nước thải, thu gom rác thải hiện đại. Tăng cường thiết bị kiểm soát ô nhiễm tự động trong các khu công nghiệp.

Quy hoạch đô thị xanh: Tăng diện tích cây xanh, hồ nước để hấp thụ bụi mịn và giảm hiệu ứng đảo nhiệt.

Nâng cao nhận thức cộng đồng: Giáo dục, truyền thông về tác hại ô nhiễm không khí, khuyến khích hành vi xanh như tiết kiệm năng lượng, giảm xe cá nhân.

Lộ trình trung và dài hạn: Triển khai các dự án từ giai đoạn 2030-2035 để tối ưu chi phí, lợi ích và hiệu quả môi trường.

Quản lý chất thải và môi trường. (Ảnh: THANH TRÀ)

Quản lý chất thải và môi trường. (Ảnh: THANH TRÀ)

Quy hoạch đô thị xanh. (Ảnh: MINH THU)

Quy hoạch đô thị xanh. (Ảnh: MINH THU)

Phóng viên: Từ góc độ chính sách, ông có những kiến nghị nào dành cho cơ quan quản lý cũng như vai trò mà doanh nghiệp và cộng đồng cần thực hiện để góp phần giảm ô nhiễm không khí?

Giáo sư Bùi Tá Long: Câu hỏi này cũng đã được tôi trả lời ngắn gọn trong bài báo “Phát triển các giải pháp giảm thiểu PM₂.₅ dựa trên phân tích mối quan hệ giữa nồng độ PM₂.₅ và các yếu tố tiền thân: Nghiên cứu điển hình tại Hà Nội, Việt Nam”. (Tạp chí Môi trường Khí quyển châu Á-2025)

Trong đó tôi cũng đề cập đến một số giải pháp cụ thể như:

Đối với cơ quan quản lý Nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý: Ban hành và cập nhật các quy chuẩn khí thải nghiêm ngặt hơn cho công nghiệp, giao thông và xây dựng.

Tăng cường giám sát-chế tài: Mở rộng mạng lưới quan trắc không khí, công bố dữ liệu AQI minh bạch; xử phạt nghiêm các cơ sở vi phạm.

Sáng 24/7, nước ngập sâu khiến các phương tiện không thể đi qua, người dân buộc phải lội nước di chuyển ra ngoài.
Phối hợp với các tỉnh lân cận để kiểm soát nguồn ô nhiễm từ nông nghiệp, công nghiệp và vận tải.
Giáo sư Bùi Tá Long

Quy hoạch đô thị xanh: Tích hợp cây xanh, hồ nước, không gian mở trong quy hoạch để giảm bụi mịn và hiệu ứng đảo nhiệt.

Chiến lược giao thông bền vững: Đẩy nhanh lộ trình loại bỏ xe máy chạy xăng, phát triển metro, xe buýt điện và hạ tầng giao thông công cộng.

Khuyến khích năng lượng sạch: Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, ưu đãi thuế cho công nghệ xanh.

Hợp tác liên vùng: Phối hợp với các tỉnh lân cận để kiểm soát nguồn ô nhiễm từ nông nghiệp, công nghiệp và vận tải.

Vai trò của doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ sản xuất: Đầu tư hệ thống xử lý khí thải, lò hơi tiết kiệm nhiên liệu, và thiết bị kiểm soát tự động. Chuyển đổi năng lượng. Tích hợp năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió) vào hoạt động sản xuất.

Trách nhiệm xã hội: Công khai báo cáo phát thải, tham gia các chương trình giảm thiểu ô nhiễm và hỗ trợ cộng đồng.

Giao thông xanh: Khuyến khích nhân viên sử dụng phương tiện công cộng hoặc xe điện, xây dựng kế hoạch logistics thân thiện môi trường.

Đối với cộng đồng cần thay đổi hành vi tiêu dùng: Giảm sử dụng xe cá nhân, ưu tiên phương tiện công cộng hoặc xe đạp, xe điện.

Giảm phát thải dân sinh: Hạn chế đốt rơm rạ, rác thải; sử dụng nhiên liệu sạch trong nấu nướng và sưởi ấm.

Tham gia giám sát, sử dụng ứng dụng theo dõi chất lượng không khí, phản ánh vi phạm môi trường tới cơ quan chức năng.

Nâng cao nhận thức: Tham gia các chiến dịch truyền thông, giáo dục về tác hại ô nhiễm không khí và lợi ích của lối sống xanh.

Có thể khẳng định để giải bài toán giảm ô nhiễm không khí tại Hà Nội đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ: Nhà nước tạo khung pháp lý và hạ tầng. Doanh nghiệp đổi mới công nghệ và minh bạch phát thải. Cộng đồng thay đổi hành vi và tham gia giám sát. Khi ba bên cùng hành động, Hà Nội mới có thể tiến tới một mô hình đô thị xanh- sạch-bền vững.

Phóng viên: Xin cảm ơn Giáo sư!

Ngày xuất bản: 12/2025
Chỉ đạo: Nguyễn Ngọc Thanh
Tổ chức thực hiện: Hoàng Nhật-Hồng Vân
Nội dung: Thảo Lê-Thanh Trà
Trình bày: Ngọc Diệp
Ảnh: Đắc Huy, Thanh Trà, Báo Nhân Dân

TÌM LỜI GIẢI CHO Ô NHIỄM BỤI MỊN Ở

HÀ NỘI