Kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2024), Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết quan trọng “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”.

Chuyên đề “Cách mạng chuyển đổi số để phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” của Báo Nhân Dân phân tích những tư tưởng mới, mang tính đột phá của Tổng Bí thư Tô Lâm về cuộc cách mạng chuyển đổi số, xây dựng phương thức sản xuất số để phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong kỷ nguyên mới, phân tích những khó khăn, thách thức và sự cần thiết phải có cuộc cách mạng; từ đó, đưa ra những định hướng, giải pháp trong thời gian tới.

Bài 3:

Công nghệ số cộng đồng và cuộc cách mạng chuyển đổi số từ cơ sở

Tại Ninh Bình, Tổ công nghệ số cộng đồng đã mang lại luồng gió mới, giúp người dân nắm bắt công nghệ, cải thiện đời sống và phát triển kinh tế qua các nền tảng trực tuyến. Trong khi đó, Đà Nẵng và Thái Nguyên đã vươn lên trở thành những hình mẫu chuyển đổi số, với nền tảng công nghệ thông tin tiên tiến giúp chính quyền số phát huy tối đa hiệu quả, nâng cao chất lượng sống của người dân. Cuộc cách mạng số không chỉ thay đổi cách sống, mà còn tạo động lực để các cộng đồng địa phương tiến tới một tương lai bền vững.

Trong bài viết dịp Quốc khánh 2/9, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của chuyển đổi số, khẳng định phải có một cuộc cách mạng chuyển đổi số để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Trong đó, quá trình chuyển đổi số từ cơ sở đóng vai trò quan trọng để làm nên thành công của cuộc cách mạng này.

Tổ công nghệ số cộng đồng: Cầu nối giữa chính quyền và người dân

Tại nhiều tỉnh, thành phố, các Tổ công nghệ số cộng đồng đang đóng vai trò như cầu nối giữa chính quyền và người dân, giúp phổ biến kiến thức, hỗ trợ người dân sử dụng các dịch vụ công trực tuyến một cách hiệu quả.

Đến tháng 9/2024, 63/63 tỉnh, thành phố trên cả nước đã thành lập các Tổ công nghệ số cộng đồng đến từng thôn, tổ dân phố, khu dân cư, khóm, ấp dân cư. Đây là cầu nối của chính quyền địa phương để thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác chuyển đổi số đến với nhân dân; trực tiếp truyền thông, vận động, hướng dẫn, hỗ trợ người dân sử dụng các ứng dụng công nghệ thông minh, thương mại điện tử, dịch vụ hành chính công; tham gia thực hiện chuyển đổi số trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ đó, cùng chính quyền xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, xã hội số tại thôn, tổ dân phố. Các Tổ công nghệ số đã và đang tập trung tuyên truyền để người dân nâng cao nhận thức về chuyển đổi số và phổ cập kỹ năng số đến người dân.

Theo thống kê, đến tháng 9/2024, cả nước đã có 93.524 Tổ công nghệ số cộng đồng ở tất cả các địa phương với gần 457.820 thành viên, trong đó 63/63 tỉnh, thành phố hoàn thành 100% đến cấp xã. Đây là lực lượng đã và đang hỗ trợ rất lớn cho công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Tại Ninh Bình, Tổ công nghệ số cộng đồng được thành lập với mục tiêu hỗ trợ người dân ở các xã, phường, thị trấn hiểu và thực hiện các thủ tục hành chính số một cách thuận tiện, góp phần thúc đẩy chính quyền số và xã hội số. Xã Yên Hòa, huyện Yên Mô được chọn làm thí điểm mô hình “Xã thông minh” từ năm 2020, đã chứng kiến sự thay đổi tích cực trong đời sống người dân nhờ vào hoạt động của các tổ này. 

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Yên Hòa, Hoàng Văn Cảnh, cho biết việc thành lập 10 Tổ công nghệ số cộng đồng đã giúp người dân nắm bắt công nghệ, từ đó dễ dàng tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến và ứng dụng số trong kinh doanh. Tổ công nghệ số không chỉ giúp người dân cài đặt và sử dụng các nền tảng như VNID, VSSID mà còn thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, mang lại lợi ích thiết thực cho cuộc sống hàng ngày.

Kết quả đáng ghi nhận từ những nỗ lực này là việc tạo ra 763 tài khoản dịch vụ công, hỗ trợ thanh toán trực tuyến cho các cơ sở sản xuất kinh doanh và hướng dẫn cài đặt 1.500 tài khoản Viettel Pay cho người dân. Điều này không chỉ giúp cải thiện thu nhập mà còn nâng cao đời sống cho người dân.

Đặc biệt, nhờ có sự hoạt động của tổ này, việc phát triển thương mại điện tử, kết nối đưa nông sản lên sàn giao dịch thương mại điện tử nhằm đa dạng hóa các kênh cung ứng sản phẩm trên thị trường được địa phương thực hiện hiệu quả. Hiện nay, Yên Hòa đã được đưa một số mặt hàng, sản phẩm lên trên sàn để giao dịch (cá chạch sụn kho, chạch sụn sấy khô, chạch chiên, chuối tây sấy dẻo…) và đang từng bước thiết lập các sản phẩm khác để đưa lên sàn để bán hàng.

Nhờ đó, nông sản của người dân đã được bán đi nhiều tỉnh, thành phố, người dân có thêm thu nhập. Vừa qua, Yên Hòa đã vinh dự được Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) giới thiệu là mô hình điểm “Làng số - Digital village” để các nước trên thế giới tham khảo.

Nông dân Ninh Bình tích cực đưa nông sản lên các sàn thương mại điện tử. Ảnh: Thùy Dung

Nông dân Ninh Bình tích cực đưa nông sản lên các sàn thương mại điện tử. Ảnh: Thùy Dung

Ông Mai Quang Kìn, Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất, tiêu thụ cây, con đặc sản an toàn Yên Hòa cho biết: “Trước kia, các sản phẩm nông sản của người dân sản xuất ra chỉ bán trong làng, trong xã. Nhờ có chuyển đổi số mà sản phẩm của hợp tác xã được bán rộng khắp huyện, thậm chí nhiều tỉnh, thành phố đặt hàng qua sàn giao dịch điện tử. Thí dụ như sản phẩm cá chạch sụn kho niêu, lượng tiêu thụ tăng gấp hơn 3 lần; thu nhập của người lao động tăng cao, đời sống của các xã viên ngày một nâng lên”.

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Yên Hòa, Hoàng Văn Cảnh cho biết, kinh nghiệm trong chuyển đổi số ở Yên Hòa là xác định rõ mục tiêu lấy người dân làm trung tâm, vì hiệu quả cuối cùng là phục vụ nhân dân. Những thành công bước đầu cùng kinh nghiệm trong thí điểm chuyển đổi số là động lực để địa phương tạo đột phá trong cuộc cách mạng về tư duy, nhận thức, thể chế, chính sách, đem lại tiện ích cho người dân.

Không chỉ có vậy, người dân Yên Hòa nói riêng và nhiều xã khác trên địa bàn toàn tỉnh hiện nay còn được tư vấn chăm sóc sức khỏe từ xa thông qua ứng dụng Medici và hệ thống tư vấn khám, chữa bệnh từ xa Telehealth... Điều này vừa giúp chăm sóc sức khỏe tốt hơn cho người dân ở xa trung tâm, vừa tiết kiệm chi phí cũng như thời gian đi lại…

Tương tự mô hình ở Yên Hòa, trên khắp cả nước, nhiều phường, khu dân cư, tổ dân phố/thôn, chi bộ đã lập trang Zalo cung cấp thông tin, phổ biến pháp luật, thông báo tình hình hoạt động, truyền đạt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền đến người dân.

Ông Nguyễn Văn Hùng, Tổ trưởng Tổ Dân phố số 3, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy (Hà Nội) cho biết: Theo Quyết định số 76/QĐ-UBND ngày 30/3/2024 của Ủy ban nhân dân phường, tổ đã thành lập Tổ chuyển đổi số cộng đồng gồm 5 thành viên có hiểu biết về công nghệ và phương pháp công tác. Tổ đã giúp nhân dân cài đặt các ứng dụng số của chính quyền từ thành phố đến quận, phường, đồng thời thành lập các nhóm cộng đồng số ở các chung cư. Từ những nền tảng này, Tổ dân phố đã giúp bà con nắm bắt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương. Có một thuận lợi là trình độ dân trí cao, các gia đình đều có người hiểu biết về công nghệ nên công việc suôn sẻ.

Trong khó khăn, nhiều tổ đã có cách làm hay. Ông Bùi Văn Trường, Tổ trưởng Tổ công nghệ số cộng đồng thôn Tháp Thượng, xã Song Phượng, Đan Phượng (Hà Nội) cho biết, tổ có 7 thành viên, ngoài lực lượng nòng cốt là những đoàn viên thanh niên đến "từng ngõ, từng nhà, từng người", tổ có thêm những nhân lực đặc biệt là người cao tuổi và đặc biệt là các cháu trẻ được đào tạo bài bản về công nghệ thông tin. Các cụ tuy không nhanh nhạy nhưng lại tuyên truyền rất tốt.

Bà Nguyễn Thị Mới, người dân khu phố Thủ Khoa Thừa, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An chia sẻ: “Được các thành viên trong Tổ công nghệ số cộng đồng tuyên truyền về chuyển đổi số, hướng dẫn tận tình cách thức sử dụng các phần mềm công nghệ số, tôi đã hiểu hơn về lợi ích mà chuyển đổi số đem lại, đồng thời nâng cao trách nhiệm của bản thân trong tham gia vào quá trình chuyển đổi số. Hiện nay, gia đình tôi tải app của ngân hàng để thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt; khi đi khám bệnh chỉ cần mang thẻ căn cước công dân là có thể thực hiện giao dịch các thủ tục hành chính tại các cơ sở khám, chữa bệnh”.

Chia sẻ với phóng viên Báo Nhân Dân, đồng chí Hoàng Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh Quảng Trị cho biết: Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo thành lập Tổ công nghệ số cộng đồng về đến thôn bản (115 tổ cấp xã, 715 tổ cấp thôn; trên 4.320 thành viên). Đây là mạng lưới quan trọng để thúc đẩy chuyển đổi số trong toàn dân. Tổ công nghệ số cộng đồng đi từng ngõ, gõ từng nhà để hướng dẫn người dân sử dụng công nghệ số vào đời sống, xã hội để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống tinh thần, góp phần làm cho nhân dân thấy được lợi ích của việc ứng dụng công nghệ số mang lại để tạo động lực cho họ dám thay đổi vì một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Theo Phó Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh Quảng Trị, Tổ công nghệ số cộng đồng tại địa phương góp phần đưa các nền tảng số, các công nghệ số đến từng gia đình, từng người dân nhanh hơn và hiệu quả hơn. Theo đó, tổ đã giúp người dân biết cài đặt và sử dụng các nền tảng số, công nghệ số như: Cài đặt và sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thanh toán không dùng tiền mặt… Kết quả cụ thể lớn nhất từ sự ra đời của Tổ công nghệ số cộng đồng đó là hỗ trợ cho người dân thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt từ chỉ tiêu đến 2025 đạt trên 35% người trưởng thành có tài khoản ngân hàng (theo Nghị quyết 02-NQ/TU ngày 4/11/2021 của Tỉnh ủy về Chuyển đổi số tỉnh Quảng Trị đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030) đến nay đã lên trên 81% và nhiều người dân đã biết sử dụng công nghệ số để kinh doanh, mua bán thúc đẩy phát triển kinh tế số, thương mại điện tử.

Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Đà Nẵng Nguyễn Quang Thanh cho biết, tính đến nay, toàn thành phố Đà Nẵng có 2.531 Tổ công nghệ số cộng đồng và Đề án 06 được củng cố, kiện toàn với 15.862 thành viên. Tổ công nghệ số cộng đồng và Đề án 06 là lực lượng mang tính huy động sức mạnh toàn dân, ở gần dân, sát dân và là cánh tay nối dài của Ban chỉ đạo chuyển đổi số từ thành phố, quận, huyện đến xã, phường, thôn, tổ, khối phố.

Với phương châm "đi từng ngõ, gõ từng nhà, hướng dẫn từng người”, trên cơ sở chỉ đạo hướng dẫn về nâng cao hiệu quả hoạt động Tổ công nghệ số cộng đồng và công tác chuyển đổi số trên địa bàn thành phố, cùng với sự chỉ đạo trực tiếp từ chính quyền địa phương các cấp; Tổ công nghệ số cộng đồng đã làm tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn đến người dân, cộng đồng dân cư về công tác chuyển đổi số; hướng dẫn các kỹ năng cơ bản như truy cập và sử dụng Internet, thư điện tử; sử dụng dịch vụ công trực tuyến; đăng ký tài khoản định danh điện tử, sử dụng ứng dụng VNeID; hướng dẫn cài đặt và sử dụng nền tảng dùng chung của thành phố như ứng dụng di động Da Nang Smart City, Cổng dịch vụ công trực tuyến, các tiện ích số; phổ cập chữ ký số cá nhân, thanh toán trực tuyến và thương mại điện tử, an toàn thông tin và bảo vệ an toàn thông tin cá nhân trên môi trường internet,… Hoạt động của Tổ công nghệ số cộng đồng đã từng bước đưa công tác ứng dụng chuyển đổi số đi vào thói quen, nếp sống, hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế-xã hội của người dân và cộng đồng dân cư.

Tổ công nghệ số cộng đồng và Đề án 06 là lực lượng tiên phong trong việc triển khai và nhân rộng các mô hình điển hình trong chuyển đổi số như: mô hình “Khu dân cư công nghệ số” tại phường Thạc Gián; mô hình “Điểm hỗ trợ dịch vụ công trực tuyến và chuyển đổi số” tại xã Hòa Bắc; mô hình “chợ không dùng tiền mặt” tại chợ Hòa Nhơn và huyện Hòa Vang,..; thực hiện tốt các nhiệm vụ trong công tác triển khai các nội dung Đề án 06/CP, khảo sát hộ gia đình chưa có điện thoại thông minh trên địa bàn thành phố,...

Bên cạnh đó, Tổ công nghệ số cộng đồng và Đề án 06 còn là lực lượng đóng vai trò quan trọng góp phần hoàn thành các chỉ tiêu chuyển đổi số, xây dựng thành phố thông minh của thành phố Đà Nẵng, tiêu biểu như: tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến toàn trình của thành phố Đà Nẵng cao nhất cả nước với 95% (trung bình các tỉnh, thành phố là 55%); tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến toàn trình là 65% (trung bình là 17%); khoảng 90% dân số trưởng thành có tài khoản định danh điện tử; 45% dân số trưởng thành có tài khoản công dân số;...

Với hiệu quả mang lại, các Tổ công nghệ số cộng đồng thực sự đã trở thành "cánh tay nối dài" của Ban chỉ đạo chuyển đổi số các cấp, góp phần phát huy sức mạnh của toàn dân tham gia vào quá trình chuyển đổi số, thúc đẩy xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số và nhất là công dân số ngay tại cơ sở.

Gian nan hành trình phủ sóng số ở vùng sâu, vùng xa

Giữa cuộc sống còn nhiều thiếu thốn ở thôn Áng Hin, Bắc Kạn - nơi sóng điện thoại và Internet vẫn là xa xỉ, người dân vẫn đang chật vật để kết nối với thế giới số. Những câu chuyện tưởng chừng bình thường như nghe một cuộc gọi hay đọc tin tức trực tuyến lại trở thành nỗi trăn trở.

Gia đình ông Trần Văn Mình, một trong hai hộ nghèo ở thôn Áng Hin, xã Côn Minh, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn đã được cấp điện thoại thông minh theo Thông tư số 14/2022/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông. Tuy nhiên, ông chỉ sử dụng thiết bị này để nghe nhạc và chụp ảnh giải trí, trong khi chiếc điện thoại cũ vẫn là phương tiện liên lạc chính nhưng chất lượng cuộc gọi không ổn định. Ông chia sẻ: “Tôi được cấp một chiếc điện thoại cảm ứng, nhưng vì sóng không có nên chỉ dùng để nghe nhạc và chụp ảnh. Điện thoại cũ thì có lúc bắt được sóng, có lúc không, rất khó liên lạc”.

Thôn Áng Hin là thôn duy nhất của xã Côn Minh chưa có mạng di động và Internet. Với 34 hộ dân, chủ yếu là đồng bào dân tộc Dao, cuộc sống của người dân nơi đây còn nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc liên lạc và tiếp cận thông tin. Anh Trần Văn Phúc, một người dân ở thôn, cho biết: “Ở đây không có sóng điện thoại hay wifi, muốn dùng các ứng dụng như Zalo, Facebook cũng không được. Phải tìm đúng điểm có sóng mới có thể gọi điện, nhưng chất lượng cuộc gọi cũng rất kém”.

Người dân Bắc Kạn được cán bộ xã hướng dẫn cài đặt ứng dụng trên điện thoại thông minh.

Người dân Bắc Kạn được cán bộ xã hướng dẫn cài đặt ứng dụng trên điện thoại thông minh.

Áng Hin hiện có hơn 45% hộ nghèo và trên 50% hộ cận nghèo. Người dân ở đây đang phải sống trong tình cảnh "hai không" - không sóng và không wifi, ảnh hưởng đến sinh hoạt và cuộc sống hằng ngày. Anh Trần Văn Hòa, Bí thư Chi bộ thôn Áng Hin, chia sẻ: “Chúng tôi thường xuyên tổ chức họp thôn để tuyên truyền cho bà con, nhưng nếu có mạng thì sẽ thuận tiện hơn rất nhiều. Hiện nay, việc triển khai các thông báo qua Zalo hay Facebook gặp rất nhiều khó khăn do không có kết nối mạng”.

Tình hình tương tự cũng diễn ra tại các thôn Lùng Vai và Lùng Pảng, nơi người dân không chỉ khó khăn trong việc tiếp cận thông tin mà cuộc sống cũng còn nhiều thiếu thốn. Tại thôn Lùng Vai, tỷ lệ hộ nghèo là hơn 57%, còn ở Lùng Pảng là hơn 21%. Mặc dù hai thôn này đã có sóng điện thoại nhưng chất lượng sóng yếu, và chỉ có một số hộ dân có mạng wifi nhưng kết nối rất chập chờn do địa hình đồi núi chia cắt. Anh Lâm Văn Linh, Trưởng thôn Lùng Vai, cho biết: “Chúng tôi thường phải dùng kẻng để thông báo họp thôn. Nếu không gặp trực tiếp thì phải gọi điện, nhưng không phải lúc nào sóng cũng tốt, nên phải đi gặp từng người”.

Theo kế hoạch của Bộ Thông tin và Truyền thông, sóng 2G sẽ ngừng cung cấp vào tháng 9/2026. Điều này đồng nghĩa với việc những người dân ở các thôn như Áng Hin, Lùng Pảng, Lùng Vai sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tiếp cận thông tin. Mong muốn của bà con là sớm được phủ sóng di động và Internet, để có cơ hội nắm bắt thông tin và hòa mình vào sự phát triển chung của cả nước.

Mặc dù không nằm ngoài xu thế chuyển đổi số là tất yếu, thế nhưng, hiện nay, tỉnh Bắc Kạn vẫn chưa đủ nguồn lực để bắt kịp với dòng chảy này, đáng nói, đã 3 năm liên tiếp, Bắc Kạn đứng cuối báo cáo xếp hạng đánh giá mức độ chuyển đổi số (DTI). 

Theo Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn - đồng chí Nguyễn Đăng Bình, những khó khăn lớn nhất mà Bắc Kạn đang gặp phải trong quá trình chuyển đổi số bao gồm: Hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin trên địa bàn tỉnh chưa đồng bộ. Hiện nay còn 42 thôn, bản chưa phủ sóng thông tin di động; 72 thôn bản chưa có dịch vụ truy nhập Internet cáp quang băng rộng cố định, gây khó khăn cho việc tiếp cận công nghệ và Internet của người dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.

“Cùng với đó, nhận thức và kỹ năng số của người dân còn hạn chế, nhất là tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và người cao tuổi. Thói quen sử dụng công nghệ chưa phổ biến, kỹ năng sử dụng các ứng dụng số còn yếu, dẫn đến việc tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến và tiện ích số gặp khó khăn. Nguồn nhân lực cho chuyển đổi số còn thiếu và yếu trong khi đòi hỏi về các yêu cầu nhiệm vụ của chuyển đổi số là rất lớn. Ngoài ra, tỷ trọng kinh tế số trong tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh còn thấp, chưa đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế chung của tỉnh”, đồng chí Nguyễn Đăng Bình nhận định.

Không đạt được thứ hạng cao về DTI, Quảng Trị có những thách thức không nhỏ. Cụ thể, tỉnh không có các cơ sở đào tạo cao đẳng, đại học, sau đại học có chuyên ngành đào tạo về công nghệ thông tin và chuyển đổi số nên gặp nhiều khó khăn trong công tác phát triển nguồn nhân lực thúc đẩy chuyển đổi số. Ngoài ra, Quảng Trị không có doanh nghiệp nền tảng số nên khó khăn cho việc triển khai thực hiện chương trình thúc đẩy phát triển và sử dụng các nền tảng số quốc gia phục vụ chuyển đổi số tại địa phương. Bên cạnh đó, nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò của công nghệ thông tin và chuyển đổi số chưa thực sự đầy đủ; Nguồn lực (tài chính, con người, hạ tầng) triển khai chuyển đổi số tại cấp huyện và cấp xã còn thiếu và yếu….

Thực tế cho thấy, hiện nay việc phổ cập công nghệ ở các vùng sâu, vùng xa đã bước đầu phát triển, giúp người dân nắm bắt tình hình thời sự trong nước và quốc tế, cập nhật thông tin thời tiết, bão lũ, chủ động phòng tránh thiên tai. Đảng viên trẻ, Trưởng thôn Kho Vàng, xã Cốc Lầu, huyện Bắc Hà (Lào Cai) Ma Seo Chứ, 33 tuổi, nhờ thường xuyên theo dõi tình hình thời tiết, cộng với kinh nghiệm của cha ông, đã kịp thời sơ tán 17 hộ dân với 115 nhân khẩu thoát khỏi thảm họa núi lở. Tuy vậy, việc thành lập các Tổ công nghệ số cộng đồng ở nông thôn, vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn do trình độ dân trí thấp, việc phổ cập kiến thức phổ thông về công nghệ chưa có điều kiện đủ.

Là một trong những tỉnh thí điểm về chuyển đổi số trong cả nước, Ninh Bình xác định rõ trách nhiệm, cơ hội và quyết tâm cao để thực hiện chủ trương chuyển đổi số của Chính phủ và Bộ Thông tin và Truyền thông. Do đó, công tác chuyển đổi số ở Ninh Bình từng có xuất phát điểm thấp đã vươn lên mạnh mẽ và trong nhiều năm nằm trong tốp dẫn đầu của cả nước. 

Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Ninh Bình Đoàn Thanh Hải chia sẻ, tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành chức năng cùng các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn, nâng cao nhận thức cho người dân về chuyển đổi số trong từng lĩnh vực. Qua đó, thúc đẩy người dân mạnh dạn tham gia, áp dụng vào thực tiễn đời sống, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống. 

Chuyển đổi số cấp xã giúp thu hẹp khoảng cách số giữa thành thị và nông thôn, thực hiện đúng quan điểm “lấy người dân làm trung tâm”. Kinh nghiệm, cách làm của Yên Hòa, Khánh Nhạc là tiền đề quan trọng để những năm tiếp theo, các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hoàn thành chuyển đổi số cho 100% xã, phường, thị trấn. Qua đó phấn đấu đến năm 2035, tỉnh Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo; một trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Đồng chí Đoàn Minh Huấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình cho biết, từ năm 2022, Ninh Bình đã vươn lên là tỉnh tự cân đối ngân sách và có điều tiết một phần về Trung ương. Tỉnh Ninh Bình đã và đang thực hiện nhất quán, hiệu quả chiến lược theo hướng phát triển “xanh, bền vững và hài hòa”. Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh là trụ cột cốt lõi cho định hướng chiến lược phát triển tỉnh Ninh Bình đến năm 2035 trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo. 

Những năm qua, tỉnh Ninh Bình đã không ngừng nỗ lực chuyển đổi số. Vì vậy, để chuyển đổi số toàn diện ở Ninh Bình là thực sự cần thiết khi lựa chọn mô hình phát triển dựa trên nền tảng các ngành kinh tế mới nổi, dựa trên đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, theo đó không chỉ thay đổi chuyển đổi số mà thay đổi căn bản phương thức sản xuất, quản trị xã hội.

Còn với tỉnh Quảng Trị, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hoàng Nam khẳng định: Thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh; thời gian qua, nhiều hoạt động thiết thực, hiệu quả thúc đẩy chuyển đổi số ở khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh được triển khai thực hiện như: Triển khai hệ thống tưới cảm biến tự động, cung cấp các địa chỉ số cho các hộ nông dân, gắn tem mã QR truy xuất nguồn gốc các sản phẩm OCOP trên địa bàn, đưa sản phẩm nông sản lên sàn thương mại điện tử. Quảng Trị hiện có 3.757 sản phẩm được đưa lên các sàn thương mại điện tử; tỷ lệ hộ sản xuất nông nghiệp tham gia sàn thương mại điện tử đạt 55%; toàn tỉnh có 113.335 hộ sản xuất nông nghiệp được đào tạo kỹ năng số... Quảng Trị đã huy động nhiều nguồn lực để hỗ xây dựng điểm xã Cam Chính thành xã thông minh để nhân rộng trong toàn tỉnh.

Đà Nẵng và Thái Nguyên - tấm gương về mô hình chuyển đổi số

Theo báo cáo xếp hạng đánh giá mức độ chuyển đổi số (DTI) năm 2022 do Bộ Thông tin và Truyền thông công bố tháng 7/2023, Đà Nẵng là địa phương dẫn đầu về chỉ số chuyển đổi số. Đây là năm thứ 3 liên tiếp Đà Nẵng đứng đầu bảng xếp hạng này.

Đà Nẵng là một trong những địa phương tiên phong trong việc áp dụng các giải pháp công nghệ số vào quản lý đô thị. Được coi là hình mẫu về thành phố thông minh tại Việt Nam, Đà Nẵng đã thành công trong việc xây dựng một hệ thống các dịch vụ công điện tử, kết nối và tối ưu hóa việc phục vụ người dân.

Theo Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Đà Nẵng Nguyễn Quang Thanh, thành phố triển khai chuyển đổi số theo cách tiếp cận Chính sách, Khung kiến trúc để định hướng; Hạ tầng, Dữ liệu làm nền tảng; Ứng dụng thông minh lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm để đánh giá hiệu quả.

Về hạ tầng, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 07-NQ/TU ngày 16/4/2019 về phát triển hạ tầng công nghệ thông tin-truyền thông tiếp cận xu hướng cách mạng công nghiệp 4.0; hạ tầng mạng đô thị, Trung tâm dữ liệu thành phố được nâng cấp, mở rộng, bổ sung năng lực lưu trữ, xử lý bảo đảm cho các hoạt động của thành phố thông minh và các hoạt động của các cơ quan Đảng và mặt trận và đoàn thể chính trị xã hội; kết nối từ thành phố đến phường, xã; kết nối ra quốc tế qua 2 tuyến cáp quang biển , đang xúc tiến đương kết nối cáp quang biển thứ 3.

Về dữ liệu, đến nay thành phố đã hoàn thành các cơ sở dữ liệu dùng chung, kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia; bước đầu hình thành cơ sở dữ liệu GIS không gian đô thị, kho kết quả thủ tục hành chính số và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành, kết nối, chia sẻ, cung cấp gần 1.200 bộ dữ liệu mở để khai thác, tạo ra giá trị phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Dựa trên nền tảng hạ tầng, dữ liệu và công nghệ số, thành phố đã triển khai chuyển đổi cách thức quản lý, điều hành và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp. Đến nay, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến toàn trình của thành phố Đà Nẵng cao nhất cả nước với 95% (trung bình các tỉnh, thành phố là 55%); tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến toàn trình là 65% (trung bình là 17%); được Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số ghi nhận, đánh giá có nhiều mô hình, giải pháp, cách làm hay, hiệu quả và chọn là mô hình điểm để tổng kết, nhân rộng toàn quốc.

Chuyển đổi số ứng dụng thành phố thông minh tại Đà Nẵng. Ảnh: Anh Đào

Chuyển đổi số ứng dụng thành phố thông minh tại Đà Nẵng. Ảnh: Anh Đào

Công tác lãnh đạo, điều hành của thành phố từng bước chuyển đổi sang môi trường số thông qua Trung tâm IOC thành phố cung cấp 15 nhóm dịch vụ thông minh với 159 dịch vụ giám sát và 52 dịch vụ phân tích, cảnh báo sớm và các hệ thống thông tin khác như: Hệ thống thông tin báo cáo điện tử thành phố cho phép tổng hợp các thông tin chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội toàn thành phố; Hệ thống lấy ý kiến các thành viên Ủy ban nhân dân thành phố về các hồ sơ, chương trình, dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân thành phố; Hệ thống thông tin phục vụ cuộc họp của Ủy ban nhân dân thành phố, Phần mềm theo dõi công việc lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố giao, Hệ thống giám sát đỗ xe, Hệ thống giám sát giao thông thông minh, Trung tâm chỉ huy an ninh trật tự,...

Trên bảng xếp hạng đánh giá mức độ chuyển đổi số (DTI), Thái Nguyên có năm thứ 2 liên tiếp xếp thứ 8/63 tỉnh, thành phố trong cả nước về Chỉ số chuyển đổi số. Thái Nguyên là một tấm gương tiêu biểu về chuyển đổi số tại Việt Nam, thể hiện qua những thành tựu ấn tượng trong việc xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Nhờ vào sự lãnh đạo quyết liệt của tỉnh và sự hợp tác chặt chẽ từ các cơ quan như Sở Thông tin và Truyền thông, tỉnh đã đạt được những bước tiến đáng ghi nhận.

Một trong những dấu ấn rõ nét là việc triển khai các nền tảng chính quyền điện tử, với hơn 12.000 tài khoản quản lý điện tử và hơn 94% đảng viên sử dụng Sổ tay đảng viên điện tử. Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý, mà còn tăng cường tính minh bạch và kết nối giữa chính quyền và người dân. Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Thái Nguyên Đỗ Xuân Hòa nhấn mạnh: “Hạ tầng số là yếu tố then chốt trong việc phát triển Thái Nguyên thành tỉnh số toàn diện”.

Ngoài chính quyền số, Thái Nguyên cũng chú trọng đến việc phát triển hạ tầng và công nghệ số, bao gồm mạng 5G và các trung tâm dữ liệu hiện đại. Những giải pháp công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo (AI) và Internet vạn vật (IoT) đang được ứng dụng rộng rãi nhằm tối ưu hóa hoạt động quản lý và mang lại tiện ích thiết thực cho đời sống hàng ngày. Theo Phó Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Thái Nguyên Đào Ngọc Tuất, mục tiêu của tỉnh là “xây dựng một Thái Nguyên số toàn diện, không chỉ dừng lại ở cải cách thủ tục hành chính mà còn nâng cao đời sống xã hội thông qua các tiện ích số”.

Để bảo đảm thành công của công cuộc chuyển đổi số, Thái Nguyên đã thiết lập các Tổ công nghệ số cộng đồng, giúp người dân tiếp cận và sử dụng các dịch vụ số một cách dễ dàng. Những tổ này đóng vai trò như cầu nối giữa chính quyền và cộng đồng, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tận dụng các công cụ số hiệu quả. Các dịch vụ như nộp hồ sơ trực tuyến, khám chữa bệnh từ xa và các ứng dụng thanh toán không tiền mặt đang ngày càng phổ biến, mang lại nhiều tiện ích thiết thực cho cuộc sống.

Thái Nguyên còn đầu tư mạnh mẽ vào phát triển kinh tế số, đặc biệt là trong các lĩnh vực sản xuất và thương mại. Các doanh nghiệp tại đây đã bắt đầu áp dụng các giải pháp công nghệ vào quy trình sản xuất và quản lý, giúp nâng cao năng suất và giảm chi phí. Bên cạnh đó, tỉnh cũng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi sang thương mại điện tử, mở rộng thị trường và tiếp cận với khách hàng một cách nhanh chóng.

Sự nỗ lực không ngừng của Thái Nguyên trong công cuộc chuyển đổi số không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Với cam kết phát triển bền vững, tỉnh đang nỗ lực xây dựng hạ tầng số toàn diện, từ hệ thống y tế, giáo dục đến các tiện ích công cộng. Điều này không chỉ giúp người dân tiếp cận dễ dàng với các dịch vụ thiết yếu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội.

Phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng trong công cuộc chuyển đổi số

Nhân dịp kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết: “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”.

Theo đó, chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế-xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”. Với quan điểm đó, Bộ Chính trị đang xem xét xây dựng Nghị quyết về chuyển đổi số quốc gia và xây dựng Việt Nam số.

"Chúng ta đã hội tụ đủ điều kiện và đang đứng trước cơ hội lịch sử để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".

"Chúng ta đã hội tụ đủ điều kiện và đang đứng trước cơ hội lịch sử để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".

Nhằm chủ động tiếp cận chủ trương, định hướng của Bộ Chính trị và Tổng Bí thư Tô Lâm cũng như đáp ứng yêu cầu phát triển của Đà Nẵng trong thời gian tới, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Đà Nẵng Nguyễn Quang Thanh cho biết, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố đã thống nhất chủ trương tích hợp Đề án Chuyển đổi số và Đề án Thành phố thông minh và ban hành Đề án Chuyển đổi số góp phần thúc đẩy tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội thành phố giai đoạn 2026-2030, định hướng đến năm 2035.

Mục tiêu là hoàn thành cơ bản chuyển đổi số, hình thành thành phố số; hiện đại hóa nền hành chính, quản trị thông minh, quản lý đô thị dựa trên dữ liệu; nâng cao năng suất lao động, kinh tế phát triển nhanh và bền vững; nâng cao chất lượng đời sống người dân, bảo đảm bản sắc văn hóa và các giá trị lịch sử của thành phố được gìn giữ trường tồn và phát huy; kết nối đồng bộ với các mạng lưới đô thị thông minh trong nước và khu vực ASEAN.

Về chính quyền: Chuyển sang chính quyền số, xây dựng nền quản trị thông minh, điều hành dựa trên dữ liệu; số hóa các hoạt động của các cơ quan nhà nước; số hóa các nội dung liên quan đến các tư liệu lịch sử Đảng bộ thành phố và ứng dụng công nghệ số để phục vụ lưu trữ, mô phỏng, trình diễn; quy hoạch số và số hóa hạ tầng, đất đai, giao thông, xây dựng, tài nguyên, môi trường..., ứng dụng công nghệ số phục vụ quản lý đô thị.

Về kinh tế: Tích hợp sâu rộng công nghệ số trong các ngành, lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy tự động hóa, phát triển công nghệ số và dữ liệu số trở thành các yếu tố sản xuất mới; chú trọng các lĩnh vực mũi nhọn mới như vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ tài chính (Fintech); đến năm 2030 quy mô kinh tế số chiếm 35-40% GRDP thành phố.

Về xã hội: Hình thành công dân số (dựa trên khung năng lực số) làm cơ sở phát triển lực lượng sản xuất; người dân trưởng thành có đủ kiến thức, kỹ năng, thái độ trong tham gia các hoạt động trên môi trường số; hình thành văn hóa số, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số mô phỏng, trình diễn trong các hoạt động tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, văn hóa, lịch sử thành phố.

Nhằm thực hiện cuộc cách mạng chuyển đổi số đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, với góc nhìn từ địa phương, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Đà Nẵng cho rằng, cần thống nhất nhận thức và hành động trong toàn bộ hệ thống chính trị, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu trong việc tiên phong, gương mẫu trong ứng dụng chuyển đổi số; đưa nhiệm vụ chuyển đổi số trở thành nhiệm vụ trọng tâm trong Văn kiện Đại hội XIV của Đảng và Đại hội Đảng bộ các cấp để định hướng triển khai trong giai đoạn 2025-2030.

Trong khi đó, tại tỉnh miền núi Bắc Kạn, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các cơ quan cấp tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị và văn bản hướng dẫn cụ thể các giải pháp nhằm giúp các thôn, xã, đặc biệt là những vùng khó khăn, tham gia vào quá trình chuyển đổi số một cách hiệu quả. 

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn Nguyễn Đăng Bình khẳng định: “Chuyển đổi số là một quá trình lâu dài và cần có lộ trình cụ thể. Theo đó, năm 2022, tỉnh Bắc Kạn đã xây dựng và ban hành Đề án tổng thể chuyển đổi số tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030 để làm cơ sở chỉ đạo, triển khai các hoạt động chuyển đổi số bảo đảm sự thống nhất, hiệu quả và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, bảo đảm kết nối liên thông giữa các hệ thống trong tỉnh và với hệ thống của Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương”.

Một trong những chỉ đạo quan trọng là Chỉ thị số 26-CT/TƯ ngày 28/4/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Kạn triển khai các chương trình hỗ trợ người dân, đặc biệt là tại các xã thực hiện thí điểm chuyển đổi số, với mục tiêu tăng tỷ lệ người dân có điện thoại thông minh. Các hoạt động này bao gồm cung cấp điện thoại thông minh và hướng dẫn sử dụng các ứng dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày, giúp người dân tiếp cận với thông tin, dịch vụ công trực tuyến, và các tiện ích thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là một bước tiến quan trọng, giúp bà con vùng sâu, vùng xa tham gia vào xã hội số một cách thuận tiện.

Cấp ủy Đảng tại tỉnh Bắc Kạn cũng đã phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân tỉnh để ban hành các nghị quyết nhằm thúc đẩy nguồn lực cho chuyển đổi số. Cụ thể, Nghị quyết số 31/NQ-HĐND và Nghị quyết số 20/NQ-HĐND ngày 26/4/2023 đã phân bổ và giao dự toán kinh phí sự nghiệp cho các nhiệm vụ chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh, cho thấy sự cam kết mạnh mẽ của chính quyền địa phương trong việc tạo điều kiện và nguồn lực cho quá trình này.

Ngoài ra, để bảo đảm tính đồng bộ và hiệu quả trong quá trình triển khai, Ban Chỉ đạo về Chuyển đổi số của tỉnh đã ban hành nhiều kế hoạch và quyết định quan trọng, như Kế hoạch số 278/KH-UBND ngày 25/4/2023, triển khai đề án tổng thể chuyển đổi số giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030. Các kế hoạch này nhằm cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng, đồng thời đưa ra các biện pháp thực hiện rõ ràng, bao gồm việc phát triển hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực nhân lực số và tăng cường an ninh mạng.

Tỉnh Bắc Kạn cũng khuyến khích sự tham gia của các cơ quan, doanh nghiệp và người dân thông qua các hoạt động như tuyên truyền, phổ biến kiến thức và nâng cao nhận thức về chuyển đổi số. Những nỗ lực này nhằm tạo ra sự đồng thuận và phối hợp chặt chẽ giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền và toàn thể cộng đồng, giúp quá trình chuyển đổi số diễn ra một cách toàn diện và hiệu quả.

Trong 5-10 năm tới, tỉnh Bắc Kạn đặt mục tiêu trở thành một tỉnh tiên phong trong chuyển đổi số, sử dụng công nghệ để thúc đẩy kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Lãnh đạo tỉnh bày tỏ tin tưởng rằng, chuyển đổi số sẽ là "con đường cao tốc" giúp Bắc Kạn rút ngắn khoảng cách phát triển với các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Để biến mục tiêu nêu trên trở thành hiện thực, ngoài sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và người dân, còn cần đến sự hỗ trợ, đồng hành, tư vấn, hợp tác từ Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông quân đội Viettel, Tổng công ty FPT - các tập đoàn mà tỉnh đã ký kết thỏa thuận hợp tác theo quy định.

“Trong thời gian tới, tỉnh Bắc Kạn sẽ tập trung chỉ đạo triển khai đồng bộ 4 nhiệm vụ theo định hướng chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm để thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh phát triển - tạo động lực phát triển mới. Bên cạnh đó, duy trì việc khắc phục những khó khăn, hạn chế trong hoạt động chuyển đổi số hiện nay để nâng cao chỉ số DTI cấp tỉnh và mang lại nhiều lợi ích thiết thực hơn nữa cho người dân và doanh nghiệp”, đồng chí Nguyễn Đăng Bình nhấn mạnh.

Xác định chuyển đổi số là giải pháp có tác động sâu rộng, bao trùm lên tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế-xã hội, thời gian qua, tỉnh Ninh Bình đã tập trung triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, rõ người, rõ việc, mang lại hiệu quả tốt cho chính quyền và người dân.

Ngay trong nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 22, nhiệm kỳ 2020-2025, tỉnh xác định "Xây dựng chính quyền điện tử, chuyển đổi số" là một trong ba khâu đột phá để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Ngay sau đó, Ninh Bình đã ban hành nghị quyết chuyên đề số 01-NQ/TƯ về xây dựng chính quyền điện tử, chuyển đổi số đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

Với quan điểm đó, trong năm 2021 và 2022, tỉnh Ninh Bình đều bố trí nguồn ngân sách ưu tiên dành cho ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền điện tử, chuyển đổi số là 150 tỷ đồng, chiếm hơn 1% tổng chi cân đối ngân sách địa phương, gấp 3 lần so với năm 2020.

Đồng chí Đoàn Thanh Hải, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Ninh Bình trình bày Báo cáo tổng quan chuyển đổi số tỉnh Ninh Bình năm 2024.

Đồng chí Đoàn Thanh Hải, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Ninh Bình trình bày Báo cáo tổng quan chuyển đổi số tỉnh Ninh Bình năm 2024.

Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Ninh Bình Đoàn Thanh Hải chia sẻ, thuận lợi trong quá trình thực hiện chuyển đổi số thời gian qua của Ninh Bình chính là việc tỉnh đã sớm ban hành Nghị quyết về xây dựng chính quyền điện tử, chuyển đổi số với mục tiêu rõ ràng. Do vậy, những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, phù hợp về chuyển đổi số luôn được các cấp, các ngành của tỉnh nêu cao tinh thần và xác định mục tiêu rất cụ thể. Trong đó, các cấp ủy, tổ chức đảng có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện, xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết phù hợp; đưa việc xây dựng chính quyền điện tử, chuyển đổi số vào công tác toàn khóa, từng năm, từng quý để triển khai thực hiện.

Tỉnh ủy Quảng Trị đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 4/11/2021 về về Chuyển đổi số đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030, đây là thể hiện quyết tâm chính trị cao và cả hệ thống chính trị đã vào cuộc. Trong nghị quyết đã giao nhiệm vụ cho toàn hệ thống chính trị đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức và kỹ năng số cho người dân và các cơ quan nhà nước thông qua các phương tiện truyền thông, các hội nghị, hội thảo và thông qua các lớp đào tạo, tập huấn được tổ chức hằng năm.

Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 4/10/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII về Chuyển đổi số tỉnh Quảng Trị đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 xác định: Nông nghiệp, du lịch và y tế là 3 trong 8 lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi số trong giai đoạn 2021-2025.

Trong lĩnh vực nông nghiệp: Thực hiện phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng tỷ trọng của nông nghiệp công nghệ số trong nền kinh tế và hạn chế rủi ro về thiên tai, dịch bệnh trong sản xuất nông nghiệp. Tập trung phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, truy xuất nguồn gốc, triển khai các mô hình thông minh ứng dụng toàn bộ công nghệ số vào sản xuất để nhân rộng.

Người dân làm thủ tục tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Như Quỳnh

Người dân làm thủ tục tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Như Quỳnh

Trong lĩnh vực du lịch: Triển khai số hóa các khu di tích lịch sử, văn hóa, sản phẩm du lịch đặc trưng của Quảng Trị... Hình thành sản phẩm du lịch số bằng công nghệ thực tế ảo để giới thiệu về các điểm đến, các tour tuyến du lịch, sản phẩm, dịch vụ du lịch và phát triển ứng dụng thuyết minh du lịch tự động qua thiết bị di động thông minh, mang đến trải nghiệm tốt hơn cho du khách. Đẩy mạnh phát triển ứng dụng điện thoại di động, website quảng bá du lịch; phát triển truyền thông quảng bá du lịch trên mạng xã hội; cung cấp thêm thông tin phổ biến bằng tiếng Anh; ứng dụng công nghệ AI, tự động hóa, du lịch ảo ứng dụng kỹ thuật số; Virtual Tour (chuyến tham quan ảo) hay Interactive Tour (chuyến tham quan tương tác) phổ biến đối với khách du lịch ở nhiều nước trên thế giới (video 360 độ, ảnh Panorama (toàn cảnh), ảnh Flycam...). Ứng dụng công nghệ để kết nối và chăm sóc khách hàng, kinh doanh và quản trị trên nền tảng số; kết nối quốc gia và quốc tế; kết nối dữ liệu du lịch với các tỉnh trong khu vực Bắc Trung Bộ để kết nối các tour du lịch liên vùng nhằm thúc đẩy phát triển du lịch góp phần phát triển kinh tế số.

Trong lĩnh vực y tế: Thực hiện số hóa hệ thống y tế dự phòng và khám chữa bệnh. Phát triển nền tảng hỗ trợ khám, chữa bệnh từ xa; xây dựng và từng bước hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh dựa trên các công nghệ số; sử dụng hồ sơ bệnh án điện tử tiến tới không sử dụng bệnh án giấy; thực hiện thanh toán viện phí điện tử; xây dựng nền tảng quản trị y tế thông minh dựa trên công nghệ số; tích hợp thông tin, dữ liệu góp phần hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về y tế…

Theo Phó Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh Quảng Trị Hoàng Nam, yếu tố quan trọng giúp địa phương thành công trong chuyển đổi số là sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị, đặc biệt là quyết tâm của người đứng đầu. Nhận thức của người dân đã được nâng lên rõ rệt. Tỉnh đã hoàn thiện cơ bản đầy đủ thể chế; các nền tảng số cơ bản được đầu tư đồng bộ như: Trung tâm giám sát điều hành thông minh tỉnh (IOC), trung tâm giám sát an toàn thông tin mạng (SOC), kho cơ sở dữ liệu, trung tâm tích hợp dữ liệu, nền tảng tích hợp LGSP, cổng dịch vụ công, Cổng thông tin điện tử tỉnh, hệ thống quản lý văn bản điện tử…

Hạ tầng số đã được ưu tiên đầu tư. Trong thời gian tới, Quảng Trị sẽ tiếp tục huy động nguồn lực trong dân và doanh nghiệp bảo đảm hạ tầng viễn thông đến hộ gia đình, mỗi người dân trong độ tuổi trưởng thành có 1 điện thoại di động thông minh bảo đảm đủ phương tiện để ứng dụng công nghệ số.

Chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại nhiều địa phương trên cả nước. Với sự lãnh đạo đúng đắn của các cấp ủy đảng theo tư tưởng mới, mang tính đột phá của Tổng Bí thư Tô Lâm về cuộc cách mạng chuyển đổi số, xây dựng phương thức sản xuất số, cùng sự quyết tâm của chính quyền địa phương và đặc biệt là sự đồng lòng của người dân, cuộc chuyển mình để hiện thực hóa cách mạng số hứa hẹn sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực, góp phần nâng cao đời sống, phát triển kinh tế-xã hội và xây dựng một Việt Nam số hiện đại.

Ngày xuất bản: 30/10/2024 
Tổ chức sản xuất: Ngô Việt Anh
Nội dung: Trung Hưng - Phan Thạch - Văn Lúa - Văn Phường - Tuấn Sơn - Thái Sơn - Anh Đào - Quang Huy
Trình bày: Uyển Hương
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN, Báo Ninh Bình