CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - BƯỚC HOÀN THIỆN CÁCH ĐÁNH TẬP ĐOÀN CỨ ĐIỂM

Các đơn vị bộ binh cơ giới đang chuẩn bị xuất phát đưa quân vào Điện Biên Phủ

Các đơn vị bộ binh cơ giới đang chuẩn bị xuất phát đưa quân vào Điện Biên Phủ

Từ năm 1951, quân Pháp tiến hành hình thái phòng ngự tập đoàn cứ điểm, nhằm đối phó trước sự tiến công mạnh mẽ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ khi hình thái phòng ngự tập đoàn cứ điểm của quân Pháp xuất hiện, bộ đội ta đã tổ chức đánh và dày công nghiên cứu, tìm cách đánh phù hợp, hiệu quả. Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật.

Trân trọng giới thiệu tham luận của Đại tá, TS Trần Văn Thức - Nguyên chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Pháp, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tại Hội thảo khoa học với chủ đề: “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954 - 7/5/2019)” do Bộ Quốc phòng phối hợp với Tỉnh ủy Điện Biên tổ chức nhân kỷ niệm 65 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Tập đoàn cứ điểm bao gồm hệ thống các cứ điểm, cụm cứ điểm hoặc các khu vực phòng ngự, phòng thủ được thiết kế, xây dựng liên kết, chặt chẽ, hỗ trợ nhau theo ý định, kế hoạch thống nhất; có tác dụng phòng thủ một khu vực trọng yếu, thực hiện chia cắt, ngăn chặn hoặc hạn chế cơ sự cơ động lực lượng tác chiến của đối phương và là bàn đạp để mở các cuộc tiến công ra các khu vực do đối phương kiểm soát; đồng thời là nơi để co cụm binh lực khi bị đối phương tiến công, hoặc tung lực lượng ra phản công khi đối phương rút lui. Tùy vào vị trí, vai trò, tính chất, nhiệm vụ, Tập đoàn cứ điểm có quy mô tổ chức lực lượng lớn nhỏ khác nhau.

Hình thức phòng ngự tập đoàn cứ điểm đã được quân Pháp sử dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) và đã chiến thắng quân Đức ở Vécdoong (Verdun - 12/2016).

Ở Đông Dương, từ cuối 1950, trước sự lớn mạnh và phát triển về mọi mặt của cách mạng Việt Nam, quân Pháp đã phải sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn quân sự, chính trị và hình thức, biện pháp tác chiến để đối phó.

Hình thức phòng ngự tập đoàn cứ điểm xuất hiện ở Hòa Bình (1951) và ở Nà Sản (Sơn La, cuối năm 1952) với quy mô nhỏ, công sự trận địa dã chiến.

Tại Tập đoàn cứ điểm Nà Sản, địch có 8 tiểu đoàn bộ binh và dù, 1 tiểu đoàn pháo, 8 đại đội độc lập, 1 đại đội công binh, được tổ chức thành một tập đoàn cứ điểm gồm 24 điểm tựa cấp đại đội và 4 điểm tựa cấp trung đội trên các điểm cao ở giữa có sân bay, trận địa pháo và sở chỉ huy.

Lợi dụng các điểm cao, quân Pháp hình thành 2 vành đai phòng ngự. Vành đai phía trong bao quanh sở chỉ huy, trận địa pháo, sân bay, kho tàng, nối với nhau bằng hào giao thông. Vành đai ngoài gồm 7 cứ điểm, bố trí trên các đồi cách xa trung tâm ở cự ly ngoài tầm hỏa lực súng cối 81mm. Các cứ điểm có thể chi viện hỗ trợ cho nhau và được tiếp tế bằng máy bay.

Trong đợt 3 chiến dịch Tây Bắc (14/10 - 10/12/1952), đêm 30/11 và đêm 1/12/1952), Đại đoàn 308 sử dụng Tiểu đoàn 115 thuộc Trung đoàn 165 tiến công cứ điểm Bản Hời; đồng thời Trung đoàn 102 và một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 88 tiến công cứ điểm Pú Hồng. Sau 7 giờ chiến đấu bộ đội ta chiếm được cứ điểm Bản Hời, nhưng bị thương vong nhiều. Ngày hôm sau quân Pháp huy động máy bay ném bom, pháo binh bắn phá, chi viện bộ binh xung phong, chiếm lại vị trí Bản Hời. Đêm 1/12/1952, Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) tiến công cứ điểm Bản Vây; Trung đoàn 174 (Đại đoàn 316) và 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 88 (Đại đoàn 318) tiến công vị trí Nà Si nhưng không thành công. Trong ngày 2/12/1952, quân Pháp sử dụng máy bay ném bom; pháo binh bắn phá vào đội hình quân ta gây thương vong lớn (hơn 1.200 cán bộ chiến sĩ).

Như vậy, trong hai đêm (30/11 và 1/12/1952) các đơn vị thuộc 3 đại đoàn (308, 312, 316), tiến công 4 cứ điểm thuộc Tập đoàn cứ điểm Nà Sản không thành công. Trước tình thế đó, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định ngừng tiến công địch ở Nà Sản và kết thúc chiến dịch Tây Bắc.

Một trong những nguyên nhân dẫn tới việc quân ta tiến công tập đoàn cứ điểm Nà Sản không thành công là do cách đánh tiến công tập đoàn cứ điểm. Qua diễn biến của 4 trận tiến công vào 4 cứ điểm thuộc tập đoàn cứ điểm Nà Sản, có thể thấy hạn chế của bộ đội ta trong cách đánh tập đoàn cứ điểm thể hiện ở một số vấn đề, mà nổi lên là về phương án đánh địch; tổ chức lực lượng, trang bị vũ khí; thời gian tiến hành tiến công (2 đêm), bố trí trận địa; phối hợp tác chiến, v.v.

Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì: “Nguyên nhân chính là do những cứ điểm này nằm trong hệ thống cấu trúc chặt chẽ của tập đoàn cứ điểm. Người Pháp coi đây là một hình thức ngăn chặn mới. Muốn đánh bại chiến lược này, cần phải có thời gian”[1].

Hình ảnh quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ (1953)

Hình ảnh quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ (1953)

Đến Đông Xuân 1953-1954, tại Điện Biên Phủ, quân Pháp xây dựng một tập đoàn gồm 49 cứ điểm, được tổ chức thành 8 cụm cứ điểm - trung tâm đề kháng - liên hoàn với nhau. Mỗi cứ điểm, cụm cứ điểm là một khu vực phòng ngự, có hệ thống công sự vững chắc, hệ thống vật cản (hàng rào, bãi dây thép gai, bãi mìn), với lực lượng phòng ngự và lực lượng cơ động, hỏa lực mạnh. Các cụm cứ điểm liên kết với nhau thành 3 phân khu (Bắc, Trung tâm, Nam).

Phân khu trung tâm gồm 5 cụm cứ điểm bao bọc cơ quan chỉ huy tập đoàn cứ điểm, có các căn cứ hỏa lực, căn cứ hậu cần.

Phân khu Bắc gồm 2 cụm cứ điểm.

Các phân khu Trung tâm và Nam có các trận địa pháo, các sân bay (Mường Thanh, Hồng Cúm) bảo đảm sự chi viện tiếp tế bằng đường không.

Lực lượng quân Pháp, trước ngày ta nổ súng mở đầu chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3/1953) gồm 12 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 2 tiểu đoàn pháo 105mm (24 khẩu), 1 đại đội pháo 155mm (4 khẩu), 2 tiểu đoàn súng cối 120mm (20 khẩu), 1 đại đội xe tăng 18 tấn (10 chiếc) và một phi đội không quân 17 chiếc (7 khu trục, 5 trinh sát, 4 vận tải, 1 trực thăng).

Cùng với đó, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ còn được chi viện bằng đường không bởi các sân bay ở Hà Nội và Hải Phòng.

Trong quá trình diễn biến Chiến dịch Điện Biên phủ (13/3 - 7/5/1954), quân Pháp liên tục tăng cường lực lượng cho Tập đoàn cứ điểm Điện Biên phủ, đưa tổng quân số lúc cao điểm lên hơn 16 nghìn quân.

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là hệ thống phòng ngự mạnh nhất của quân đội Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, được các tướng Pháp, Mỹ đánh giá là “một Vecđoong ở châu Á”, “Nà Sản lũy thừa 10”, “pháo đài bất khả xâm phạm”, đã bị quân và dân Việt Nam tiêu diệt hoàn toàn trong Chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3 – 7/5/1954).

Thắng lợi của quân và dân Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, mà một trong số đó là từ cách đánh - nghệ thuật quân sự. Có thể nói chiến thắng Điện Biên Phủ là bước hoàn thiện cách đánh tập đoàn cứ điểm. Cụ thể là:

Thứ nhất, sử dụng binh lực lớn, mạnh, thực hiện phương châm “đánh chắc, tiến chắc”

Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch lớn nhất về mọi phương diện trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Là chiến dịch tiến công vào tập đoàn cứ điểm - hình thức phòng ngự mạnh nhất của quân Pháp lúc bấy giờ. Bởi vậy để bảo đảm “đánh chắc thắng”, ta đã xác định phương án tác chiến đúng đắn.

Theo đó, ta huy động tối đa binh lực hiện có. Riêng bộ đội chủ lực, ta huy động 5 trong tổng số 7 đại đoàn hiện có lúc bấy giờ, bao gồm 4 đại đoàn bộ binh là 308, 312, 316, 304 (thiếu), 1 đại đoàn công - pháo (công binh-pháo binh) 351. Tổng số bộ đội chủ lực khoảng 40.000 người, tính cả tuyến hai lên tới 55.000 người. Lực lượng phục vụ chiến dịch lên tới hơn 261.500 người với 628 ô-tô vận tải, 21.000 xe đạp thồ, cùng nhiều phương tiện khác (tàu, thuyền, ngựa).

So sánh đơn thuần về quân số ở Điện Biên Phủ, ta đông gấp bội so với địch (40.000/ 16.000), nhưng chúng lại được bảo vệ bởi hệ thống công sự trận địa vững chắc, liên hoàn; về hỏa lực và phương tiện chiến tranh thì quân Pháp có ưu thế hơn ta về đạn pháo và ưu thế tuyệt đối về máy bay và xe tăng.

Về cách đánh, ngày 14/1/1954, Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ đã quyết định thực hiện phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh” trong thời gian 2 ngày 3 đêm. Phương án này gần giống với cách đánh Tập đoàn cứ điểm Nà Sản cuối năm 1952, nhưng về quy mô, lực lượng thì lớn và mạnh hơn nhiều. Với cách đánh đó ta đã không thành công trong các trận tiến công ở Tập đoàn cứ điểm Nà Sản.

Theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” thì vào ngày 26/1/1954 bộ đội ta sẽ nổ súng mở đầu cuộc tiến công. Nhưng đến cận kề giờ thời điểm đó, qua theo dõi tình hình, Bộ chỉ huy chiến dịch thấy địch tăng cường thêm binh lực và củng cố công sự trận địa cho Điện Biên Phủ, do vậy nếu thực hiện “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sẽ không chắc thắng.

Sau nhiều tính toán, cân nhắc, suy nghĩ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch thấy rằng : “không thể đánh theo kế hoạch đã định (tức “đánh nhanh, giải quyết nhanh” - T.V.T). Nếu đánh là thất bại”[2] .

Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến

Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến

Tại cuộc họp Đảng ủy Mặt trận khẩn cấp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Theo đó, hoãn cuộc tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào ngày 26/1/1954, bộ đội trên toàn tuyến trước được lệnh lui về vị trí tập kết, kéo pháo ra, thực hiện công tác chuẩn bị theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”.

Thực hiện phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, ta tăng cường thêm lực lượng bộ binh và pháo binh nhằm đảm bảo ưu thế cả về binh lực, hỏa lực; bố trí lại trận địa pháo binh và pháo cao xạ; xây dựng trận địa tiến công của bộ binh và trận địa cho pháo binh bảo đảm chiến đấu dài ngày, chống bom, pháo của địch, tuyệt đối giữ bí mật việc ta chuẩn bị đưa pháo binh và pháo cao xạ 37mm; tổ chức huấn luyện kỹ thuật, xây dựng trận địa tiến công dưới tầm hỏa lực địch; kỹ thuật, chiến thuật đánh chiến hào, giao thông hào, đánh địch phản kích trận địa,v.v, cho bộ binh; bảo đảm cấp dưỡng để tăng cường và duy trì sức mạnh của bộ đội cũng như việc bổ sung quân số, trang bị, vũ khí để đảm bảo chiến đấu liên tục, dài ngày; đồng thời giải quyết tốt công tác chính trị tư tưởng cho bộ đội.

Theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bằng một chiến dịch tiến công trận địa có quy mô lớn gồm một loạt trận đánh địch trong công sự vững chắc; tiếp diễn trong một thời gian dài.

Theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bằng một chiến dịch tiến công trận địa có quy mô lớn gồm một loạt trận đánh địch trong công sự vững chắc; tiếp diễn trong một thời gian dài.

Đến ngày 13/3/1954, bộ đội ta mới nổ súng, mở đầu chiến dịch, tức là chậm hơn một tháng rưỡi so với phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.

Triển khai phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, từ ngày 13 đến ngày 17/3/1954, ta tập trung binh hỏa lực mạnh tiến công, đánh vào các cụm cứ điểm quan trọng thuộc Phân khu Bắc, đánh bại biện pháp phòng ngự từ xa bằng cụm cứ điểm của địch, đưa thế trận áp sát Phân khu Trung tâm, uy hiếp sân bay Mường Thanh.

Tiếp đó Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ huy các đơn vị tăng cường thế trận bao vây, áp sát địch, xây dựng, củng cố hệ thống giao thông hào, tiến hành đợt 2 chiến dịch trong suốt cả tháng 3 năm 1954.

Theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, các đơn vị tham gia chiến dịch tiến hành xây dựng trận địa bao vây địch, lần lượt tiến công tiêu diệt các cứ điểm, cụm cứ điểm trong từng trận đánh, đồng thời bộ đội ta tổ chức bám trụ trận địa, đánh bại các cuộc phản kích của địch.

“Đánh chắc, thắng chắc” được thể hiện bằng nhiều biện pháp sáng tạo: tiêu diệt từng cứ điểm, cụm cứ điểm, triệt phá cụm cứ điểm vòng ngoài, phá thế phòng ngự có chiều sâu của địch, tạo thế trận có lợi cho ta, từ đó tiến công vào khu vực trọng yếu nhất của địch. Bằng hệ thống trận địa giao thông hào được xây dựng dày đặc và liên hoàn, ta đã hạn chế được uy lực vũ khí bộ binh, pháo binh, máy bay của địch.

Dựa vào công sự trận địa, hào giao thông, bộ đội ta thực hiện tiến công và bao vây áp sát địch, đồng thời sử dụng súng máy, pháo phòng không tổ chức bắn máy bay, khống chế và cắt đứt việc tiếp tế bằng đường không - đường tiếp tế duy nhất của địch - dồn quân địch vào thế cô lập, suy yếu về binh lực toàn diện.

Với phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, chiến dịch diễn ra trong thời gian 56 ngày đêm, qua 3 đợt.

Đợt 1 (13 đến 17/3), ta tiến công tiêu diệt 2 cụm cứ điểm (Him Lam, Độc Lập) bức hàng cứ điểm Bản Kéo; đập tan hệ thống tiền tiêu của địch ở phía Bắc, Đông Bắc, tạo điều kiện thuận lợi, đưa lực lượng áp sát Khu Trung tâm.

Đợt 2 (từ 30/3 đến 30/4), bộ đội ta tiến công đánh chiếm các cứ điểm ở dãy đồi phía Đông và sân bay Mường Thanh, siết chặt vòng vây, tạo thế cho tổng công kích.

Đợt 3 (1 đến 7/5), ta tiến công đánh chiếm các cứ điểm cuối cùng ở phía Đông, tiến hành tổng công kích, tiêu diệt và bắt sống hoàn toàn quân địch ở Điện Biên phủ.

Thứ hai, khai tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, trình độ cao.

Trước chiến dịch Điện Biên Phủ, tác chiến hợp đồng binh chủng đã được thực hiện trong một số chiến dịch, song với lực lượng và quy mô nhỏ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, hợp đồng tác chiến binh chủng đã đạt quy mô lớn, trình độ cao.

Với lực lượng bộ binh có tới 4 đại đoàn (308, 312, 316, 304 (thiếu); 1 pháo binh, công binh (Đại đoàn 351) gồm Trung đoàn Pháo binh 45 có 2 tiểu đoàn pháo 105mm (24 khẩu); Trung đoàn sơn pháo 675 có 5 đại đội sơn pháo 75mm (15 khẩu), Trung đoàn pháo phòng không 367 có 2 tiểu đoàn pháo phòng không 37mm (24 khẩu) và 2 đại đội súng máy phòng không 12,7mm (24 khẩu), 1 tiểu đoàn ĐKZ, 1 tiểu đoàn hỏa tiễn (H6), Bộ Chỉ huy chiến dịch đã tổ chức tác chiến hợp đồng binh chủng chặt chẽ, hiệu quả, thể hiện sự bước tiến mới của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Biểu hiện cụ thể là sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ binh, pháo binh (lựu pháo, sơn pháo, hỏa tiễn H6), súng máy 12,7mm, pháo phòng không 37mm; giữa tiến công các cứ điểm, cụm cứ điểm với đánh địch phản kích; bảo vệ mục tiêu đã chiếm; bảo vệ trận địa tiến công bao vây; giữa các trận tiến công tiêu diệt lớn với tác chiến tiêu hao rộng rãi, thường xuyên, liên tục của lực lượng đánh lấn, bắn tỉa, luồn sâu đánh hiểm,v.v.

Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị xung kích, các chiến sĩ cao xạ pháo đang đánh trả quyết liệt máy bay địch ở Điện Biên Phủ

Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị xung kích, các chiến sĩ cao xạ pháo đang đánh trả quyết liệt máy bay địch ở Điện Biên Phủ

Hiệp đồng binh chủng giữa bộ binh, pháo binh, pháo cao xạ, công binh được thể hiện rõ nét trong các trận đánh vào các trung tâm đề kháng, các cụm cứ điểm (Đồi Độc Lập, Him Lam, khu phòng ngự dãy đồi phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh, v.v).

Các trận đánh hiệp đồng binh chủng đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, hạn chế được những ưu thế của địch, nhất là về xe tăng và máy bay. Súng máy, pháo phòng không bắn máy bay; pháo binh bắn phá sân bay làm hư hại đường băng, phá hủy máy bay; bộ binh bao vây, áp sát, chiếm sân bay làm cho cầu tiếp tế đường không của địch bị vô hiệu hoàn toàn, cắt nguồn tiếp tế duy nhất cho quân địch ở Điện Biên Phủ.

Thứ ba, thực hiện các chiến thuật và vận dụng linh hoạt, sáng tạo cách đánh, thủ đoạn chiến đấu

Trong suốt quá trình diễn biến chiến dịch, Bộ chỉ huy chiến dịch đã nghiên cứu, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các hình thức đánh công kiên, phòng ngự, phản kích, truy kích sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với từng trận đánh, từng đợt chiến đấu và toàn chiến dịch; đồng thời chỉ đạo thực hiện thành công một số hình thức chiến thuật mới như phòng ngự trận địa, đánh lấn.

Sự phát triển của chiến thuật, trước hết thể hiện ở các trận công kiên (Him Lam, Độc Lập...). Về quy mô đã lên đến cấp đại đoàn, đánh hiệp đồng binh chủng, tiến công cụm cứ điểm; cùng với đó, trong các trận đó để hạn chế hỏa lực pháo binh, cơ giới và không quân địch, ta đã xây dựng trận địa xuất phát tiến công vững chắc, tạo điều kiện cho bộ binh triển khai và vận động tiến công dưới hỏa lực địch; bố trí pháo binh ở những trận địa kiên cố, thực hành bắn chuẩn bị, chi viện và chế áp pháo binh địch, tạo điều kiện cho bộ binh xung phong.

Với trận địa xuất phát tiến công vững chắc, khi thực hành chiến đấu có pháo binh, cao xạ yểm trợ, do vậy trong các trận công kiên ở Điện Biên Phủ, bộ đội ta chiến đấu được cả vào ban ngày (trước đó ta chỉ đánh vào ban đêm).

Các chiến sĩ xung kích của ta đang cắt các hàng rào dây thép gai mở đầu cho cuộc tiến công vào các vị trí địch ở khu đồi C

Các chiến sĩ xung kích của ta đang cắt các hàng rào dây thép gai mở đầu cho cuộc tiến công vào các vị trí địch ở khu đồi C

Trong các trận chiến đấu phòng ngự trận địa (Đồi C1, A1, Sân bay Mường Thanh,v.v.), ta đã triệt để lợi dụng địa hình, xây dựng trận địa, bố trí, tổ chức lực lượng hợp lý; xác định kế hoạch đánh địch trên từng hướng, hiệp đồng chặt chẽ với pháo binh và các đơn vị phối hợp đánh địch phản kích.

Trong từng hình thức chiến thuật, bộ đội ta đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo cách đánh, thủ đoạn chiến đấu. Cụ thể là: đột phá kết hợp với thọc sâu chia cắt; đột phá chính diện kết hợp với vu hồi, phản kích đánh địch đột nhập trận địa; đánh địch phản kích có sự yểm trợ của xe tăng bằng hỏa lực pháo binh với bộ binh; bao vây bằng trận địa chiến hào kết hợp với binh lực, hỏa lực; bắn tỉa,v.v. Đó là những nét mới; sáng tạo trong chỉ đạo và tổ chức, thực hiện các hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu của ta trong tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Tóm lại, từ năm 1951, quân Pháp tiến hành hình thái phòng ngự tập đoàn cứ điểm, nhằm đối phó trước sự tiến công mạnh mẽ của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Từ khi hình thái phòng ngự tập đoàn cứ điểm của quân Pháp xuất hiện, bộ đội ta đã tổ chức đánh. Sau các trận tiến công vào tập đoàn cứ điểm Nà Sản (cuối tháng 11, đầu tháng 12/1952) không thành công, Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh đã dày công nghiên cứu, tìm cách đánh phù hợp, hiệu quả. Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật.

Về nghệ thuật chiến dịch nổi lên là: Đã xác định phương châm và cách đánh chiến dịch đúng đắn, tạo ưu thế, thế trận vững chắc bảo đảm sự chắc thắng cho từng trận đánh trong điều kiện địch có ưu thế về hỏa lực, xe tăng và máy bay; triển khai và thực hiện tác chiến hợp đồng binh chủng (bộ binh, pháo binh, pháo phòng không); xây dựng trận địa tiến công và bao vây, tạo và nắm thời cơ; phát triển chiến thuật đánh địch trong công sự vững chắc, v.v.

Về chiến thuật, đó là: Vận dụng thành công cách thức chiến đấu, tiến công trận địa bằng sự hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ binh và pháo binh; vừa vây lấn vừa tiến công, đánh chiếm các cứ điểm, cụm cứ điểm, vừa phòng ngự, bám trụ đánh địch phản kích, tạo bàn đạp đánh chiếm các mục tiêu tiếp theo. Kết hợp tác chiến giữa tiến công và phòng ngự là hình thức tác chiến mới, biểu hiện sự phát triển linh hoạt sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.

Các đơn vị xung kích đang tiến vào khu trung tâm

Các đơn vị xung kích đang tiến vào khu trung tâm

Đại tá, TS Trần Văn Thức - Nguyên chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Pháp, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

Tham luận tại Hội thảo khoa học với chủ đề: “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954 - 7/5/2019)” do Bộ Quốc phòng phối hợp với Tỉnh ủy Điện Biên tổ chức nhân kỷ niệm 65 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

[1] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr 343

[2] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Quyết định khó khăn nhất, Báo Nhân Dân chủ nhật, ngày 8/5/1989.


Trình bày: MINH ĐỨC
Ảnh: THÀNH ĐẠT, TTXVN