Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẻ vang của dân tộc, lực lượng công an chi viện đã có mặt ở khắp các chiến trường, lập được nhiều chiến công, hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Trong đó có những cá nhân, những cái tên đã đi vào lịch sử trở thành biểu tượng, niềm tự hào của ngành công an, của dân tộc Việt Nam.

NHỮNG BÍ DANH ĐÃ TRỞ THÀNH HUYỀN THOẠI

Do yêu cầu đặc biệt của cuộc chiến tranh, giai đoạn trước năm 1965, hầu hết các cán bộ chiến sĩ đi chi viện đều phải thay tên đổi họ và có bí danh riêng. Trong đó có những bí danh đã đi vào lịch sử, trở thành huyền thoại và là nỗi khiếp sợ của kẻ thù mỗi khi nhắc tới như Mười Hương, Tư Trọng…

Đến nay, chủ nhân bằng xương, bằng thịt của những bí danh gắn với những chiến công lẫy lừng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ hầu như đều không còn sống, nhưng chiến công của họ vẫn còn được nhắc nhớ, để thế hệ những người Việt Nam thêm tự hào và noi theo.

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tô Quyền - người con ưu tú của quê hương Hưng Yên

Trong ký ức của các thành viên Ban Liên lạc công an chi viện chiến trường miền nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tô Quyền, người con ưu tú của quê hương Hưng Yên là một trong những tấm gương tiêu biểu.

Đồng chí Tô Quyền tham gia hoạt động cách mạng rất sớm, từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 rồi đến kháng chiến chống Pháp. Năm 1965, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, đồng chí lại tiếp tục lên đường vào nam tham gia kháng chiến chống Mỹ khi con trai Tô Lâm mới lên 8 tuổi.

Với bí danh Tô Lâm - tên con trai mình, đồng chí Tô Quyền, được điều động về công tác tại Tây Ninh, căn cứ Trung ương Cục miền nam với chức danh Phó ban An ninh Tây Ninh.

Gia đình Anh hùng Công an Tô Quyền thập niên 70. Ảnh tư liệu

Gia đình Anh hùng Công an Tô Quyền thập niên 70. Ảnh tư liệu

Lúc đó, Tây Ninh là vùng trọng điểm đánh phá ác liệt của Mỹ, ngụy. Các cán bộ hoạt động ở khu vực này hằng ngày phải đối đầu với những thủ đoạn nham hiểm, tinh vi của kẻ thù, cái chết luôn cận kề. Thế nhưng, đồng chí Tô Quyền và đồng đội vẫn bám trụ kiên cường, cùng nhân dân Tây Ninh đập tan nhiều cuộc hành quân, càn quét của địch, triệt phá những ổ biệt kích, gián điệp, Việt gian, góp phần cùng nhân dân miền nam và cả dân tộc "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Sau khi miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, đồng chí lại tiếp tục cùng đồng đội, nhân dân truy quét tàn quân ngụy và các cơ sở địch cài cắm lại, củng cố và xây dựng lực lượng Công an ở vùng mới giải phóng. Đến năm 1977, đồng chí mới được trở về quê hương giữ chức Giám đốc Công an tỉnh Hải Hưng (tên gọi hai tỉnh Hải Dương, Hưng Yên cũ). Tiếp đó đồng chí lần lượt giữ các trọng trách Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông và Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý trại giam…

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tô Quyền - người con ưu tú của quê hương Hưng Yên

Trong ký ức của các thành viên Ban Liên lạc công an chi viện chiến trường miền nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tô Quyền, người con ưu tú của quê hương Hưng Yên là một trong những tấm gương tiêu biểu.

Đồng chí Tô Quyền tham gia hoạt động cách mạng rất sớm, từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 rồi đến kháng chiến chống Pháp. Năm 1965, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, đồng chí lại tiếp tục lên đường vào nam tham gia kháng chiến chống Mỹ khi con trai Tô Lâm mới lên 8 tuổi.

Với bí danh Tô Lâm - tên con trai mình, đồng chí Tô Quyền, được điều động về công tác tại Tây Ninh, căn cứ Trung ương Cục miền nam với chức danh Phó ban An ninh Tây Ninh.

Gia đình Anh hùng Công an Tô Quyền thập niên 70. Ảnh tư liệu

Gia đình Anh hùng Công an Tô Quyền thập niên 70. Ảnh tư liệu

Lúc đó, Tây Ninh là vùng trọng điểm đánh phá ác liệt của Mỹ, ngụy. Các cán bộ hoạt động ở khu vực này hằng ngày phải đối đầu với những thủ đoạn nham hiểm, tinh vi của kẻ thù, cái chết luôn cận kề. Thế nhưng, đồng chí Tô Quyền và đồng đội, đồng chí vẫn bám trụ kiên cường, cùng nhân dân Tây Ninh đập tan nhiều cuộc hành quân, càn quét của địch, triệt phá những ổ biệt kích, gián điệp, Việt gian, góp phần cùng nhân dân miền nam và cả dân tộc "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Sau khi miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, ông lại tiếp tục cùng đồng chí, đồng đội, nhân dân truy quét tàn quân ngụy và các cơ sở địch cài cắm lại, củng cố và xây dựng lực lượng Công an ở vùng mới giải phóng. Đến năm 1977, ông mới được trở về quê hương giữ chức Giám đốc Công an tỉnh Hải Hưng (tên gọi hai tỉnh Hải Dương, Hưng Yên cũ). Tiếp đó ông lần lượt giữ các trọng trách Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông và Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý trại giam…

Mười Hương - Người thầy trong ngành tình báo

Trong số các cán bộ công an chi viện cho chiến trường miền nam, không thể không nhắc đến người thầy tình báo vĩ đại Mười Hương, người đã đào tạo ra những điệp viên lừng lẫy như: Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy…

Theo Thiếu tướng Phan Văn Lai, đồng chí Mười Hương tên thật là Trần Ngọc Ban, quê ở Vụ Bản, Bình Lục, Hà Nam (cũ), tham gia cách mạng năm 1937 trong đoàn Thanh niên Dân chủ Phản đế, từng bị Pháp bắt bỏ tù khi còn vị thành niên tại Hà Nội.

Năm 1943-1945, đồng chí công tác tại Đội trực thuộc Thường vụ Trung ương - Tổ chức tiền thân của ngành công an sau này, làm việc trực tiếp với đồng chí Trường Chinh.

Năm 1954, đất nước chia cắt hai miền, đồng chí được Hồ Chủ tịch giao nhiệm vụ chi viện vào Ban Địch tình xứ ủy Nam Bộ, lãnh đạo một số đầu mối mạng lưới tình báo. Hoạt động được 4 năm, đến năm 1958 ông bị bắt giam cầm tại nhà tù “Chiến hầm” ở Huế. Đây được mệnh danh là “địa ngục trần gian”, nơi rất nhiều cán bộ cách mạng của ta bị giam giữ và hy sinh anh dũng.

Trong suốt 6 năm, dù bị kẻ thù dùng đủ mọi thủ đoạn, bị đối xử tàn bạo, từng ngồi đối chất với ba anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn nhưng nhà tình báo Mười Hương đã không để kẻ địch moi được bất kỳ thông tin nào về nội bộ lực lượng cách mạng.

Theo Anh hùng Phan Văn Lai, khi bị bắt, đồng chí Mười Hương luôn kiên định và nói rõ, nói thẳng vào mặt kẻ thù: “Người cách mạng bị bắt có ba việc không làm: Không khai báo, không nói xấu cách mạng, không nói xấu Chính phủ Cụ Hồ… còn các ông muốn làm gì thì làm”. Bị bắt và xác định “chắc chết thôi” nhưng đồng chí Mười Hương quan niệm có chết cũng phải thật “thanh thản và trong sáng”…

Theo những tài liệu ghi chép và theo chính lời kể của đồng chí Mười Hương sau này, trong những cuộc đấu trí trong nhà tù, nhất là khi kẻ thù đã biết rõ về mình, thì không có cách nào tốt hơn là phải đấu trí trực diện và phải kiên trung, sáng suốt trước mọi cạm bẫy mà chúng đặt ra.

Nhìn lại cuộc đời tù đày, đấu trí căng thẳng trong tù, nhất là thời kỳ 6 năm bị giam giữ ở Huế, lại càng thấy rõ tấm lòng trung trực, sắt son của người anh hùng Mười Hương. Với phẩm chất đạo đức cao đẹp và trí tuệ ưu tú, đồng chí không chỉ là biểu tượng về người thầy, người anh hùng của ngành tình báo công an mà còn là biểu tượng, niềm tự hào của cả đất nước, sự ngỡ ngàng, khâm phục của kẻ thù.

Mười Hương - Người thầy trong ngành tình báo

Trong số các cán bộ công an chi viện cho chiến trường miền nam, không thể không nhắc đến người thầy tình báo vĩ đại Mười Hương, người đã đào tạo ra những điệp viên lừng lẫy như: Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy…

Theo Thiếu tướng Phan Văn Lai, đồng chí Mười Hương tên thật là Trần Ngọc Ban, quê ở Vụ Bản, Bình Lục, Hà Nam (cũ), tham gia cách mạng năm 1937 trong đoàn Thanh niên Dân chủ Phản đế, từng bị Pháp bắt bỏ tù khi còn vị thành niên tại Hà Nội.

Năm 1943-1945, đồng chí công tác tại Đội trực thuộc Thường vụ Trung ương - Tổ chức tiền thân của ngành công an sau này, làm việc trực tiếp với đồng chí Trường Chinh.

Năm 1954, đất nước chia cắt hai miền, đồng chí được Hồ Chủ tịch giao nhiệm vụ chi viện vào Ban Địch tình xứ ủy Nam Bộ, lãnh đạo một số đầu mối mạng lưới tình báo. Hoạt động được 4 năm, đến năm 1958 đồng chí bị bắt giam cầm tại nhà tù “Chiến hầm” ở Huế. Đây được mệnh danh là “địa ngục trần gian”, nơi rất nhiều cán bộ cách mạng của ta bị giam giữ và hy sinh anh dũng.

Trong suốt 6 năm, dù bị kẻ thù dùng đủ mọi thủ đoạn, bị đối xử tàn bạo, từng ngồi đối chất với ba anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn nhưng nhà tình báo Mười Hương đã không để kẻ địch moi được bất kỳ thông tin nào về nội bộ lực lượng cách mạng.

Theo Anh hùng Phan Văn Lai, khi bị bắt, đồng chí Mười Hương luôn kiên định và nói rõ, nói thẳng vào mặt kẻ thù “người cách mạng bị bắt có ba việc không làm: không khai báo, không nói xấu cách mạng, không nói xấu Chính phủ Cụ Hồ… còn các ông muốn làm gì thì làm”. Bị bắt và xác định “chắc chết thôi” nhưng đồng chí Mười Hương quan niệm có chết cũng phải thật “thanh thản và trong sáng”…

Theo những tài liệu ghi chép và theo chính lời kể của đồng chí Mười Hương sau này, trong những cuộc đấu trí trong nhà tù, nhất là khi kẻ thù đã biết rõ về mình, thì không có cách nào tốt hơn là phải đấu trí trực diện và phải kiên trung, sáng suốt trước mọi cạm bẫy mà chúng đặt ra.

Nhìn lại cuộc đời tù đày, đấu trí căng thẳng trong tù, nhất là thời kỳ 6 năm bị giam giữ ở Huế, lại càng thấy rõ tấm lòng trung trực, sắt son của người chiến sĩ anh hùng Mười Hương. Với phẩm chất đạo đức cao đẹp và trí tuệ ưu tú, đồng chí không chỉ là biểu tượng về người thầy, người anh hùng của ngành tình báo công an mà còn là biểu tượng, niềm tự hào của cả đất nước, sự ngỡ ngàng, khâm phục của kẻ thù.

Nguyễn Tài - Người kiên trung bảo vệ cách mạng trong nhà tù Mỹ, ngụy

Được mệnh danh là “Người kiên trung bảo vệ cách mạng trong nhà tù Mỹ, ngụy”, đồng chí Nguyễn Tài Đông (Nguyễn Tài), nguyên Thứ trưởng Công an, con trai thứ hai của nhà văn Nguyễn Công Hoan với biệt danh Tư Trọng cũng là một trong những huyền thoại được lịch sử khắc ghi. Ông cũng chính là người đã xác nhận và minh oan cho thầy Mười Hương, người luôn trung thành với cách mạng, với Tổ quốc, trong suốt 6 năm bị giam cầm.

Theo Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phan Văn Lai, đồng chí Nguyễn Tài sinh ra và lớn lên trong một gia đình có nhiều người tham gia cách mạng sớm và bị tù đày bởi chế độ thực dân. Dù là con trai nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan nhưng ông không theo nghiệp cha mà ngay từ trẻ đã tham gia cách mạng. Hoạt động trong Đoàn Thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu, rồi lên chiến khu Tân Trào học Trường Quân chính kháng Nhật khóa I, tham gia Giải phóng quân. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ông được phân công về Công an Bắc bộ. Từ năm 1957 đến 1964 ông được giao làm Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị, Bộ Công an. Những năm đó, ông và các đồng đội đã có nhiều đóng góp cho công tác tình báo, phản gián.

Năm 1964 ông tình nguyện vào nam trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tham gia và làm Ủy viên Ban An ninh Trung ương Cục miền nam.

Với các bí danh Tư Trọng, Ba Sáng, Tư Duy, trên cương vị nào ông cũng đều nỗ lực hết mình hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đặc biệt ông đã chỉ đạo tiến hành nhiều trận đánh gây tiếng vang cũng như phát hiện nhiều vụ nội gián, bảo đảm an toàn cho lực lượng cách mạng.

Là “tài sản quý của Đảng”, tuy nhiên sau 6 năm hoạt động bí mật, ngày 23/12/1970, ông bị địch bắt. Với bản lĩnh của một sĩ quan an ninh, Nguyễn Tài đã nhanh chóng vạch ra một “trò chơi nghiệp vụ” để đánh lạc hướng và gây rối cho quá trình điều tra, nhằm bảo vệ tuyệt đối cơ sở của Ban an ninh T4 cũng như quyết tâm không để địch phát hiện ra thân phận thật của mình.

Trong thời gian bị giam cầm, ông đã phải trải qua nhiều nhà tù khác nhau. Bị giam giữ và tra tấn dã man suốt gần 5 năm, nhưng ngay cả những tên điệp viên sừng sỏ nhất của CIA và của ngụy quyền Sài Gòn, với các kỹ thuật hỏi cung và tra tấn tinh vi cả về thể xác lẫn tâm lý, cũng không thể khuất phục được ông.

Trong thời gian bị giam giữ, ông chỉ thực sự bị lộ khi địch vô tình thu giữ được một lá thư quan trọng khi bắt được Hai T. (một cán bộ công tác tại Ban An ninh T4). Ngay lập tức địch đã xây dựng một kế hoạch bài bản để moi thông tin của ông. Trong hồi ký, Đại tá Nguyễn Tài kể, khi bắt đầu phát giác ra ông là Tư Trọng - Trưởng Ban An ninh T4 và là con trai của nhà văn Nguyễn Công Hoan, địch đã mang đến cho ông những cuốn tiểu thuyết và những cuốn sách có in ảnh cha ông, rồi mang cả tấm ảnh ông chụp với Bác Hồ trong chuyến đi thăm xứ Nam Dương...

Thời gian đầu, chúng mua chuộc ông bằng cách dùng bác sĩ kiêm nhân viên tình báo đến vừa khám bệnh, vừa đánh vào tâm lý. CIA Mỹ liên tục rót vào tai ông những lời dụ dỗ: “Nếu ông chấp nhận hợp tác với chúng tôi và nếu ông không thích sống trong nước nữa, ngay lập tức ông sẽ có 20 triệu USD và một căn biệt thự ở Thụy Sỹ, sống xa hoa suốt đời như một triệu phú”, nhưng ông từ chối.

Mỗi ngày ông đều bị đưa lên hỏi cung. Giờ hỏi cung khác nhau, không kể đêm ngày. Mục đích của CIA là làm ông rối loạn. Chúng bắt ông nhịn ăn, nhịn uống và giam ông trong một căn phòng sơn trắng toát, có luồng không khí lạnh buốt và không có không khí để thở khiến đầu óc ông rối loạn, không ngủ được. Bị thiếu ăn, lại sống trong điều kiện khắc nghiệt, mất ngủ, cộng với việc thường xuyên bị hỏi cung khiến đã có những lúc đầu óc ông luôn ở trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Nhưng ông đã rèn cho mình một “bản lĩnh thép”. Sợ CIA sẽ tiêm các loại thuốc khiến mình mất kiểm soát, ông còn tập cho mình nói câu “quên”, “quên rồi” để đề phòng ngay cả lúc nửa tỉnh nửa mê ông vẫn có thể nói câu “quên rồi” để bảo vệ cách mạng.

Khi dùng đủ mọi thủ đoạn không mua chuộc được Nguyễn Tài, CIA đã dùng đến những biện pháp tra tấn dã man nhất. Đêm nào chúng cũng đánh ông 4 - 5 trận, vừa tra tấn về thể xác, vừa tra tấn ông về tinh thần. Để củng cố tinh thần của mình, trong tù ông thường xuyên hát Quốc ca, chào cờ. Ông vẽ một ngôi sao ở trên tường và thường nhìn vào đó mỗi ngày để được tiếp thêm sức mạnh…

Với sự kiên trung, bất khuất một lòng bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng, đồng chí Nguyễn Tài được mệnh danh là “Người kiên trung bảo vệ cách mạng trong nhà tù Mỹ, ngụy và dũng cảm bảo vệ nhân cách trong sáng của một đảng viên trước nhân dân”.

Chiến tranh đã qua đi 50 năm, các cán bộ công an chi viện ở rải rác trong cả nước, còn rất nhiều các bí danh, các tên thật trong số hơn 11 ngàn cán cán bộ công an ưu tú chi viện, như đồng chí Hoàng Thanh - ngôi sao sáng trong nhà tù Mỹ Ngụy, vượt qua cực hình tra tấn của địch để trở thành ngôi sao sáng cho đồng đội noi theo giữ vững khí tiết cách mạng. Hay Thượng sĩ an ninh vũ trang chi viện Trần Văn Cường, người trực tiếp ném lựu đạn giữa ban ngày tiêu diệt tên Tướng 2 sao, Tham mưu trưởng Biệt bộ Phủ Tổng thống Ngụy Nguyễn Văn Kiểm tại ngã tư Bà Huyện Thanh Quan vào cuối năm 1968. Đặc biệt, chí khí của đồng chí Mai Chánh (tức Đinh Hoàng Quý) cán bộ cơ yếu chi viện an ninh khu 8, năm 1966, bị bắt khi địch càn quét, bị tra tấn đến chết vẫn không khai nơi chôn cất tài liệu mật mã tuyệt mật…

Cuộc đời và hành động anh hùng của 12 đơn vị mà nòng cốt là cán bộ công an chi viện cùng 21 cán bộ công an chi viện được phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tất cả đều là những câu chuyện huyền thoại, những cái tên đi vào lịch sử, những cái tên đã trở thành tên đường, tên phố để nhắc nhớ thế hệ cháu con mãi mãi không được lãng quên.

Nguyễn Tài - Người kiên trung bảo vệ cách mạng trong nhà tù Mỹ, ngụy

Được mệnh danh là “Người kiên trung bảo vệ cách mạng trong nhà tù Mỹ, ngụy”, đồng chí Nguyễn Tài Đông (Nguyễn Tài), nguyên Thứ trưởng Công an, con trai thứ hai của nhà văn Nguyễn Công Hoan với biệt danh Tư Trọng cũng là một trong những huyền thoại được lịch sử khắc ghi. Ông cũng chính là người đã xác nhận và minh oan cho thầy Mười Hương, người luôn trung thành với cách mạng, với Tổ quốc, trong suốt 6 năm bị giam cầm.

Theo Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phan Văn Lai, đồng chí Nguyễn Tài sinh ra và lớn lên trong một gia đình có nhiều người tham gia cách mạng sớm và bị tù đày bởi chế độ thực dân. Dù là con trai nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan nhưng ông không theo nghiệp cha mà ngay từ trẻ đã tham gia cách mạng. Hoạt động trong Đoàn Thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu, rồi lên chiến khu Tân Trào học Trường Quân chính kháng Nhật khóa I, tham gia Giải phóng quân. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ông được phân công về Công an Bắc bộ. Từ năm 1957 đến 1964 ông được giao làm Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị, Bộ Công an. Những năm đó, ông và các đồng đội đã có nhiều đóng góp cho công tác tình báo, phản gián.

Năm 1964 ông tình nguyện vào nam trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tham gia và làm Ủy viên Ban An ninh Trung ương Cục miền nam.

Với các bí danh Tư Trọng, Ba Sáng, Tư Duy, trên cương vị nào ông cũng đều nỗ lực hết mình hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đặc biệt ông đã chỉ đạo tiến hành nhiều trận đánh gây tiếng vang cũng như phát hiện nhiều vụ nội gián, bảo đảm an toàn cho lực lượng cách mạng.

Là “tài sản quý của Đảng”, tuy nhiên sau 6 năm hoạt động bí mật, ngày 23/12/1970, ông bị địch bắt. Với bản lĩnh của một sĩ quan an ninh, Nguyễn Tài đã nhanh chóng vạch ra một “trò chơi nghiệp vụ” để đánh lạc hướng và gây rối cho quá trình điều tra, nhằm bảo vệ tuyệt đối cơ sở của Ban an ninh T4 cũng như quyết tâm không để địch phát hiện ra thân phận thật của mình.

Trong thời gian bị giam cầm, ông đã phải trải qua nhiều nhà tù khác nhau. Bị giam giữ và tra tấn dã man suốt gần 5 năm, nhưng ngay cả những tên điệp viên sừng sỏ nhất của CIA và của ngụy quyền Sài Gòn, với các kỹ thuật hỏi cung và tra tấn tinh vi cả về thể xác lẫn tâm lý, cũng không thể khuất phục được ông.

Trong thời gian bị giam giữ, ông chỉ thực sự bị lộ khi địch vô tình thu giữ được một lá thư quan trọng khi bắt được Hai T. (một cán bộ công tác tại Ban An ninh T4). Ngay lập tức địch đã xây dựng một kế hoạch bài bản để moi thông tin của ông. Trong hồi ký, Đại tá Nguyễn Tài kể, khi bắt đầu phát giác ra ông là Tư Trọng - Trưởng Ban An ninh T4 và là con trai của nhà văn Nguyễn Công Hoan, địch đã mang đến cho ông những cuốn tiểu thuyết và những cuốn sách có in ảnh cha ông, rồi mang cả tấm ảnh ông chụp với Bác Hồ trong chuyến đi thăm xứ Nam Dương...

Thời gian đầu, chúng mua chuộc ông bằng cách dùng bác sĩ kiêm nhân viên tình báo đến vừa khám bệnh, vừa đánh vào tâm lý. CIA Mỹ liên tục rót vào tai ông những lời dụ dỗ: “Nếu ông chấp nhận hợp tác với chúng tôi và nếu ông không thích sống trong nước nữa, ngay lập tức ông sẽ có 20 triệu USD và một căn biệt thự ở Thụy Sỹ, sống xa hoa suốt đời như một triệu phú”, nhưng ông từ chối.

Mỗi ngày ông đều bị đưa lên hỏi cung. Giờ hỏi cung khác nhau, không kể đêm ngày. Mục đích của CIA là làm ông rối loạn. Chúng bắt ông nhịn ăn, nhịn uống và giam ông trong một căn phòng sơn trắng toát, có luồng không khí lạnh buốt và không có không khí để thở khiến đầu óc ông rối loạn, không ngủ được. Bị thiếu ăn, lại sống trong điều kiện khắc nghiệt, mất ngủ, cộng với việc thường xuyên bị hỏi cung khiến đã có những lúc đầu óc ông luôn ở trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Nhưng ông đã rèn cho mình một “bản lĩnh thép”. Sợ CIA sẽ tiêm các loại thuốc khiến mình mất kiểm soát, ông còn tập cho mình nói câu “quên”, “quên rồi” để đề phòng ngay cả lúc nửa tỉnh nửa mê ông vẫn có thể nói câu “quên rồi” để bảo vệ cách mạng.

Khi dùng đủ mọi thủ đoạn không mua chuộc được Nguyễn Tài, CIA đã dùng đến những biện pháp tra tấn dã man nhất. Đêm nào chúng cũng đánh ông 4 - 5 trận, vừa tra tấn về thể xác, vừa tra tấn ông về tinh thần. Để củng cố tinh thần của mình, trong tù ông thường xuyên hát Quốc ca, chào cờ. Ông vẽ một ngôi sao ở trên tường và thường nhìn vào đó mỗi ngày để được tiếp thêm sức mạnh…

Với sự kiên trung, bất khuất một lòng bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng, đồng chí Nguyễn Tài được mệnh danh là “Người kiên trung bảo vệ cách mạng trong nhà tù Mỹ, ngụy và dũng cảm bảo vệ nhân cách trong sáng của một đảng viên trước nhân dân”.

Chiến tranh đã qua đi 50 năm, các cán bộ công an chi viện ở rải rác trong cả nước, còn rất nhiều các bí danh, các tên thật trong số hơn 11 ngàn cán cán bộ công an ưu tú chi viện, như đồng chí Hoàng Thanh - ngôi sao sáng trong nhà tù Mỹ Ngụy, vượt qua cực hình tra tấn của địch để trở thành ngôi sao sáng cho đồng đội noi theo giữ vững khí tiết cách mạng. Hay Thượng sĩ an ninh vũ trang chi viện Trần Văn Cường, người trực tiếp ném lựu đạn giữa ban ngày tiêu diệt tên Tướng 2 sao, Tham mưu trưởng Biệt bộ Phủ Tổng thống Ngụy Nguyễn Văn Kiểm tại ngã tư Bà Huyện Thanh Quan vào cuối năm 1968. Đặc biệt, chí khí của đồng chí Mai Chánh (tức Đinh Hoàng Quý) cán bộ cơ yếu chi viện an ninh khu 8, năm 1966, bị bắt khi địch càn quét, bị tra tấn đến chết vẫn không khai nơi chôn cất tài liệu mật mã tuyệt mật…

Cuộc đời và hành động anh hùng của 12 đơn vị mà nòng cốt là cán bộ công an chi viện cùng 21 cán bộ công an chi viện được phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tất cả đều là những câu chuyện huyền thoại, những cái tên đi vào lịch sử, những cái tên đã trở thành tên đường, tên phố để nhắc nhớ thế hệ cháu con mãi mãi không được lãng quên.

KÝ ỨC NHỮNG NGƯỜI Ở LẠI

Bên cạnh những cái tên đã trở thành huyền thoại, đi vào lịch sử công an nhân dân là những thanh niên tham gia chi viện khi mới chỉ mười tám, đôi mươi nhưng sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh, hiến dâng cả thanh xuân vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

Bản lĩnh giữa vòng vây quân thù

Chúng tôi tìm gặp Thượng tá, thương binh Bùi Ngọc Thuận khi ông đã ở tuổi 83, đang sống hạnh phúc cùng gia đình và con cháu ở Cao Phong, Phú Thọ. Câu chuyện về người lính dũng cảm, khi chiến đấu trong lòng địch bị thương nặng, gãy tay, lòi ruột… nhưng vẫn cố gắng bò về đơn vị đã trở thành biểu tượng về sự anh dũng của những dũng sĩ diệt Mỹ năm xưa.

“Tôi ở cùng đơn vị với Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phan Văn Lai. Lúc đó, đơn vị đóng quân ngay trong lòng địch. Trên đường trở về thành phố Huế để chiến đấu, chúng tôi bị địch phục kích. Một số đồng chí thoát được, còn lại một số đồng chí bị thương. Trong đó tôi bị thương nặng nhất: gãy tay, gãy 3 xương sườn, thủng phổi và lòi ruột. Trong lúc cấp bách, không có cách nào khác, tôi phải tự ấn ruột vào, rồi tự băng bó và lấy bát úp vào bụng, bò tìm chỗ trú ẩn nghỉ qua một đêm, đến sáng hôm sau dùng mật khẩu tìm đồng đội và trở về căn cứ” - Thượng tá, thương binh Bùi Ngọc Thuận nhớ lại.

Không chỉ Thượng tá Thuận mà ngay cả những đồng chí, đồng đội của ông chứng kiến giây phút phi thường đó cho đến tận bây giờ cũng không thể lý giải được tại sao lúc đó, giữa vòng vây quân thù ông Thuận lại có thể làm được những điều kỳ diệu đến như vậy.

Những “chuyến hàng đặc biệt”

Câu chuyện về Trung tá Đoàn Trọng Cách quê ở Khánh An, Yên khánh, Ninh Bình (cũ), bây giờ là Đông Hoa Lư, Ninh Bình, tham gia chi viện cũng đầy xúc động. Nhà có hai anh em đều tham gia chiến trường miền nam. Riêng ông đã xung phong đi chi viện từ năm 18 tuổi, trực tiếp tham gia chiến đấu. Ông cho rằng, chính tình cảm gắn bó, chia ngọt sẻ bùi giữa những người đồng chí, đồng đội nơi chiến trường đã giúp ông vượt qua gian khổ, ác liệt của cuộc chiến.

Trung tá Đoàn Trọng Cách bùi ngùi kể lại: “Trong suốt quá trình vào nam chiến đấu, xúc động nhất là những ngày đầu vào gặp các đồng chí cán bộ miền nam. Khi gặp chúng tôi, các anh ôm lấy tôi và hỏi thăm về tình hình phát triển ở miền bắc. Sau đó các anh dạy chúng tôi từ cách nói năng, cách tập kết, huấn luyện, cách đi rừng, cách chiến đấu và cả cách cuốn thuốc lá hút mỗi khi nhớ nhà… Là lính trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn, điều kiện ở chiến trường thiếu thốn nhưng các anh luôn nhường cơm cho tôi ăn no. Ngủ các anh mắc võng ở vòng ngoài canh gác cho tôi ngủ ở vòng trong được an toàn. Chỉ bằng những hành động nhỏ nhưng tôi rất cảm động vì những sự quan tâm, tình thương mến như thế này chỉ ở chiến trường mới có”.

Trung tá Đoàn Trọng Cách - Cán bộ công an chi viện chiến trường miền nam trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước chia sẻ những kỷ niệm khó quên. Video: VƯƠNG NAM

Trung tá Đoàn Trọng Cách - Cán bộ công an chi viện chiến trường miền nam trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước chia sẻ những kỷ niệm khó quên. Video: VƯƠNG NAM

Trải qua hoàn cảnh bom đạn ác liệt nơi chiến trường và cũng đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, giờ đây không biết những người anh, người đồng chí năm xưa ông từng gặp như anh Pháo, Anh Trung ở miền bắc; anh Thông, anh Nhung ở miền trung… có còn sống hay không, nhưng mỗi khi nhắc tới ông Cách vẫn rưng rưng xúc động.

Trong thời gian tham gia chi viện được cử vào Ban An ninh khu V, ông Cách vẫn nhớ như in những “chuyến hàng đặc biệt” mà ông phải bảo vệ. Do bí mật của công việc, ông không bao giờ được phép hỏi cụ thể về “chuyến hàng” và giao dịch chỉ bằng các mật khẩu.

Ông nhớ mãi lần bảo vệ “chuyến hàng đặc biệt” là đồng chí Võ Chí Công, lúc đó là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy khu V từ Hà Nội vào họp chuẩn bị phương án giải phóng Buôn Ma Thuột. “Nhận nhiệm vụ đón đồng chí Võ Chí Công từ A Sầu, A Lưới (Thừa Thiên Huế) vào đến huyện Trà My, Quảng Nam-Đà Nẵng (cũ), đến đâu đồng chí cũng xuống trao quà khiến chúng tôi rất lo lắng vì sợ bị địch phục kích. Nhưng rất may mắn là cuối cùng chúng tôi đã bảo vệ và bàn giao đồng chí an toàn” - Trung tá Đoàn Trọng Cách cho biết.

Trung tá Đoàn Trọng Cách cũng không thể nào quên lần bảo vệ “chuyến hàng đặc biệt” khác là đồng chí Khu ủy khu V từ Quảng Nam-Đà Nẵng vào đến Đắk Lắk (cũ). Ông cho biết, lần áp tải “chuyến hàng” này phải đi qua đèo Phượng Hoàng, địa hình hiểm trở lại sương mù phủ kín, nếu bị địch phục kích sẽ rất khó thoát được. Trong quá trình di chuyển, đoàn đã nghỉ một đêm tại Khánh Hòa, sáng hôm sau đồng chí Khu ủy khu V đòi đi sớm, nhưng nhận thấy không an toàn nên ông Cách và lái xe đã tìm cách giữ đồng chí Khu ủy khu V lại. Thật may mắn, lúc đó có đoàn xe của quân đội đi qua, ông Cách đã nhanh trí cho xe của đồng chí Khu ủy khu V đi giữa đoàn. Bởi theo kinh nghiệm, ông cho rằng, nếu địch có phục kích thì sẽ đánh vào đầu hoặc cuối đoàn quân. Nhờ vậy, một lần nữa ông Cách lại lập công bảo vệ an toàn cho các đồng chí cán bộ lãnh đạo cao cấp.

“Sau lần đó tôi đã được biểu dương và được kết nạp vào Đảng sớm”, trung tá Đoàn Trọng Cách chia sẻ.

Trinh sát kỹ thuật thám không – “Tai mắt” của Đảng ở chiến trường

Cũng chi viện cho chiến trường miền nam khi đang ở tuổi đôi mươi, độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời, Thượng tá Nguyễn Đức Viện lại có những kỷ niệm rất đặc biệt khi được là “tai, mắt” của Đảng ở chiến trường.

Thượng tá Nguyễn Đức Viện - cán bộ công an chi viện chiến trường miền nam chia sẻ về vai trò của công tác trinh sát kỹ thuật thám không. Video: VƯƠNG NAM

Thượng tá Nguyễn Đức Viện - cán bộ công an chi viện chiến trường miền nam chia sẻ về vai trò của công tác trinh sát kỹ thuật thám không. Video: VƯƠNG NAM

Theo Thượng tá Viện, ông vào ngành công an từ lúc mới 16 tuổi, với chuyên ngành trinh sát thám không. Năm 1972, cùng với 500 cán bộ kỹ thuật chi viện cho miền nam, ông được phân vào Tiểu ban Bảo vệ chính trị, Ban An ninh Trung ương Cục. Ông được giao nhiệm vụ khai thác tin tức của ngụy quyền Sài Gòn và thu mạng đài cảnh sát quốc gia, mạng đài của gián điệp, biệt kích, đặc biệt là "Tình báo quân đội Việt Nam Cộng hòa"... Bằng nghiệp vụ đặc biệt, ông đã cùng với đồng đội thu giữ dịch mã hàng nghìn bức điện, cung cấp nhiều thông tin quan trọng của địch cho cách mạng. Trong đó có nhiều thông tin được báo cáo lên tận Trung ương Đảng.

Nhớ lại những ngày gian khổ vượt núi, băng rừng chi viện cho “miền nam ruột thịt”, Thượng tá Nguyễn Đức Viện cho biết: "Cuối tháng 4/1972, đoàn chi viện chúng tôi gồm 21 người và máy móc được đi trên 5 xe com-măng-ca bắt đầu nam tiến. Đến Hà Tĩnh, đoàn gặp ngay một trận bom, song may mắn không thiệt hại về người. Tối hôm sau, đoàn đến Quảng Bình thì lại trúng trận pháo kích của địch, thế là kế hoạch nghỉ ngơi đành hủy bỏ khi giao liên yêu cầu phải đi ngay. Đoàn phải băng rừng, lầm lũi đi trong đêm, trong đó có khoảng 20km trong lòng suối cạn.

Đến khu vực đường 9 giáp Lào, phải đi mất hơn 2 tuần nữa mới đến Stung Treng (Campuchia), đoàn mới dừng lại nghỉ chờ cán bộ của Ban An ninh Trung ương Cục ra đón. Trên đường đi, anh em hoàn toàn khỏe mạnh, vậy mà đến lúc nghỉ chờ thì 4-5 đồng chí sốt rét, nằm võng rên từng cơn".

Căn cứ Ban An ninh Trung ương Cục lúc bấy giờ nằm trong một cánh rừng ở Campuchia, được dựng lên bằng những thân cây rừng rồi lợp mái ni-lông. Đến ngày 19/5/1972, tròn một tháng kể từ ngày nam tiến, đơn vị mới bắt đầu dựng máy thu tin, chủ yếu từ các mạng "Cảnh sát quốc gia" ở Tây Ninh và "Tình báo quân đội" của ngụy, hay còn gọi là "Biệt đội sưu tập". Đây là tổ chức thường xuyên tung các toán gián điệp, xây dựng cơ sở trà trộn trong vai những người buôn bán để điều tra căn cứ cách mạng của ta, chỉ điểm cho địch tập kích, ném bom rải thảm...

Không trực tiếp chiến đấu như nhiều đồng đội khác, nhưng các cán bộ chiến sĩ trong đơn vị vừa phải thu bắt tín hiệu, vừa phải tự đi kiếm củ rừng, hay đi săn, đi kiếm rau, măng rừng để cải thiện bữa ăn. Không những thế, những ngày trong rừng thiêng nước độc, 100% cán bộ đều bị sốt rét. “Hết tháng này sang tháng khác, lúc nào căn cứ cũng có người bệnh, mỗi lần kéo dài 5 ngày đến 1 tuần, có những người phải nằm trạm xá đến 2-3 tháng”, ông Viện cho biết.

Cả đội còn phải đối phó với những cơn “mưa bom” của địch. "Tôi nhớ rõ lần ấy khoảng 13h, Mỹ rải thảm B52 ở căn cứ. Người ngồi làm việc, người nằm võng thì nghe thấy ào ào, ầm ầm như trận giông bão cực lớn. Trời đất tối tăm, cây cối gãy đổ, mảnh bom đạn vương vãi khắp nơi... Ba người trong căn cứ đã hy sinh", Thượng tá Viện xúc động nhớ lại.

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, đơn vị ông được lệnh di chuyển về căn cứ ở Tây Ninh. Nơi đây cũng được mệnh danh là “rừng thiêng nước độc” không kém. Do sốt rét nhiều, ăn uống kém nên thi thoảng ông bị ngất, có khi tháng bị 1-2 lần. Đến tháng 2/1975, trong một đợt đổi quân, ông được trở ra bắc.

Thượng tá Lê Thị Hồng và Trung tá Hà Thị Lan.

Thượng tá Lê Thị Hồng và Trung tá Hà Thị Lan.

Những “bông hồng thép” giữa rừng già

Tham gia chi viện cho chiến trường miền nam lúc đó còn có cả những nữ thanh niên tuổi đời còn rất trẻ, tiêu biểu như Thượng tá Lê Thị Hồng ở Ban Liên lạc hiện nay. Tham gia “trường nữ trinh sát đặc biệt" khi mới 14 tuổi, học được hơn 3 năm, thì Lê Thị Hồng viết đơn xin tình nguyện vào nam. "Khi đó, các bác lãnh đạo thấy trong miền nam gian khổ quá, không muốn cho tôi đi, nhưng tôi cứ khóc đòi đi” - bà Hồng chia sẻ.

Thượng tá Lê Thị Hồng - Cán bộ Công an chi viện miền nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước chia sẻ về công việc tại Trung ương Cục miền nam. Video: VƯƠNG NAM

Thượng tá Lê Thị Hồng - Cán bộ Công an chi viện miền nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước chia sẻ về công việc tại Trung ương Cục miền nam. Video: VƯƠNG NAM

“Được chọn đi chi viện miền nam lúc đó là một niềm tự hào đối với các học viên, cả trường chỉ chọn được 27 người. Chúng tôi được chở xe đến Hà Tĩnh rồi từ đó đi bộ theo đường rừng khoảng 3 tháng tới Trung ương Cục miền nam. Một lần đoàn đang nghỉ thì máy bay địch tới ném bom, cả đoàn nhanh chóng ẩn nấp, may mắn không có thiệt hại về người” - bà Hồng bồi hồi nhớ lại.

Tới căn cứ, bà được phân về công tác tại Trung ương Cục miền nam cùng hai đồng chí nữa. "Bố tôi là chiến sĩ Điện Biên, từng tham gia đánh trận đồi A1 và hy sinh khi tôi mới 2 tuổi. Có lẽ được thừa hưởng tinh thần quả cảm từ bố, nên tôi đã tự lập từ nhỏ. Trong chiến tranh, dù khó khăn gian khổ nhưng tôi luôn giữ vững tinh thần thép hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Hồi ấy, mỗi đêm tôi phải thu 40 đến 50 bức điện. Do nhiễu cao, chúng tôi phải căng tai, căng não tập trung bắt tín hiệu và đánh đúng ký tự, ghi lại thật chính xác để đồng đội bên cơ yếu dịch đúng, dịch chuẩn nội dung các bức điện của địch phục vụ cách mạng" - bà Hồng cho biết.

Nhớ lại những ngày khó khăn trong rừng, bà Hồng chia sẻ thêm: "Do yêu cầu nhiệm vụ bí mật nên chúng tôi đều ở trong rừng, phải tự túc hoàn toàn, ban ngày tự đi làm nương rẫy, kiếm rau rừng. Khổ nhất là mùa khô thiếu nước sinh hoạt, chị em phụ nữ có nhiều điều rất bất tiện. Dù khó khăn gian khổ là vậy, nhưng chúng tôi vẫn luôn vui vẻ, yêu đời, không bao giờ nao núng tinh thần".

Được vào chi viện cho miền nam năm 1969, cùng là cán bộ kỹ thuật như bà Hồng, Trung tá Hà Thị Lan (sinh năm 1948) lại có những kỷ niệm không thể nào quên. “Tôi viết thư xung phong đi chi viện khi đã có người yêu, nhưng sợ mình vướng bận, tổ chức sẽ cân nhắc nên phải giấu, nói dối là chưa có người yêu để được đi”.

Trung tá Hà Thị Lan - Cán bộ Công an chi viện miền nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước chia sẻ kỷ niệm vượt Trường Sơn năm xưa. Video: VƯƠNG NAM

Trung tá Hà Thị Lan - Cán bộ Công an chi viện miền nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước chia sẻ kỷ niệm vượt Trường Sơn năm xưa. Video: VƯƠNG NAM

Là phụ nữ, lại phải hành quân ròng rã suốt 4 tháng mới đến được Trung ương cục miền nam, đường đi gian khổ, lại  bị sốt rét rừng, nên khi đến nơi bà phải nằm viện 4 tháng nữa. Trong thời gian nằm viện bà chỉ mong nhanh khỏe để được ra phục vụ chiến đấu. “Sau này, tôi còn nhiều lần bị sốt rét nữa. Mỗi lần thấy mình tự nhiên ăn khỏe lên là biết sắp bị sốt rét" – bà Lan cười nhớ lại.

Được giao nhiệm vụ dịch các bức thư, điện tín, bà Lan xúc động nhất mỗi khi đọc những bức thư báo tin đồng đội hy sinh nhưng vẫn kiên cường giữ bí mật, giữ được tài liệu cho tổ chức.

Bên cạnh những cái tên, những bí danh đã làm nên lịch sử, rạng danh đất nước, còn biết bao những anh hùng, liệt sĩ hoạt động bí mật, giấu mình trong lòng địch chưa thể công khai. Mồ hôi, xương máu của các anh, các chị đổ xuống để đất nước được “nở hoa độc lập, kết trái tự do”. Các anh, các chị ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa Xuân”, vì thế tên các anh các chị đã trở thành “tên đất nước” và góp phần tạc nên dáng hình một Việt Nam bất khuất, kiên trung. Đúng như nội dung Bức trướng Đảng ủy Công an Trung ương trao tặng Lực lượng Công an chi viện chiến trường miền nam trong Lễ kỷ niệm 62 năm ngày truyền thống (21/2/1962-21/2/2025): Kiên trung, Bất khuất, Mưu trí, Dũng cảm.

Ngày xuất bản: 18/8/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH-NAM ĐÔNG
Nội dung: KIM THOA
Trình bày: BẢO MINH
Ảnh: VƯƠNG NAM, BAN LIÊN LẠC CÔNG AN CHI VIỆN CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM