Chiến dịch Tây Nguyên - Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm

Trung tướng, TS, AHLLVT ĐOÀN SINH HƯỞNG
Nguyên Tư lệnh Binh chủng Tăng-Thiết giáp; Nguyên Tư lệnh Quân khu 4; cựu chiến binh trực tiếp tham gia Chiến dịch Tây Nguyên 1975
(Tham luận tại Hội thảo khoa học “Chiến thắng Tây Nguyên 1975 và nửa thế kỷ xây dựng, phát triển Đắk Lắk”, ngày 5/3/2025)
Trong cuộc đời quân ngũ, tôi đã trải qua nhiều trận đánh, tham gia nhiều chiến dịch trong đội hình đơn vị tăng thiết giáp. Mỗi trận đánh là một thử thách về lòng dũng cảm, sự ác liệt, hy sinh; những mất, còn của đồng chí, đồng đội; có nhiều lúc sau trận đánh chúng tôi cười vỡ òa trong niềm vui chiến thắng, cũng có những trận chúng tôi lặng lẽ không ai nói với ai câu nào, tất cả im lặng rút kinh nghiệm để những trận đánh sau hạn chế tổn thất, mất mát, hy sinh.
Trận đánh để lại trong tôi nhiều kỷ niệm và những suy ngẫm về nghệ thuật chiến dịch, nghệ thuật sử dụng tăng thiết giáp trong thực hành chiến đấu, nhất là trong trận then chốt thứ nhất tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, trong chiến dịch Tây Nguyên, mang mật danh “Chiến dịch 275”. Trận đánh giành thắng lợi trọn vẹn đã gợi nhớ trong tôi về “Những tháng ngày đẹp nhất” trong đời quân ngũ chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với góc nhìn của các nhà quân sự, Tây Nguyên là vùng cao nguyên, rừng núi nối tiếp nhau theo hướng bắc-nam. Bắc Tây Nguyên, núi cao, rừng rậm hiểm trở, nam Tây Nguyên địa hình bằng phẳng; là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng được ví là “nóc nhà Đông Dương”. Vì vậy, theo các nhà quân sự, ai chiếm được Tây Nguyên sẽ chiếm lĩnh toàn bộ Đông Dương.
Về hệ thống giao thông thủy, bộ có Đường 14 chạy dọc từ Bắc xuống Nam, nối các thị xã của Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ; các tuyến đường ngang: 21, 19, 7 nối Tây Nguyên với các tỉnh đồng bằng ven biển, trong đó Đường 7 có nhiều đoạn hư hỏng nặng, lâu ngày không sử dụng. Về đường thủy có 2 sông lớn là sông Pô Kô và sông Sê Rê Pốc, vào mùa mưa, dòng chảy lớn, việc cơ động các phương tiện khó khăn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với góc nhìn của các nhà quân sự, Tây Nguyên là vùng cao nguyên, rừng núi nối tiếp nhau theo hướng bắc-nam. Bắc Tây Nguyên, núi cao, rừng rậm hiểm trở, nam Tây Nguyên địa hình bằng phẳng; là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng được ví là “nóc nhà Đông Dương”. Vì vậy, theo các nhà quân sự, ai chiếm được Tây Nguyên sẽ chiếm lĩnh toàn bộ Đông Dương.
Lực lượng ta tham gia chiến dịch rất lớn, hiệp đồng quân binh chủng, trong đó có Trung đoàn Tăng-Thiết giáp 273 (toàn bộ xe tăng T-54 và thiết giáp K-63) được hình thành từ miền bắc vào, kết hợp với các lực lượng pháo tự hành có mặt ở chiến trường miền Nam từ năm 1972 (Vì sao tôi nhấn mạnh xe tăng T-54 vì liên quan đến công tác bảo tồn di tích, tôi sẽ nói rõ ở phần sau).
Trong trận này, Trung đoàn xe Tăng 273 là đơn vị đầu tiên của bộ đội Tăng-Thiết giáp được sử dụng tập trung cả trung đoàn với 47 xe tăng và 16 xe thiết giáp.
Ngày 17/1/1975, Trung đoàn Tăng-Thiết giáp 273 được lệnh hành quân di chuyển đội hình xuống phía nam Tây Nguyên. Đại đội 9 của tôi trong đội hình Trung đoàn bí mật vượt qua 300km an toàn đến vị trí tập kết ở Buôn Gia Vầm, cách Buôn Ma Thuột 40km về phía bắc.
Tại đây, chúng tôi được đồng chí Lê Ngọ - Trung đoàn trưởng và các Thủ trưởng cơ quan Trung đoàn quán triệt phương án tác chiến chính thức của Chiến dịch Tây Nguyên đã được Bộ Chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh thông qua, đó là: Tập trung lực lượng chủ yếu của chiến dịch vào khu vực Buôn Ma Thuột, Đức Lập, Thuần Mẫn, tiêu diệt địch, giải phóng mục tiêu then chốt quyết định là Buôn Ma Thuột. Sau đó phát triển tiến công tiêu diệt địch, giải phóng Cheo Reo, Gia Nghĩa và các quận lỵ, chi khu trong ba tỉnh, trong đó tỉnh Đắk Lắk là trọng điểm.

Để chuẩn bị cho chiến dịch, tất cả các lực lượng phải tiến hành công tác chuẩn bị hết sức công phu và được tiến hành theo hai bước: Bước chuẩn bị trước và bước chuẩn bị trực tiếp.
Bước chuẩn bị trước, về mặt chiến lược ta đã mở rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng, củng cố hậu phương tại chỗ, dồn ép địch vào các thị xã, thị trấn. Đến đầu năm 1975, vùng giải phóng của ta đã được mở rộng vào sát các thị xã, thị trấn và đường giao thông chiến lược quan trọng của địch ở hầu hết các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk và Gia Nghĩa.
Một công việc hết sức quan trọng trong bước chuẩn bị trước là xây dựng hệ thống đường cơ động và hệ thống kho tàng dự trữ hậu cần. Toàn bộ Mặt trận Tây Nguyên cùng Đoàn 559 khẩn trương tập kết vũ khí, lương thực, thuốc men; hoàn chỉnh các con đường chiến lược đi qua Tây Nguyên, trong đó có những hướng, mũi lực lượng công binh tiến hành cắm tiêu đánh dấu và cưa sẵn 2/3 thân các cây lớn, chờ khi nổ súng, xe tăng bất ngờ xuất kích húc đổ cây và chiến đấu trong hành tiến.
Nhìn ngoài vào, công việc được chuẩn bị hết sức bí mật, nhưng bên trong các lực lượng khẩn trương, sôi động với tinh thần “Trẩy hội mùa Xuân, ra quân đánh thắng”.
Nhân dân Tây Nguyên cùng bộ đội kéo pháo để đánh chiếm các điểm cao ở Pleiku trong Chiến dịch Tây Nguyên, mở màn Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. (Ảnh: TTXVN)
Nhân dân Tây Nguyên cùng bộ đội kéo pháo để đánh chiếm các điểm cao ở Pleiku trong Chiến dịch Tây Nguyên, mở màn Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. (Ảnh: TTXVN)
Bước chuẩn bị trực tiếp, hoàn chỉnh quyết tâm chiến dịch, tiếp tục hoạt động nghi binh và điều chỉnh, bố trí lực lượng thành các cụm theo nhiệm vụ chiến dịch.
Bản thân tôi tham gia trong đội hình Trung đoàn Tăng-Thiết giáp 273 (thiếu 1 tiểu đoàn) thuộc cụm lực lượng trên hướng Buôn Ma Thuột: Hướng này có các đơn vị: Sư đoàn 316, Trung đoàn 95B, Trung đoàn 24 (thiếu 1 tiểu đoàn), Tiểu đoàn 21 của Đoàn 559, Trung đoàn Đặc công 198 và Tiểu đoàn Đặc công 27; 2 trung đoàn pháo (40, 675), hai trung đoàn phòng không (232, 234), hai trung đoàn công binh (7, 575) và lực lượng vũ trang tỉnh Đắk Lắk.
Trong bước chuẩn bị trực tiếp này, chúng tôi chuẩn bị kỹ cả về kỹ thuật và chiến thuật. Đại đội 9 của tôi được trang bị toàn bộ xe tăng T-54B thế hệ mới, có hệ thống ổn định tầm-hướng, chúng tôi tổ chức cho từng kíp xe tăng luyện tập kỹ và quyết định trong chiến dịch ra quân sẽ sử dụng ổn định tầm-hướng, bảo đảm tác chiến nhanh, chính xác.
Nhìn ngoài vào, công việc được chuẩn bị hết sức bí mật, nhưng bên trong các lực lượng khẩn trương, sôi động với tinh thần “Trẩy hội mùa Xuân, ra quân đánh thắng”.
Lực lượng kỹ thuật thông tin tổ chức sấy máy thông tin để bảo đảm liên lạc, chúng tôi cho đốt than củi, sấy máy bằng thủ công bảo đảm nguyên tắc bí mật, an toàn; đây là yếu tố quan trọng trong thực hành tác chiến của Tăng-Thiết giáp, vì không bảo đảm được thông tin thông suốt thì chỉ huy sẽ gặp khó khăn.
Trong quá trình chuẩn bị tại vị trí tập kết, tôi có sáng kiến nữa, đó là: Mỗi xe tăng cố định thêm 10 viên đạn pháo (8 viên buộc phía trên, vòng quanh phía trong tháp pháo, 1 viên đạn xuyên cố định dưới sàn, trong nòng pháo sẵn sàng 1 viên đạn nổ) và mỗi xe thiết giáp K-63 chở thêm 10 viên; nâng cơ số đạn chiến đấu của xe tăng từ 34 viên lên 54 viên, bảo đảm chiến đấu được thời gian dài và bắn không hạn chế (trong chiến đấu chỗ nào nghi ngờ có địch là bắn). Sáng kiến gia cố thêm đạn này về sau được toàn Trung đoàn 273 áp dụng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngoài việc gia cố đạn, tôi còn đề nghị trên tăng cường cho mỗi xe tăng một thùng (20 quả lựu đạn), riêng xe tôi được ưu tiên hai thùng, số lựu đạn này tôi chỉ huy sử dụng hết trong buổi sáng ngày 10/3, để tiêu diệt địch khi chúng bu bám đội hình xe tăng.
Một sự kiện đáng nhớ nữa là khi xuất phát tiến công, với kinh nghiệm cơ động xe tăng trong chiến đấu, tôi đề nghị trên cho xuất phát trước lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch 15 phút (theo hiệp đồng là 2 giờ sáng 10/3, nhưng chúng tôi xuất phát lúc 2 giờ kém 15 phút). Cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn không đồng ý, nhưng khi báo cáo Bộ Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Đặng Vũ Hiệp và đồng chí Vũ Lăng đồng ý.

Cuộc tiến công vào mục tiêu then chốt Buôn Ma Thuột bắt đầu, khi pháo binh, đặc công tiến công sân bay thị xã, khu kho Mai Hắc Đế và sân bay Hòa Bình, thì Đại đội 9 mũi đột kích thọc sâu do tôi chỉ huy gồm 10 xe tăng T-54B và 10 xe K-63, được tổ chức thành bốn thê đội; thê đội 1 và thê đội 2, mỗi thê đội có 2 xe tăng và 2 xe K-63; thê đội 3 và thê đội 4, mỗi thê đội có 3 xe tăng và 2 xe K-63.
Mỗi thê đội chở 20 cán bộ, chiến sĩ bộ binh trên xe K-63 để tiếp cận cửa mở (trong thực hành tác chiến, tăng thiết giáp là phương tiện cơ giới cơ động nhanh, nếu bộ binh cơ động theo sau sẽ không kịp dễ bị chia cắt, lạc hướng vì vậy bố trí bộ binh trên xe vừa có nhiệm vụ quét bộ binh và các tay súng chống tăng của địch, vừa hiệp đồng tác chiến nhanh chóng, kịp thời).
Tôi trực tiếp chỉ huy thê đội 2 và chỉ huy chung cả 4 thê đội chiếm lĩnh vị trí xuất phát, mọi yếu tố bí mật vẫn giữ đến phút chót, địch không hề biết “voi thép” của chúng tôi đang lao về phía chúng.
5 giờ 30 phút ngày 10/3/1975, trong khi pháo binh điều chỉnh tọa độ bắn chuyển làn, thì từ các hướng, xe tăng-thiết giáp và các binh chủng cơ giới của ta mở hết tốc lực, theo đường trinh sát đã đánh dấu, húc đổ cây xông ra khỏi rừng tiến thẳng về phía thị xã.
Mặc dù không có lệnh của trên, nhưng với sự quan sát nhạy bén trên chiến trường, trước tình thế địch hoang mang cực độ sau trận bão lửa từ pháo binh của ta, tôi hạ lệnh: Cho bật đèn lên, và không ai bảo ai, thấy xe Đại đội 9 bật đèn, các thê đội tăng khác cũng bật đèn lên.
Cả núi rừng Tây Nguyên chuyển động trong bão lửa. Các loại hỏa lực và ánh đèn pha sáng rực của xe tăng làm bùng lên ý chí quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ ta, tạo ra sự hoang mang, khiếp đảm của kẻ thù.
Mặc dù không có lệnh của trên, nhưng với sự quan sát nhạy bén trên chiến trường, trước tình thế địch hoang mang cực độ sau trận bão lửa từ pháo binh của ta, tôi hạ lệnh: Cho bật đèn lên, và không ai bảo ai, thấy xe Đại đội 9 bật đèn, các thê đội tăng khác cũng bật đèn lên.
Cả núi rừng Tây Nguyên chuyển động trong bão lửa. Các loại hỏa lực và ánh đèn pha sáng rực của xe tăng làm bùng lên ý chí quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ ta, tạo ra sự hoang mang, khiếp đảm của kẻ thù.
Về ý định bất ngờ này, trước đó trong trận tấn công Đắk Pét, đồng chí Đặng Vũ Hiệp - Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên có hỏi tôi: Tại sao trong chỉ huy trận đánh, đồng chí không dùng mật ngữ? Tôi trả lời: Theo quy định công tác tham mưu là phải dùng mật ngữ, nhưng trong chỉ huy hành động tác chiến trên chiến trường hết sức mau lẹ, khi địch biết được ý định của ta thì ta đã thực hành xong rồi.
Theo kế hoạch chiến đấu, thê đội 1 do đồng chí Nguyễn Tư Chính dẫn đầu đột phá vào cửa mở, để thê đội 2 do tôi chỉ huy thọc sâu vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 quân ngụy. Nhưng trong quá trình tiến về cửa mở, xe thê đội 1 sa lầy, ngay tập tức tôi hạ lệnh cho lực lượng hỗ trợ cứu kéo và chỉ huy thê đội 2 vượt lên thay thế thê đội 1, dùng hỏa lực bắn phá các mục tiêu của địch, xe tăng hỗ trợ dẫn dắt bộ binh xung phong đánh chiếm chốt giữ cửa mở.
Bị dồn vào chân tường, địch chống cự quyết liệt, phía ta thương vong khá nhiều, đồng chí Trương Quang Oánh - Tiểu đoàn trưởng bộ binh hy sinh, đồng chí Bùi Văn Bịn lên chỉ huy, đồng chí Năng - Đại đội trưởng Đại đội 6 chỉ huy đại đội sang phối thuộc bị thương, đồng chí Vân - Chính trị viên lập tức chỉ huy đại đội tiếp tục chiến đấu.
Hầu hết xe tăng của chúng tôi đều có người bị thương, xe tăng 980 do tôi chỉ huy bị trúng đạn, đồng chí Vĩnh - lái xe bị gãy tay, tôi cho xe lùi lại, đưa đồng chí Vĩnh ra tuyến sau cấp cứu và điều đồng chí Hồng từ xe 703 lên thay.
Từ 5 giờ 30 phút đến 10 giờ 30 phút ngày 10/3/1975, chúng tôi quần nhau với địch; bị xe tăng và bộ binh ta tiến công dồn dập, địch cho máy bay oanh kích. Ngay lập tức, qua điện đàm, tôi lệnh cho các xe dùng SMPK 12,7mm bắn máy bay và tiếp tục tiến lên. Trong quá trình phát triển chiến đấu, các Trung đoàn pháo phòng không 232 và 234 đã theo sát, bảo vệ tốt đội hình tiến công của bộ binh và xe tăng của ta.
Đến tối 10/3/1975, toàn bộ lực lượng đột kích thọc sâu gồm Đại đội 9 và bộ binh áp sát sư đoàn bộ Sư đoàn 23 quân ngụy. Theo lệnh trên, đêm đó chúng tôi dừng lại củng cố, bổ sung đạn dược; tôi và đồng chí Bùi Văn Bịn tổ chức đi trinh sát để hôm sau đánh sớm.
Nhiều phương tiện chiến tranh của địch ở Chi khu kiên cố Đức Lập rơi vào tay quân giải phóng. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Nhiều phương tiện chiến tranh của địch ở Chi khu kiên cố Đức Lập rơi vào tay quân giải phóng. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
6 giờ sáng 11/3/1975, chúng tôi lên xe sẵn sàng xuất kích thì đồng chí Vinh (pháo thủ xe 980 do tôi chỉ huy) kêu to: Địch từ vườn cà-phê tiến ra! Thấy những khóm cà-phê lay động mạnh, tôi lệnh cho các xe nhằm vào vườn cà-phê nhả đạn.
Sau một loạt đạn cấp tập của xe tăng ta, 1 xe M-113 và 1 xe M-41 của địch bốc cháy, chúng hốt hoảng bỏ chạy, tôi lệnh truy đuổi, bắt được tên Chu, qua khai thác nhanh biết được có tên Luật - Tỉnh phó Đắk Lắk trực tiếp chỉ huy địch phản kích.
Tôi điện thông báo cho các xe và chỉ huy ba xe tăng cùng bộ binh đánh tràn vào khu vườn cà-phê, ở đây địch thương vong nhiều. Sau một lúc truy quét, chúng tôi phát hiện một tên mặc quân phục bàng bạc, đi cùng lính thông tin, lập tức chúng tôi truy đuổi lên sườn đồi và bắt sống hắn.
Tôi điện đàm báo cáo Bộ Tư lệnh mặt trận việc bắt tên Luật, đồng thời bố trí một xe K-63 và 10 chiến sĩ áp giải hắn lên nộp cho Bộ Tư lệnh; qua điện đàm, đồng chí Đặng Vũ Hiệp - Chính ủy và đồng chí Vũ Lăng - Phó Tư lệnh rất phấn khởi, biểu dương cán bộ, chiến sĩ Đại đội 9. Đồng Chí Đặng Vũ Hiệp còn dặn tôi chấp hành kỷ luật, đừng bỏ xe để lượm lặt linh tinh.
Sau đó, xe tăng chúng tôi tiếp tục lao lên đánh chiếm Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 - Sào huyệt cuối cùng của địch ở Buôn Ma Thuột. Ở hướng tây (hướng thứ ba) Đại đội Tăng 9 Tiểu đoàn 3 do tôi chỉ huy, được tăng cường 3 xe thiết giáp K-63 của Đại đội 6, phối hợp cùng Đại đội bộ binh 4 Trung đoàn 24 Sư đoàn 10, hình thành mũi thọc sâu đánh vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy.
Tôi còn nhớ trước khi xuất kích, đồng chí Lê Ngọ - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 273 điện cho tôi căn dặn: “Dành cho mày hướng khó nhất, ác liệt nhất. Đánh không thắng nhanh, về tao xẻo…!”
10 giờ ngày 11/3/1975, các hướng mũi đồng loạt tiến công vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 quân ngụy. Đến 10 giờ 30 phút, cả xe tăng, bộ binh đánh đến chân cột cờ. Xe tăng Đại đội 9 chúng tôi rải ra chốt giữ những vị trí khống chế địch, hỗ trợ các chiến sĩ Tiểu đoàn 4 nhanh chóng hạ cờ chính quyền Sài Gòn, kéo cờ giải phóng lên trong niềm vui hân hoan chiến thắng.
Khi địch đã đầu hàng, tôi cùng anh em vào phòng làm việc của Tư lệnh Sư đoàn 23 quân ngụy. Trong phòng làm việc của hắn, giấy tờ, đồ dùng hỗn độn. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy máy thu hình (tivi), nên khi thấy chiếc tivi trong phòng làm việc, tôi nói với anh em là bóng điện tử, chịu khó mang về, chắc có nhiều công dụng.
Sau này, anh em cứ nhắc mãi cái “bóng điện tử” trận Buôn Ma Thuột, cũng như thu lượm hai chiếc chảo chiến lợi phẩm trong trận Đắk Pét.

Với trận Buôn Ma Thuột, bản thân tôi và tập thể lãnh đạo, chỉ huy đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn đã rút ra được nhiều vấn đề từ những mạnh, yếu của mình.
Trước trận đánh, đơn vị đã làm tốt công tác chính trị tư tưởng, khí thế ra quân của bộ đội sục sôi, hừng hực. Công tác chuẩn bị về thông tin liên lạc, kỹ thuật và đạn pháo được tiến hành chu đáo, cẩn thận; quá trình chiến đấu không xe nào bị hư hỏng, cơ số đạn pháo còn dư. Đặc biệt là sự phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa xe tăng, bộ binh, công binh chặt chẽ, hiệu quả.
Đây là trận đầu tiên sử dụng đội hình xe tăng đánh thọc sâu, hiệp đồng binh chủng, hình thành đội hình đột kích thọc sâu hỗn hợp, làm cho địch bất ngờ, choáng váng, ta giành thắng lợi trọn vẹn.
Tuy nhiên, hạn chế thấy rõ ở trận đánh này là việc tổ chức trinh sát địa bàn thành phố, thị xã rất khó khăn, ta tiến hành không kỹ, nên khi đánh vào thị xã ta gặp khó khăn, lúng túng, nhầm mục tiêu.
Về phần mình, trong quá trình chiến đấu, tôi đã xử trí các tình huống nhanh, chính xác, kịp thời, dứt khoát. Với trận đánh này, Đại đội 9 và nhiều cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị được khen thưởng, tôi vinh dự được cấp trên tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai.
Trận then chốt Buôn Ma Thuột giành thắng lợi đã tạo ra cục diện chiến trường có lợi cho ta, bất lợi cho địch; quyết định đến thắng lợi hoàn toàn của Chiến dịch Tây Nguyên và mở ra thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo nhận định trước đó của Bộ Chính trị.
Những người lính xe tăng chúng tôi lại khẩn trương cơ động theo chiều dài chiến dịch, hành quân thần tốc “một ngày bằng hai mươi năm”, tiến về Sài Gòn, quét sạch giặc thù, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
Sau này, khi xây dựng tượng đài chiến thắng Buôn Ma Thuột ở Ngã Sáu thành phố, tác giả đã chọn mẫu xe tăng T-34. Tôi đã gặp trực tiếp chị Xuân - Phó Chủ tịch tỉnh Đắk Lắk, đề nghị phải thay bằng mô hình xe tăng T-54, vì đánh vào Buôn Ma Thuột lúc đó chỉ có xe tăng T-54 và thiết giáp K-63; về sau, chính quyền cho sửa lại và lấy số hiệu xe ở tượng đài là 980 - chính là số hiệu xe tăng do tôi chỉ huy.
Chiến tranh đã lùi xa, đồng đội thế hệ tôi người còn, người mất. Trên chính mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ này, biết bao đồng đội tôi đã không may nằm lại, linh hồn và thân thể các anh đã hòa vào đất đỏ Tây Nguyên để cây trái đơm hoa, xóm làng trù phú. Những lời phát biểu của tôi hôm nay, xin được thay lời cho đồng chí, đồng đội tôi như một nén hương thơm tri ân những người đã ngã xuống để đất nước ta ngày càng tươi đẹp, trường sinh.
Chiến tranh đã lùi xa, đồng đội thế hệ tôi người còn, người mất. Trên chính mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ này, biết bao đồng đội tôi đã không may nằm lại, linh hồn và thân thể các anh đã hòa vào đất đỏ Tây Nguyên để cây trái đơm hoa, xóm làng trù phú. Những lời phát biểu của tôi hôm nay, xin được thay lời cho đồng chí, đồng đội tôi như một nén hương thơm tri ân những người đã ngã xuống để đất nước ta ngày càng tươi đẹp, trường sinh.
Trình bày: XUÂN BÁCH - BÔNG MAI
Ảnh: TTXVN