Chiến dịch Bình Giã – chiến dịch đầu tiên của bộ đội chủ lực trên chiến trường miền nam

Đơn vị chiến thắng trận Bình Giã được tặng danh hiệu Đoàn Bình Giã - Lá cờ đầu của bộ đội miền Đông Nam Bộ, 1/1965. (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)

Đơn vị chiến thắng trận Bình Giã được tặng danh hiệu Đoàn Bình Giã - Lá cờ đầu của bộ đội miền Đông Nam Bộ, 1/1965. (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)

Chiến dịch Bình Giã (2/12/1964-3/1/1965) là chiến dịch tiến công đầu tiên của Quân giải phóng miền nam trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là chiến dịch về quy mô chỉ tương đương cấp sư đoàn, nhưng có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng, góp phần làm thất bại về cơ bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ-ngụy, mở đầu thời kỳ mới của cuộc chiến tranh cách mạng ở miền nam Việt Nam.

Trên cơ sở so sánh tương quan lực lượng trên chiến trường miền nam ngày 11/10/1964, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho các chiến trường mở đợt hoạt động quân sự trên toàn miền nam, nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân đội Sài Gòn, kết hợp tiêu hao rộng rãi, thúc đẩy thêm sự tan rã của chúng, đẩy mạnh phá ấp chiến lược, phá thế kìm kẹp, giành thêm nhiều nhân tài, vật lực, mở rộng vùng giải phóng, thu hẹp vùng kiểm soát của địch trước khi đế quốc Mỹ tăng cường ồ ạt lực lượng vào miền nam.

Chấp hành chỉ thị của Quân ủy Trung ương, cuối tháng 10/1964, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Miền vạch kế hoạch mùa khô 1964-1965 chủ trương: Tập trung phần lớn lực lượng chủ lực Miền phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương mở chiến dịch tiến công tại miền Đông Nam Bộ, lấy Bình Giã làm điểm quyết chiến chiến dịch, “nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân đội Sài Gòn, hỗ trợ nhân dân phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, củng cố, nối liền căn cứ bắc nam đường số 2 (Bà Rịa), bảo vệ các bến tiếp nhận hàng bằng đường biển, rèn luyện và nâng cao trình độ tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực”[1].

Bộ Chỉ huy Chiến dịch gồm các đồng chí: Trần Đình Xu - Chỉ huy trưởng, Lê Văn Tưởng - Chính ủy, Lê Xuân Lựu - Phó Chính ủy, Nguyễn Hồng Lâm (Hai Bứa) - Chỉ huy phó và đồng chí Nguyễn Hòa Chỉ huy phó, Tham mưu trưởng Chiến dịch.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 2 trung đoàn bộ binh (Q761, Q762), 4 tiểu đoàn pháo của bộ đội chủ lực Miền, 2 tiểu đoàn (500 và 800) chủ lực của Quân khu miền Đông; Tiểu đoàn 186 của Quân khu VI và lực lượng vũ trang địa phương (Đại đội 445 Bà Rịa), du kích các xã trên địa bàn chiến dịch. Hướng chủ yếu của chiến dịch nằm trên địa bàn tỉnh Bà Rịa; hai hướng thứ yếu là Nhơn Trạch, Long Thành (Biên Hòa) và Hào Đức, Tánh Linh (Bình Thuận).

Chiến dịch Bình Giã. (Ảnh: Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam, Quyển 1 - Lịch sử quân sự, của Bộ Quốc phòng - Trung tâm từ điển Bách khoa quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội, 2015)

Chiến dịch Bình Giã. (Ảnh: Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam, Quyển 1 - Lịch sử quân sự, của Bộ Quốc phòng - Trung tâm từ điển Bách khoa quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội, 2015)

Qua nghiên cứu địa hình và hệ thống phòng thủ của địch, Bộ Chỉ huy Chiến dịch quyết định chọn ấp Bình Giã làm điểm khơi ngòi chiến dịch. Với phương châm: Tích cực tiến công tiêu diệt sinh lực địch, phối hợp chặt chẽ lực lượng ba thứ quân, tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, bảo đảm chắc thắng, tiêu diệt gọn từng đơn vị dịch, xây dựng lực lượng ta, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng.

Ở tỉnh Bà Rịa (hướng chủ yếu của chiến dịch), địch có 4 chi khu quân sự là Đức Thạnh, Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc. Mỗi chi khu, địch bố trí từ một đại đội đến một tiểu đoàn bảo an đóng giữ. Ngoài lực lượng tại chỗ, chúng còn tăng cường cho khu vực này 1 tiểu đoàn biệt động quân, 1 chi đội cơ giới, 2 trung đội pháo 105mm; lực lượng cơ động của Quân đoàn 3 sẵn sàng chi viện ứng cứu.

Qua nghiên cứu địa hình và hệ thống phòng thủ của địch, Bộ Chỉ huy Chiến dịch quyết định chọn ấp Bình Giã làm điểm khơi ngòi chiến dịch. Với phương châm: Tích cực tiến công tiêu diệt sinh lực địch, phối hợp chặt chẽ lực lượng ba thứ quân, tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, bảo đảm chắc thắng, tiêu diệt gọn từng đơn vị dịch, xây dựng lực lượng ta, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng.

Về phương thức tác chiến, chủ yếu là đánh địch ngoài công sự, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật phục kích, tập kích, vận động tiến công, đánh bại các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch.

Chiến dịch diễn ra trong hai đợt. Đợt 1 từ ngày 2 đến ngày 17/12/1964: Theo kế hoạch, đêm ngày 2/12/1964, Đại đội 445 bộ đội tỉnh Bà Rịa tiến công ấp Bình Giã. Cùng lúc, pháo binh Miền, Trung đoàn 761 bao vây, kiềm chế chi khu quân sự Đức Thạnh. Địch vội dùng máy bay lên thẳng chở Tiểu đoàn 38 Biệt động quân xuống giải vây cho Bình Giã. Lực lượng tiến công của ta ít, địch phản kích quyết liệt, trận đánh mở màn không thành công. Mặc dù vậy, Bộ Chỉ huy chiến dịch vẫn quyết định tiếp tục tiến công Bình Giã, tạo áp lực mạnh, buộc địch phải ra giải toả để ta tiêu diệt.

Đêm ngày 7/12, Đại đội 445 và 1 đại đội của Trung đoàn 762 tiến công Bình Giã lần thứ hai; Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 761 và Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 762 đánh thẳng vào chi khu quân sự Đất Đỏ; lực lượng pháo binh Miền tập kích hỏa lực vào các chi khu Xuyên Mộc, Đức Thạnh, căn cứ huấn luyện biệt kích Vạn Kiếp.

Trước áp lực ngày càng tăng ở Bình Giã-Đức Thạnh, ngày 9/12, địch sử dụng Chi đoàn 3 thiết giáp (Thiết đoàn 1) có không quân yểm trợ mở cuộc hành quân “Bình Tuy 33” càn quét dọc đường 2, đoạn từ Bà Rịa lên Đức Thạnh. Trung đoàn 762 bố trí sẵn trận địa phục kích, nhưng quân địch không hành quân như ta dự kiến. Tình hình thay đổi, Trung đoàn đã kịp thời cơ động về phía đông núi Nghệ (cách đường 2 khoảng 4km) ém quân chờ đợi.

Ngày 13/12, khi đoàn xe chở quân của địch từ Đức Thạnh trở về lọt vào trận địa phục kích, Trung đoàn nhanh chóng vận động nổ súng tiến công. Sau gần 1 giờ chiến đấu, Trung đoàn đã diệt gọn Chi đoàn 3 thiết giáp, phá hủy14 xe M113, bắn cháy 4 máy bay trực thăng, diệt hơn 100 địch (có 9 cố vấn Mỹ), thu 79 súng các loại.

Trong khi đó, trên hướng phối hợp Hoài Đức, Tánh Linh, Tiểu đoàn 186 Quân khu 6 đánh chiếm ấp chiến lược Mê Pu, chặn đánh viện binh từ Hoài Đức, La Gi lên ứng cứu, đánh thiệt hại nặng 3 đại đội bảo an, 1 đại đội dân vệ.

Bước vào đợt 2 từ ngày 27/12/1964 đến ngày 3/1/1965: Trung đoàn 761 sử dụng 2 đại đội phối hợp với Đại đội 445 đánh chiếm và tổ chức chốt giữ ấp chiến lược Bình Giã. Đồng thời, sử dụng hỏa lực bắn phá chi khu quân sự Đức Thạnh.

Sáng 28/12, địch cho Tiểu đoàn 30 Biệt động quân ở Bà Rịa đổ bộ bằng máy bay trực thăng xuống khu vực Trảng Trống (tây nam Đức Thạnh), sau đó chia thành 3 mũi tiến vào Bình Giã, nhưng bị ta chặn đánh quyết liệt, phải rút về ấp La Vân.

Trưa cùng ngày, địch tiếp tục dùng máy bay trực thăng chở Tiểu đoàn 33 Biệt động quân từ Biên Hoà đổ xuống đông bắc ấp Bình Giã, nhưng cũng bị hỏa lực phòng không của ta chế áp, phải chuyển hướng xuống khu vực cánh đồng trũng ở phía đông nam Bình Giã. Nắm thời cơ địch chưa kịp triển khai đội hình, Trung đoàn 761 cho bộ đội xuất kích bao vây tiến công, tiêu diệt phần lớn quân địch, làm chủ hoàn toàn trận địa.

Ngày 30/12, địch cho máy bay trực thăng chở Tiểu đoàn 4 Thủy quân lục chiến thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược đổ bộ xuống đông nam ấp La Vân phối hợp cùng Tiểu đoàn 30 Biệt động quân phản kích chiếm lại Bình Giã.

18 giờ cùng ngày, ta bắn rơi 1 máy bay trực thăng ở Quảng Giới, diệt một số địch, trong đó có 4 lính Mỹ. Nhận định địch sẽ quay lại tìm xác lính Mỹ, Bộ Chỉ huy Chiến dịch lệnh cho Trung đoàn 761 khẩn trương bố trí trận địa phục kích.

Đúng như dự kiến, 14 giờ 30 phút ngày 31/12, khi Tiểu đoàn 4 Thủy quân lục chiến đến Quảng Giới, Trung đoàn 761 đã nổ súng, bao vây chia cắt, tiêu diệt từng bộ phận, tiến tới làm chủ trận địa, diệt gần 600 địch, thu toàn bộ vũ khí, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Để cứu nguy cho Đức Thạnh và cố gắng chiếm lại Bình Giã, ngày 1/1/1965, địch huy động khoảng 2 nghìn quân mở cuộc hành quân giải tỏa mang tên “Hùng Vương 2”. Phán đoán chính xác hướng hành quân của địch, Trung đoàn 762 phục kích tại khu vực Cóc Tiên diệt gọn đoàn xe 10 chiếc và 1 đại đội địch trên đường 15 từ Vũng Tàu về Sài Gòn.

Tiếp đó, ngày 3/1, Trung đoàn tiếp tục phục kích trên đường 2 từ Bà Rịa lên Đức Thạnh, diệt đoàn xe 16 chiếc (có 2 xe tăng, 2 M113), đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 35 Biệt động quân.

Cùng ngày, Tiểu đoàn 800 Quân khu 7 tập kích trại biệt kích Bình Sơn, phối hợp với du kích Long Thành diệt đồn Tam An, Phước Thọ, hỗ trợ quần chúng phá ấp chiến lược. Trên hướng Hoài Đức-Tánh Linh, ta bao vây chi khu Hoài Đức, đánh chiếm các ấp chiến lược Mê Pu, Sùng Nhơn, Đậm Rim, Tà Bao.

Ngày 3/1/1965, Chiến dịch kết thúc.

Trung đoàn 1 phổ biến phương án tác chiến trên sa bàn Chiến dịch Bình Giã, 12/1964. (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)

Trung đoàn 1 phổ biến phương án tác chiến trên sa bàn Chiến dịch Bình Giã, 12/1964. (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)

Sau hơn một tháng chiến đấu liên tục, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1.700 địch (bắt 293), trong đó diệt Tiểu đoàn 33 Biệt động quân, Tiểu đoàn 4 Thủy quân lục chiến và 1 chi đoàn thiết giáp M113, đánh thiệt hại 3 tiểu đoàn biệt động quân (30, 35, 38), 7 đại đội bảo an, làm tan rã hầu hết lực lượng dân vệ trong khu vực; phá hủy và phá hỏng 45 xe quân sự (phần lớn là M113), bắn rơi, bắn cháy 56 máy bay các loại, thu hơn 1 nghìn súng và gần 100 máy thông tin các loại; phá vỡ hàng loạt ấp chiến lược ven đường số 2 và đường số 15, giải phóng vùng ven Hàm Tân và toàn bộ huyện Hoài Đức, mở rộng căn cứ Hắt Dịch (Bà Rịa) nối liền với Chiến khu Đ và căn cứ Bình Thuận[2].

Nét đặc trưng của nghệ thuật Chiến dịch Bình Giã là ta đã lừa địch ra ngoài công sự, nhử địch vào những nơi có tổ chức sẵn lực lượng và thế trận để bất ngờ tiêu diệt chúng bằng tiến công vận động. Đồng thời, thể hiện nghệ thuật chỉ huy, sử dụng lực lượng và vai trò đơn vị chiến thuật đối với chiến dịch, nghĩa là tập trung cả 2 trung đoàn chủ lực về Bà Rịa hình thành quả đấm mạnh để thực hiện ý đồ tiêu diệt từng tiểu đoàn quân địch, giành thắng lợi quyết định.

Chiến dịch Bình Giã giành thắng lợi có một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn đối với cách mạng miền nam. Đúng như khẳng định của đồng chí cố Tổng Bí thư Lê Duẩn: “Với Ấp Bắc năm 1963 địch thấy khó thắng được ta thì với Chiến dịch Bình Giã, địch đã thấy thua ta”[3]

Chiến dịch Bình Giã giành thắng lợi có một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn đối với cách mạng miền nam. Đúng như khẳng định của đồng chí cố Tổng Bí thư Lê Duẩn: “Với Ấp Bắc năm 1963 địch thấy khó thắng được ta thì với Chiến dịch Bình Giã, địch đã thấy thua ta”[3], tạo ra bước ngoặt căn bản trong so sánh lực lượng và cục diện chiến trường có lợi cho ta, góp phần quan trọng đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, mở ra những điều kiện quan trọng để đánh bại các âm mưu chiến lược của Mỹ-ngụy.

Chiến dịch Bình Giã là chiến dịch tiến công đầu tiên giành thắng lợi của bộ đội chủ lực Miền trên chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với chiến thắng này đã chứng tỏ lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là chủ lực Miền đã có bước tiến mới về trình độ tổ chức chỉ huy và thực hành chiến dịch. Đồng thời, khẳng định, chủ lực Miền có thể đánh tiêu diệt các đội quân mạnh và trang bị hiện đại với các chiến thuật tân kỳ nhất của Mỹ-ngụy.

Chiến thắng Bình Giã cùng với thắng lợi của các chiến dịch Ba Gia, Đồng Xoài trong Đông Xuân 1964-1965 là cơ sở, tiền đề giúp quân và dân miền nam tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, vươn lên giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ngày xuất bản: 12/2024
Nội dung: Trung tá, ThS Lê Văn Thành - Viện Lịch sử Quân sự
Trình bày: BÔNG MAI
Ảnh: Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam