
Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.
Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.
Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.
Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.


Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.
Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.
"Thế hệ trí thức vàng Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo".
Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.
Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên sinh ngày 16/11/1905 tại Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội).
Năm 29 tuổi (1934) Nguyễn Văn Huyên là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Văn khoa xuất sắc tại Đại học Sorbonne (Paris - Pháp). Trong khoảng 10 năm sau đó, ông đã nghiên cứu và liên tục công bố bằng tiếng Pháp thêm 46 công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa và văn minh Việt Nam.
Sau ngày độc lập, ông đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy giao cho trọng trách Tổng Giám đốc Đại học Vụ kiêm Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ. Ông là thành viên trong Ban cố vấn Hội nghị Đà Lạt và là thành viên trong phái đoàn ta năm 1946 dự Hội nghị Fontaineblaus tại Paris-Pháp.
Năm 1946 ông là Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) và giữ chức vụ này liên tục 28 năm 350 ngày cho đến khi ông qua đời ngày 19/10/1975, hưởng thọ 70 tuổi.
Từ luận án tiến sĩ được bảo vệ tại Đại học Sorbonne (Paris, năm 1934) đến những công trình công bố sau đó, các luận văn dân tộc học - văn hóa học của Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đều thể hiện phương pháp và văn phong khoa học mẫu mực. Các công trình nghiên cứu của ông bao quát nhiều lĩnh vực: Sử học, Dân tộc học, Folklore học, xã hội học...
Những tấm gương văn hóa trong gia đình
Những dịp nghỉ phép, ngày lễ, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên thích đưa gia đình đi thăm các di tích lịch sử, văn hóa ở Hà Nội hay các tỉnh. Từ 11 tuổi, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy đã được ông đưa đến thăm Cổ Loa. Ấn tượng và nhận thức về giá trị của thành cổ này còn giữ đến ngày nay. Ngày tết ông dẫn cả nhà cùng đạp xe đạp thăm Văn Miếu, giảng giải cho tôi nghe về các bia đá ở đó. Ông đưa Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy đến chùa Đậu, Trường Yên-kinh đô Hoa Lư, Pác Bó… Tình yêu đất nước, lịch sử thấm dần từ những chuyến đi như thế.
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên và Phu nhân Vi Kim Ngọc.
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên và Phu nhân Vi Kim Ngọc.
“Bố tôi lại muốn tôi có cái nhìn ra thế giới bằng những cách giáo dục rất tinh tế. Ông khuyến khích tôi chơi tem Việt Nam và các nước. Thư từ trong nước và quốc tế gửi đến ông nhiều, ông cắt góc tem hay thỉnh thoảng ông lại mang cả tập phong bì rỗng về cho tôi để tôi ngâm nước, làm sạch hồ sau tem, phân loại tem. Học được biết bao câu chuyện địa lý, lịch sử, thiên nhiên từ những con tem ấy. Rèn luyện biết bao từ tình kiên trì, cẩn thận khi bảo quản một con tem. Mỗi lần đi nước ngoài ông mang về cho tôi một nắm cát của sa mạc với các Kim Tự Tháp ở Ai Cập, một quả trứng đà điểu ở sa mạc, một bộ quần áo Kazakhstan, một con voi bằng gỗ của Guinea… Giờ đây nghĩ lại mới thấy ông tìm mọi cách cho tôi nhãn quan về thế giới, hiểu thêm về thế giới này” - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy kể lại.
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên và Phu nhân. (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên và Phu nhân. (Ảnh tư liệu)
Bà Vi Kim Ngọc cùng các chị em ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang năm 1951. (Ảnh tư liệu gia đình)
Bà Vi Kim Ngọc cùng các chị em ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang năm 1951. (Ảnh tư liệu gia đình)
Bố tôi tìm mọi cách cho tôi nhãn quan về thế giới, hiểu thêm về thế giới này”
- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên trong thời gian học ở Pháp. (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên trong thời gian học ở Pháp. (Ảnh tư liệu)
Ông cũng kể lại rằng, mẹ ông nhiều lần cho ông đến thăm phòng thí nghiệm ở Bộ môn Ký sinh trùng Đại học Y khoa. “Từ nhỏ tôi đã thấy mẹ tôi cặm cụ nhìn kính hiển vi để vẽ muỗi, vẽ giun, giảng giải cho sinh viên hiểu thế nào về ký sinh trùng. Gần đây hàng trăm bản vẽ thời ấy của mẹ tôi đã được Trung tâm di sản các nhà khoa học sưu tầm. Bà còn hay kể các chuyến đi dã ngoại điều tra muỗi ở ngoại thành Hà Nội, các tỉnh Lạng Sơn, Bạch Long Vĩ, ở đó bà cho muỗi đốt mình để bắt muỗi làm tiêu bản…Tôi từng được bà cho đi cùng về xã xem đoàn điều tra muỗi làm việc thế nào. Không ngờ những chuyến đi với mẹ, với bố thủa ấu thơ đã gieo vào tôi lúc nào tình yêu khoa học, yêu thực tiễn, yêu điền dã”.
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên trong thời gian học ở Pháp năm 1928 (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên trong thời gian học ở Pháp năm 1928 (Ảnh tư liệu)
Cái bóng” của người cha chính là chìa khóa giúp tôi cái gì cũng phải làm tốt và không được làm gì sai phạm ảnh hưởng đến uy tín của Người. “Cái bóng” đó đã giúp tôi giữ mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó chính là giá trị của gia đình
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy cho biết, ông hiểu phương pháp giáo dục của bố mẹ ngay từ đầu là tôn trọng sự lựa chọn của các con. Ông bà không bao giờ can thiệp, không ép các con làm theo ý mình từ việc chọn ngành học, chọn công việc cho tương lai. Việc thi vào Khoa Sử Đại học Tổng hợp năm 1963 hoàn toàn là do ông chọn. Ông chọn vì sức học và sự thích thú của mình và cũng vì ảnh hưởng qua cuộc sống của bố mẹ khi trong nhà có cả một thư viện chuyên ngành. Bố mẹ ủng hộ ông. Và thế là ông tự quyết chọn ngành dân tộc học. Mỗi khi có dịp gặp chủ nhiệm khoa Bùi Văn Hách, các thầy Trần Quốc Vượng, Vương Hoàng Tuyên, Phan Hữu Dật, cha ông đều hỏi về sự tiến bộ của ông.
“Tôi không thấy vấn đề gì khi phải vượt qua “cái bóng” của người cha của mình. Có chăng “cái bóng” của người cha chính là chìa khóa giúp tôi cái gì cũng phải làm tốt và không được làm gì sai phạm ảnh hưởng đến uy tín của Người. “Cái bóng” đó đã giúp tôi giữ mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó chính là giá trị của gia đình” - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy nói.
Tiến sĩ đầu tiên không phải là người Pháp ở trường Đại học Sorbonne
Nguyễn Văn Huyên mồ côi cha khi mới lên tám nhưng mẹ và chị quyết tâm cho “cậu Huyên” đi du học Pháp từ năm 1926. Dù vừa đi học vừa phải dạy học để trang trải trong thời gian học tập ở xứ người, ông lần lượt đậu cử nhân Văn chương năm 1929 rồi đậu cử nhân Luật học năm 1931.
Ngày 17/2/1934, khi mới 26 tuổi, Nguyễn Văn Huyên bảo vệ xuất sắc học vị Tiến sĩ văn khoa tại Đại học Sorbonne (Paris) với đề tài Hát đối của nam nữ thanh niên ở Việt Nam. Cùng với bản luận án chính, ông cũng bảo vệ thành công luận án phụ Nhập môn nghiên cứu nhà sàn ở Đông - Nam Á.
Ông là Tiến sĩ đầu tiên không phải là người Pháp ở trường Đại học danh tiếng này. Giáo sư Vendryès - Chủ tịch Hội đồng chấm luận án, coi đây là “một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Sorbonne”. Trong bản luận án phụ, Nguyễn Văn Huyên cũng là người đầu tiên sử dụng nội hàm “Đông Nam Á như một vùng văn hóa lịch sử”. Hai bản luận án của ông được Nhà xuất bản Paul Geuthner in thành sách và đã thu hút sự quan tâm của những người nghiên cứu khoa học xã hội-nhân văn ở châu Âu khi đó.
Trở về Việt Nam năm 1935, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên không nhận một chức quan của chính quyền thực dân mà đi dạy học và tiếp tục chuyên tâm nghiên cứu tại Trường Viễn Đông Bác Cổ từ năm 1938.
Năm 1941, ông được cử làm Ủy viên thường trực trong Hội đồng khoa học của cơ quan nghiên cứu Đông phương học nổi tiếng này và tiếp tục công bố hàng loạt công trình có giá trị. Từ năm 1934 đến năm 1945, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đã công bố 46 công trình nghiên cứu, hầu hết bằng tiếng Pháp. Các công trình đó vẫn được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tham khảo hoặc trích dẫn dù họ vẫn còn tranh cãi với nhau.
Năm 31 tuổi, Nguyễn Văn Huyên mới cưới vợ. Phu nhân của ông là là tiểu thư Vi Kim Ngọc, con gái Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định.
Ông bà có 4người con, 3 gái và 1 con trai út. Con gái đầu là Nguyễn Kim Nữ Hạnh (1937-2010) hay Nguyễn Nữ Hạnh, nguyên là kỹ sư Thông tin của Tổng cục Đường sắt Việt Nam, tác giả cuốn hồi ký “Tiếp bước chân cha”.
Con gái thứ hai là Nguyễn Kim Bích Hà (hay Nguyễn Bích Hà) là Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Hiệu trưởng Trường dân lập Nguyễn Văn Huyên - Hà Nội.
Con gái thứ ba là Nguyễn Kim Nữ Hiếu (hay Nguyễn Nữ Hiếu) là Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc Nhân dân, nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Chồng bà là Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân Dũng.
Thứ tư là con trai út Nguyễn Văn Huy, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Giám đốc - Người sáng lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Hiện nay ông là người sáng lập Giám đốc Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên ở thôn Lai Xá.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên thăm trường Đại học Vinh, Nghệ An, năm 1959.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên thăm trường Đại học Vinh, Nghệ An, năm 1959.
Người đặt nền móng cho ngành văn hóa học Việt Nam
Giám đốc Trường Viễn Đông Bác Cổ thời đó Georges Coedès đã viết về Nguyễn Văn Huyên với lòng cảm phục: “Cùng với sự đào tạo đại học vững chắc mà ông đã nhận được ở Pháp tại Khoa Văn và Khoa Luật của Đại học Paris, ông Nguyễn Văn Huyên còn có ưu thế vô song là nắm được các sự kiện xã hội Việt Nam bằng kinh nghiệm bản thân và bẩm sinh, có khả năng tiếp cận trực tiếp và tức thì với chất liệu xã hội học và có thể đi sâu tiến hành những khảo sát mà những nhà nghiên cứu châu Âu không thể nào thực hiện nổi. Những con chủ bài đó đã cho phép ông tiến hành và hoàn thành tốt đẹp nhiều nghiên cứu về đời sống tôn giáo, tinh thần, xã hội của dân quê Việt Nam”.
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên cùng vợ và các con. (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên cùng vợ và các con. (Ảnh tư liệu)
Chỉ riêng trong lĩnh vực Folklore, những nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đã soi rọi từ các nhà sàn truyền thống đến lịch sử một làng, từ họ hàng kiểu Việt đến một vị thành hoàng, từ một phường hát múa trong lễ hội Gióng đến những làn điệu dân ca ví đối gái trai, từ tín ngưỡng Thần nước đến Đạo thần tiên, từ mẫu Liễu đến Đạo nội dân gian...
Ông đi từ sự miêu tả cụ thể, tỉ mỉ, chính xác từng sự kiện văn hoá-nhân văn đến những khái quát khoa học về thể loại dân ca, về cội nguồn dân tộc, và cái đích hướng đến của ông là làm sáng tỏ về nền văn minh Việt Nam trong bối cảnh đất nước còn đang bị đô hộ theo kiểu thực dân, đang bị nước Pháp “khai hóa văn minh”.
Nhiều nhà nghiên cứu hôm nay còn được học ở ông nhiều điều về phương pháp luận và các phương pháp tiếp cận những sự kiện nhân văn, vừa cụ thể vừa tổng thể. Ông đi sâu miêu tả những điều cụ thể cho những người không được đi điền dã tận nơi và quan sát trực tiếp như mình. Điều này đặc biệt có giá trị khi sự kiện/đường nét văn hóa dân gian ấy đã mất đi hay đã bị biến đổi do thời gian và thời đại.
Giáo sư Hà Văn Tấn nhận định: “Nguyễn Văn Huyên đã nổi tiếng ngay với các công trình đầu tiên, trong đó tập “Hát đối đáp của nam nữ thanh niên ở Việt Nam” đã giới thiệu cho thế giới một khía cạnh của tâm hồn và văn hóa Việt Nam”.
Giáo sư Trần Quốc Vượng đáng giá ngắn gọn và tổng quát: “Nguyễn Văn Huyên – Nhà khoa học nhân văn lớn và hiện đại”.
Ông nghiên cứu về tục thờ cúng thần tiên, thờ thành hoàng ở Việt Nam, lễ hội Phù Đổng, các bài cúng trong lễ tế Nam Giao, những khúc ca đám cưới người Tày ở Lạng Sơn và Cao Bằng, sự ra đời của Nội Đạo Tràng ở Việt Nam, tết Trung thu, tết Đoan ngọ, lễ xá tội vong nhân, tiết thanh minh và việc giữ gìn mồ mả.
Nguyễn Văn Huyên cho rằng “môn học cổ điển Á Đông phải được phổ cập ở bậc trung học”. Ông cũng đánh giá cao vai trò của tầng lớp sĩ phu trong xã hội Việt Nam xưa.
Năm 1944, khi trả lời phỏng vấn báo Tri Tân, ông khẳng định những giá trị và sự cần thiết phải bảo tồn Văn Miếu - Quốc Tử Giám: "Theo ý tôi có hai cách, một là sửa sang khu Văn Miếu cho có vẻ mỹ quan, lẽ cố nhiên nên theo quan điểm Á Đông, tu bổ các nhà văn của Văn Miếu làm thành một cái thư viện cho cả nước, thu thập hết thảy các sách bằng chữ Nho, Quốc ngữ và tiếng ngoại quốc nói về Á Đông và có quan hệ đến nền quốc học nước ta. Cách thứ hai là làm Văn Miếu như xưa thành một giảng đài, cho các bậc cựu học và tân học đủ tín nhiệm đến đó giảng về các bậc tiên hiền thờ trong Văn Miếu vì tôi xét nhiều người không biết Văn Miếu là thế nào và thờ những ai".
Từ năm 1938, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đã hoàn thành tập sách "Hội Phù Đổng" bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Hà Nội. Cuốn sách này, sang đến những năm đầu thế kỷ XXI vẫn là tư liệu cơ bản để các cơ quan chức năng Việt Nam nghiên cứu lập hồ sơ đề nghị và được UNESCO ghi danh Hội Gióng đền Phù Đổng là Di sản văn hóa đại diện của nhân loại.
Gần đây các công trình của Giáo sư Nguyễn Văn Huyên viết bằng tiếng Pháp mới được dịch ra tiếng Việt và năm 2000-2001 đã được Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản thành bộ sách Nguyễn Văn Huyên toàn tập, trong đó hai tập đầu dành cho các công trình nghiên cứu khoa học xã hội.
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên là người khai mở đặt nền móng cho ngành văn hóa học Việt Nam. Từ năm 1944, ông đã cho độc giả, nhất là độc giả phương Tây, biết rằng nhân dân Việt Nam đã phát triển nền văn hóa đặc sắc riêng của mình. Ông khẳng định người Việt Nam có tín ngưỡng riêng biệt của mình. Với niềm tự hào thâm trầm và sâu sắc, ông đặt tên công trình nghiên cứu của mình là Văn minh Việt Nam - để đối sánh, ngang hàng với công trình Văn minh Trung hoa (La civilisation chinoise, 1929) của Marcel Granet xuất bản trước đó.
Nguyễn Văn Huyên – Nhà khoa học nhân văn lớn và hiện đại
Một tri thức tiêu biểu, một nhà giáo cách mạng
Kết luận tổng quát rút ra từ tất cả các công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Văn Huyên nêu bật sức sống dân tộc Việt Nam qua sự lao động sáng tạo của mình, đã "tự tạo lấy cuộc sống của riêng mình", "không chịu sao chép" của bất cứ ai (Văn minh Việt Nam, 1944). Kết luận khoa học đầu tiên về văn hóa Việt Nam đó đã nói lên tinh thần dân tộc, khí phách Việt Nam. Đó cũng là tâm hồn, tình cảm của nhà khoa học Nguyễn Văn Huyên. Điều đó làm cho cuộc đời ông gắn liền với vận mệnh của đất nước, sự nghiệp của ông phục vụ nhân dân, đưa ông đến với cách mạng.
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên là một trí thức yêu nước tiêu biểu, một nhà giáo của cách mạng. Ông là nhà khoa học đi tiên phong trong lĩnh vực khoa học xã hội-nhân văn của Việt Nam từ nửa đầu thế kỷ XX. Các công trình nghiên cứu của ông có giá trị khai mở - cho hậu thế, đến hôm nay và mai sau.
Với tấm lòng yêu nước nồng nàn, từ năm 1938, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đã tham gia vào Ban trị sự Hội truyền bá Quốc ngữ được Xứ ủy Bắc kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo thành lập tháng 5/1938. Tháng 8/1945, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên cùng các trí thức ở Hà Nội ký tên trong bức điện yêu cầu Bảo Đại thoái vị, trao quyền lãnh đạo đất nước cho Việt Minh. Sau Ngày Độc lập, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên được cử làm Tổng Giám đốc Đại học vụ, Bộ Quốc gia Giáo dục và kiêm Giám đốc Viện Bác Cổ.
Ba gia đình các giáo sư Nguyễn Văn Huyên, Tôn Thất Tùng và Hồ Đắc Di ở Phú Thọ, năm 1948.
Ba gia đình các giáo sư Nguyễn Văn Huyên, Tôn Thất Tùng và Hồ Đắc Di ở Phú Thọ, năm 1948.
Ngày 15/11/1945, lễ khai giảng năm học đầu tiên của Đại học Quốc gia Việt Nam đã được tổ chức long trọng tại hội trường lớn ở 19 Lê Thánh Tông (Hà Nội). Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân là chủ tọa.
Trong buổi lễ mang ý nghĩa lịch sử trang trọng ấy, Tổng Giám đốc Đại học vụ Nguyễn Văn Huyên đọc diễn văn với những lời tâm huyết: "Trong buổi lễ hôm nay, anh em giáo sư và sinh viên chúng tôi muốn tỏ rõ cho thế giới biết rằng trong giờ phút nghiêm trọng của tiền đồ Tổ quốc này, dân tộc Việt Nam, ngoài công cuộc đấu tranh bằng xương máu trên chiến địa cũng nỗ lực tham gia vào công cuộc tiến triển văn hoá của nhân loại. Chúng tôi muốn rằng nền đại học mới này là một lực lượng mạnh trong những lực lượng của Việt Nam. Chúng tôi muốn nó làm một thành lũy để trường kỳ kháng chiến phục hồi hoàn toàn lãnh thổ, và giải phóng tinh thần cho dân tộc chúng tôi là một dân tộc văn hiến có ngoài nghìn năm lịch sử độc lập và đã tự gây nên một nền văn minh đặc sắc trên ven bể Thái Bình Dương này".
Đó cũng như lời tuyên ngôn về sứ mệnh và tôn chỉ của nền giáo dục đại học Việt Nam trong thế kỷ XX.
Ghi nhận những cống hiến
Tháng 11/1946, tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa 1, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên được cử làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Ông đã liên tục đảm nhiệm cương vị này gần 30 năm cho đến khi mất ngày 19/10/ 1975.
Tên tuổi Giáo sư Nguyễn Văn Huyên gắn liền với sự nghiệp giáo dục Việt Nam trong thời đại giành và bảo vệ Độc lập - Tự do. Ông đã có nhiều đóng góp chấn hưng nền giáo dục, văn hóa của nước nhà. Ông là đại biểu Quốc hội các khoá II, III, IV, V. Ông đã đảm nhiệm nhiều cương vị: Ủy viên Ủy ban Kiến thiết quốc gia, Ủy viên Ủy ban Khoa học Nhà nước, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Ông là tấm gương sáng về nhân cách, về đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của một nhà khoa học hàng đầu, nhà giáo mẫu mực và một Bộ trưởng lâu năm nhất, có nhiều cống hiến cho nền giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Năm 2000, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ.
Một đường phố ở Thủ đô Hà Nội và một đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh được mang tên ông.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được đặt trên đường Nguyễn Văn Huyên ở Hà Nội.
Ở Lai Xá (xã Hoài Đức, Hà Nội) có Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên do chính con trai ông – Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy, xây dựng và điều hành.
Tên Giáo sư Nguyễn Văn Huyên còn được đặt cho một trường phổ thông cơ sở ở quê nội của ông và một trường dân lập trong nội thành Hà Nội.
Đó là sự ghi nhận những cống hiến của một một nhà khoa học lớn, một nhân cách lớn.

Ngày xuất bản: 8/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - HỒNG VÂN
Thực hiện: VƯƠNG ANH - LINH KHÁNH
Trình bày: NGỌC DIỆP - HÀ CHI
Ảnh: Tư liệu gia đình
E-Magazine I nhandan.vn