CUỘC ĐẤU TRÍ
GIỮA HAI BỘ THỐNG SOÁI
CỦA TA VÀ CỦA ĐỊCH

Xin giới thiệu bài viết của Đại tá Trần Trọng Trung được trích trong cuốn Sách Điện Biên Phủ, hợp tuyển công trình khoa học của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
Cuộc đấu trí trong năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp (và nói chung trong suốt chín năm) là cuộc đấu trí giữa:
Một bên là, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, một đảng mácxít kiên cường lãnh đạo toàn dân Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Giúp Trung ương trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến về mặt quân sự là Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh, và Một bên là, gần hai chục chính phủ kế tiếp nhau của nền Đệ tứ Cộng hòa Pháp. Điều hành "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" ở Đông Dương theo đường lối của Pari là các viên cao ủy và tổng chỉ huy đội quân viễn chinh Pháp (C.E.F.E.O). Trong những năm cuối thêm sự can thiệp của đế quốc Mỹ.
Trải qua bảy năm (1945-1952) ta đã liên tiếp làm thất bại từng kế hoạch chiến lược của địch, từ kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh" của Lơcléc-Valuy, kế hoạch phong tỏa biên giới và "làm chủ vùng đồng bằng có ích" của Bledô-Cácpăngchiê, đến kế hoạch giành lại quyền chủ động chiến lược của Đờ Lát Đờ Tátxinhi-Xalăng. Chính nhờ những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược đó mà "sang năm thứ tám của cuộc kháng chiến, những triển vọng vô cùng tốt đẹp về thắng lợi đã mở ra trước mắt nhân dân ta".
Bước sang năm 1953, nhất là từ mùa Hè, với việc cử tướng Nava sang làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh, rõ ràng là địch đang chuẩn bị một âm mưu chiến lược mới. Vấn đề đặt ra với Bộ Thống soái của ta là nắm và đánh giá đúng âm mưu và khả năng sắp tới của địch, có biện pháp chỉ đạo chiến lược sắc bén, kịp thời để giành thắng lợi lớn hơn trong cuộc đấu trí mới, nhằm đánh bại nỗ lực quân sự cao nhất của xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ. Thực tế đã chứng minh, cuộc đấu trí trong năm cuối của cuộc chiến tranh đã diễn ra hết sức khẩn trương, phức tạp, bằng những nước cờ liên tục và xen kẽ nhau, từ tháng 5/1953 (khi Nava nhậm chức, kế hoạch chiến lược của địch hình thành) đến tháng 5/1954 (khi ta giành toàn thắng ở Điện Biên Phủ).
1. Hai bộ thống soái xác định phương hướng chiến lược và xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược (từ tháng 5 đến tháng 8/1953)
Đây là bước đấu trí đầu tiên, diễn ra trong trạng thái mà dư luận phương Tây gọi là "thầm lặng". Ta và địch vừa xác định phương hướng chiến lược, xây dựng và hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến chiến lược, vừa tìm mọi biện pháp để thăm dò, tìm hiểu, phán đoán ý đồ chiến lược sắp tới của đối phương, đồng thời chuẩn bị các yếu tố cần thiết để biến chủ trương chiến lược thành hiện thực thắng lợi.
Nava sang Đông Dương trong bối cảnh nước Pháp đã thế yếu, lực suy, bối cảnh mà dư luận đánh giá bằng một hình ảnh: con bò cái Pari, già nua và còm cõi, đã bị cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương vắt đến những giọt sữa cuối cùng. Trong khi đó, ở Đông Dương "bù nhìn không làm nổi bù nhìn"; quân đội tay sai chưa bước sang "thời kỳ cai sữa". Mỹ ép Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh, còn Pháp thì "đang tìm kiếm một lối thoát danh dự". Thoát như thế nào còn là một ẩn số. Nhưng tất nhiên, với việc "xuất" một viên tướng được coi là "có nhãn quan chiến lược", Pari hy vọng rằng lối thoát danh dự đồng nghĩa với lối thoát bằng một thắng lợi quân sự có tầm chiến lược. Thế là một kế hoạch chiến lược tương đối hoàn chỉnh ra đời, nhằm cải biến tình hình, chuyển bại thành thắng và trong một thời gian tương đối ngắn, giành lấy một thắng lợi có tính chất quyết định.
Qua các nguồn tin công khai và bí mật, Bộ Thống soái của ta bám sát từng bước sự hình thành của kế hoạch Nava. Kế hoạch chiến lược này được Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua ngày 24/7/1953. Chính với niềm tin vào tư tưởng chỉ đạo "tiến công, chủ động tiến công" của kế hoạch Nava mà Pari chấp thuận vét túi gửi quân tăng viện sang Đông Dương, về phía Mỹ, tướng Ô. Đanien cho rằng: với kế hoạch Nava, thắng lợi quân sự của người Pháp đã "ở trong tầm tay". Vì vậy, Oasinhtơn chấp thuận bỏ ra 385 triệu đô-la viện trợ cấp tốc, với hy vọng rằng công thức đô-la Mỹ + máu Pháp sẽ có thêm điều kiện để làm nên chuyện.

Về phía ta, phương hướng chiến lược Thu Đông 1953 đã được xác định sớm, từ tháng 1, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương. Đó là phương hướng "tạm thời "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do". Theo phương hướng đó, "quân đội ta phải đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng địch. Bất kỳ ở miền núi hay đồng bằng, quân đội ta phải chuẩn bị đánh những lực lượng, những cứ điểm ngày càng mạnh của địch".
Từ sau chiến thắng Sầm Nưa (4/1953), mọi công tác chuẩn bị chiến lược của ta đã được triển khai theo phương hướng đó. Đến tháng 8, sau khi đã nắm được những nét lớn về kế hoạch chiến lược của Nava (nhất là việc tập trung lực lượng ở đồng bằng Bắc Bộ) trong đề án trình Bộ Chính trị ngày 20/8/1953, Tổng Quân ủy đã đề đạt chủ trương chiến lược và phương hướng tác chiến trong Thu Đông nhằm phá âm mưu địch, làm thất bại một bước kế hoạch chiến lược của Nava.

Trên cơ sở nhận định rằng, hiện chưa có điều kiện để tác chiến lớn ở đồng bằng, Tổng Quân ủy đề nghị: nhiệm vụ trước mắt là phải phá âm mưu tập trung binh lực và "bình định" đồng bằng của địch để tạo điều kiện tác chiến tương đối lớn. Cụ thể là:
1. Cần đẩy mạnh cuộc đấu tranh và chiến tranh du kích ở địch hậu.
2. Chủ lực phải dùng phương thức hoạt động thích hợp để tiêu diệt từng bộ phận nhỏ sinh lực địch và giúp địch hậu đẩy mạnh cuộc đấu tranh.
3. Tăng cường lực lượng võ trang và bán võ trang vùng tự do, và có kế hoạch tiêu diệt địch khi chúng đánh ra, bảo vệ vùng tự do.
4. Tăng cường hoạt động ở Thượng Lào và ở các chiến trường khác để phân tán chủ lực của địch.
Đề án của Tổng Quân ủy được hội nghị Bộ Chính trị thông qua. Tây Bắc được chọn làm hướng chính để mở chiến dịch tiến công trong Thu Đông. Hội nghị nhấn mạnh phương châm "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt". Theo phương châm đó, ta sẽ không bị động chờ đợi mà phải tự mình xoay chuyển tình hình sao cho có lợi cho ta. Ta sẽ sẵn sàng đánh với một kẻ địch như thế này và cũng sẵn sàng đánh với một kẻ địch như thế khác. Kết luận hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "... Hướng chính (Tây Bắc) hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hóa..." .
Hướng chính (Tây Bắc) hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hóa...
Thế là chỉ trong bước đầu của cuộc đấu trí giữa ta và địch, đã xuất hiện sự khác biệt rõ rệt trong vấn đề "biết mình, biết người". Trong khi Bộ Thống soái Pháp gấp rút xây dựng lực lượng dự bị chiến lược mạnh và tập trung lực lượng ra chiến trường miền Bắc để giữ vững vùng châu thổ sông Hồng (vì họ đinh ninh rằng ta sẽ chọn đồng bằng Bắc Bộ làm hướng tiến công chiến lược chính trong Thu Đông tới), thì về phía ta, trên cơ sở phân tích tình hình khách quan về so sánh lực lượng và đặc điểm chiến trường, ta chủ trương "tạm thời tránh chỗ mạnh" (đồng bằng Bắc Bộ), tập trung lực lượng mở những chiến dịch tiến công trên chiến trường rừng núi, nơi quân ta có điều kiện thuận lợi hơn để tiêu diệt sinh lực địch và buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng để đối phó, tạo điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực quan trọng của chúng.
2. Sự bất lực của Bộ Thống soái Pháp trong những nước cờ đầu tiên (từ tháng 7 đến tháng 11/1953)
Hoạt động của địch trong thời gian này không những mang tính chất thăm dò mà còn nhằm hạn chế khả năng triển khai kế hoạch chiến lược của ta. Ta và địch đều nỗ lực chuẩn bị chiến lược, chạy đua trong việc tạo thế, tạo lực có lợi. Hai bên đều vừa triển khai kế hoạch chiến lược đã được xác định, vừa tiếp tục tìm hiểu để kết luận về ý đồ và khả năng cụ thể của đối phương.
Ngay từ bước đầu thực hiện kế hoạch chiến lược, Nava đứng trước những yêu cầu chiến lược rất lớn do chính kế hoạch đó đặt ra. Một là, phải tập trung lực lượng ở đồng bằng Bắc Bộ, vừa để xây dựng quả đấm chiến lược mạnh, vừa để sẵn sàng bảo vệ vùng đồng bằng đông người, nhiều của. Hai là, làm thế nào để ứng cứu kịp thời vùng Thượng Lào nếu chiến trường này bị uy hiếp. Ba là, tốt nhất làm sao phá được (ngay từ đầu) việc triển khai kế hoạch chiến lược của ta, không cho ta mở những cuộc tiến công lớn vào vùng châu thổ sông Hồng.
Để đáp ứng mấy yêu cầu chiến lược trên đây, Nava quyết ra tay trước. Những hoạt động mà viên Tổng Chỉ huy Pháp gọi là "món ăn đầu bữa" không chỉ nhằm tuyên truyền cho tư tưởng "chủ động tiến công" gây sức ép với Pari và Oasinhtơn để có thêm quân tăng viện và vũ khí viện trợ, mà còn nhằm theo dõi động tĩnh của ta.
Mở đầu là cuộc hành quân Con én (17-20/7/1953) của hai tiểu đoàn dù tập kích chớp nhoáng xuống Lạng Sơn, nơi mà Phòng Nhì cho rằng có kho vũ khí quan trọng của ta. Kết quả: "Hành động kỳ quặc này có tiếng vang về tinh thần hơn là thực tế... Việt Minh tỏ ra không hề lo ngại gì đối với cuộc hành binh đó...". Tiếp đến là cuộc hành binh Camácgơ (28/7- 4/8) của 30 tiểu đoàn các loại, được coi là "một trong những chiến dịch lớn nhất Đông Dương", nhằm bao vây và tiêu diệt Trung đoàn 95 của ta. Kết quả "vì vòng vây quá lỏng" nên Trung đoàn 95 vẫn tồn tại và sẵn sàng hoàn thành các nhiệm vụ chiến đấu khác...
Sau mấy lần xuất quân, không thấy động tĩnh của chủ lực ta, Bộ Thống soái Pháp đi đến kết luận có tính khẳng định: Việt Minh sẽ tập trung toàn bộ nỗ lực của họ đánh vào vùng châu thổ Bắc Kỳ bằng ba lực lượng: các trung đoàn tại chỗ, các đại đoàn từ trung du ép xuống và từ phía nam thọc lên. Phải mau chóng có biện pháp làm giảm nhẹ, tiến tới vô hiệu hóa sức ép đó của đối phương.
Để tăng thêm lực lượng bảo vệ đồng bằng, ngày 8/8/1953, Bộ Thống soái Pháp cho rút quân khỏi Nà Sản "con đê ngăn sóng" của Xalăng đã một thời "nổi tiếng" nay không còn tác dụng nữa vì phía Pháp cho rằng Tây Bắc không còn bị uy hiếp. Giành được bất ngờ trong việc rút khỏi Nà Sản bằng máy bay, Bộ Thống soái Pháp có thêm sáu tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo bổ sung vào cái túi cơ động chiến lược ở đồng bằng.
Tiếp đến là cuộc càn quét quy mô lớn, vừa để "xóa những chấm đỏ", bảo đảm cho hậu phương của quân viễn chinh khỏi bị "ruỗng nát nghiêm trọng", vừa để bắt lính và đồng thời tạo điều kiện cho các binh đoàn cơ động dìu dắt và thử sức các tiểu đoàn khinh quân mới lọt lòng. Nhưng rồi, như chính người Pháp sau này (tướng Y. Gra) thú nhận, các cuộc càn quét chỉ thu được những kết quả ít ỏi… Việc thử nghiệm các tiểu đoàn khinh quân mở đầu bằng một thất bại nặng nề.

Cùng trong thời gian này, mặc dù đã phải tập trung chừng 40 tiểu đoàn cơ động ở vùng đồng bằng, nhưng phía Pháp vẫn chưa yên tâm. Các binh đoàn chủ lực của ta vẫn "im lặng đứng chân" trên cả hai hướng bắc và nam vùng châu thổ sông Hồng. Bộ Thống soái Pháp đi đến một quyết định mới: phải đánh chiếm một địa bàn cơ động có thể cùng một lúc đáp ứng mấy yêu cầu: 1. Thu hút bốn sư đoàn chủ lực đối phương (đang tập trung ở vùng trung du) để đỡ gánh nặng cho đồng bằng; 2. Bảo vệ được Thượng Lào, một yêu cầu có ý nghĩa chính trị quan trọng(!); 3. Yểm trợ được cho Lai Châu và vùng Tây Bắc nói chung.
Địa bàn nhạy cảm đầy sức hấp dẫn đó, suy cho cùng, chỉ có thể là Điện Biên Phủ, với mọi ưu thế về vị trí chiến lược quân sự, về chính trị và cả về kinh tế. Từ giữa tháng 9, cơ quan tham mưu Pháp bắt đầu chuẩn bị một kế hoạch hành quân mang tên Chuột biển chiếm đóng Điện Biên Phủ bằng ba lực lượng: từ Thượng Lào sang, từ Lai Châu về và từ trên không nhảy dù xuống cánh đồng Mường Thanh.
Đối với vùng phía nam đồng bằng, sự có mặt của các Sư đoàn 304 và 320 vẫn là một mối nguy cơ đối với hậu phương quân viễn chinh. Phải "chủ động" phá kế hoạch tiến công của hai sư đoàn này. Thế là thêm một cuộc hành binh được thực hiện, cuộc hành binh Hải Âu ngày 15/10-7/11 của 32 tiểu đoàn các loại tiến công ra hướng tây-nam Ninh Bình. Kết quả, như tờ Thế giới (27/10) nhận xét: "Cứ theo đà này thì quân tăng viện (từ Pháp sang) chỉ đủ bù vào số quân bị tổn thất".
Sau khi buộc phải cho Hải Âu lui quân, Bộ Thống soái Pháp vẫn chưa giải đáp được câu hỏi từ lâu đặt ra: Động tĩnh của đối phương thế nào? Các cuộc hành binh đầu tay của Nava chưa tìm ra đáp số. Họ không hề biết rằng mọi công tác chuẩn bị chiến trường của ta trên hướng Tây Bắc đã được triển khai từ mùa Hè và đang trong giai đoạn hoàn thành nhằm phục vụ cho chiến dịch giải phóng Lai Châu. Phòng Nhì Pháp không tìm ra một tin tức gì mới về các binh đoàn chủ lực của ta. Trong khi đó, "chúng ta vẫn bình thản tiếp tục kế hoạch đã định"1, bao gồm cả việc xuất quân của Sư đoàn 516 lên hướng Tây Bắc và việc phố biến kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954 tại cơ quan Tổng hành dinh ở Việt Bắc.
Giữa lúc đó, một sự kiện quan trọng đã xảy ra, đánh dấu một bước phát triển mới trong cuộc đấu trí giữa ta và địch. Phát hiện Đại đoàn 316 của ta tiến quân lên Tây Bắc, mặc dù chưa chuẩn bị kịp kế hoạch phối hợp với Lai Châu và Thượng Lào, Bộ Thống soái Pháp vội vã thực hiện cuộc hành binh Chuột biển đơn thuần bằng quân dù ném xuống Điện Biên Phủ (20-22/11/1953). Khối cơ động chiến lược (chưa xây dựng xong) đã bắt đầu bị phân tán. Nava không hề nghĩ rằng việc ném sáu tiểu đoàn xuống lòng chảo Mường Thanh là sự kiện mở đầu thảm hoạ cho cuộc đời binh nghiệp của chính ông ta và cũng là bắt đầu một chương bi thảm nhất trong lịch sử xâm lược của quân viễn chinh Pháp.
Trong hội nghị phổ biến và thảo luận kế hoạch tác chiến Đông Xuân ngày 19-23/11/1953 vấn đề cấp bách đặt ra với ta là tìm hiểu ý đồ chiến lược mới của địch khi chúng chiếm đóng Điện Biên Phủ. Nhiều giả thuyết được đề ra thảo luận tại hội nghị: 1. Địch sẽ giữ cả Lai Châu và Điện Biên Phủ, một nơi chính, một nơi phụ. Điện Biên Phủ có thể là nơi chính; 2. Nếu bị uy hiếp, chúng có thể rút Lai Châu, co về giữ Điện Biên Phủ; 3. Nếu bị uy hiếp mạnh hơn, chúng có thể tăng viện, tổ chức Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm; 4. Chúng cũng có thể rút bỏ cả Lai Châu và Điện Biên Phủ.
Kết luận
1. "Trước sự uy hiếp của ta, địch đã phải bị động đối phó, phải phân tán một bộ phận lực lượng cơ động lên Điện Biên Phủ để yểm hộ cho Tây Bắc, để che chở cho Thượng Lào, để phá kế hoạch tiến công của ta... Vô luận rồi đây địch tình thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta. Nó bộc lộ mâu thuẫn của địch giữa chiếm đóng đất đai với tập trung lực lượng, giữa chiếm đóng chiến trường rừng núi với củng cố chiến trường đồng bằng".
2. Ta vẫn chủ động thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược đã định. Hướng chính vẫn là Tây Bắc. "Nhiệm vụ là kiên quyết tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng vùng Lai Châu để củng cố và mở rộng căn cứ kháng chiến Tây Bắc uy hiếp Thượng Lào để phân tán địch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tác chiến sau này".
3. Trung Lào là hướng phụ. Đồng bằng Bắc Bộ và các chiến trường khác là những hướng phối hợp
4. Tiếp tục bám sát hoạt động của địch để xử trí cho mau lẹ, không bỏ lỡ cơ hội diệt địch.

Đại đoàn 316 đang trên hướng hành quân lên Tây Bắc, nhận được lệnh nhanh chóng bao vây Lai Châu, chặn đường địch từ Lai Châu rút chạy về Điện Biên Phủ. Đại đoàn 308 được lệnh nhanh chóng tiến quân lên Tây Bắc, bao vây và bám sát mọi hoạt động của địch ở Điện Biên Phủ, chặn đường Điện Biên Phủ-Mường Khoa (không cho địch rút chạy sang hướng Thượng Lào) và chuẩn bị chiến trường.
Trong phương án tác chiến mùa Xuân 1954 (trình Bộ Chính trị ngày 6/12/1953), Tổng Quân ủy đề đạt: "Tuy hiện nay chưa thể khẳng định nhưng muốn bảo đảm thực hiện được quyết tâm của Trung ương là phối hợp với bạn tiêu diệt địch và giải phóng vùng Lai Châu-Phông Xa Lỳ cho đến Luông Prabăng trong Đông Xuân thì phải nhằm trường hợp (địch) tăng cường (Điện Biên Phủ) thành tập đoàn cứ điểm mà chuẩn bị".
Như vậy là Bộ Thống soái hai bên đã có những thông tin tương đối rõ ràng để chuẩn bị những nước cờ tiếp theo.
Bộ chỉ huy chiến dịch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang bàn kế hoạch tác chiến cho từng trận đánh.
Bộ chỉ huy chiến dịch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang bàn kế hoạch tác chiến cho từng trận đánh.
Tuy hiện nay chưa thể khẳng định nhưng muốn bảo đảm thực hiện được quyết tâm của Trung ương là phối hợp với bạn tiêu diệt địch và giải phóng vùng Lai Châu-Phông Xa Lỳ cho đến Luông Prabăng trong Đông Xuân thì phải nhằm trường hợp (địch) tăng cường (Điện Biên Phủ) thành tập đoàn cứ điểm mà chuẩn bị.
3. Bằng những đòn tiến công liên tiếp trên nhiều hướng chiến lược, ta đã buộc Bộ Thống soái Pháp phải phân tán khối cơ động chiến lược của Nava, tạo tiền đề thắng lợi cho đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng (12-1953/1/1954)
Ngay từ khi xác định phương hướng chiến lược Đông Xuân, ta đã từng dự kiến: nếu Tây Bắc bị uy hiếp, địch có thể sẽ tăng viện lên hướng này, mặc dù lúc đó (8/1953), ta chưa phán đoán được cụ thể địa điểm và thời gian. Một số đại đoàn chủ lực đứng chân trên địa bàn trung du chính là nhằm sẵn sàng hành động theo phương châm "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt". Điều đó giải thích vì sao việc địch nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ không hề làm cho kế hoạch tác chiến chiến lược của ta bị đảo lộn, ngay cả trên hướng Tây Bắc. Trong khi Nava tiếp tục nuôi hy vọng đánh chiếm vùng tự do Liên khu V, thì quân ta vẫn chủ động triển khai kế hoạch tiến công chiến lược trên các hướng đã được xác định, kể cả kế hoạch đánh địch khi chúng mở cuộc hành binh Átlăng ở Liên khu V.
Như trên đã nói, yêu cầu đặt ra đối với ta trong việc lập kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954 không chỉ nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai mà còn nhằm buộc địch phải phân tán lực lượng, làm thất bại âm mưu tập trung khối cơ động chiến lược của chúng, tạo điều kiện cho tác chiến quy mô lớn hơn, tiêu diệt địch ngày càng nhiều hơn.
Bằng đòn chiến lược đầu tiên, ta đã tiêu diệt trên 20 đại đội địch, giải phóng Lai Châu, buộc Nava phải tăng thêm lực lượng lên Điện Biên Phủ (đến cuối tháng 12/1953, lực lượng địch ở đây đã lên tới 10 tiểu đoàn).
Bằng đòn tiến công thứ hai, ta đã diệt bốn tiểu đoàn địch, phối hợp với bạn giải phóng nhiều vùng ở Trung Lào, phá tan "tuyến cấm" của địch ở vĩ tuyến 18, buộc địch phải điều năm tiểu đoàn lên, xây dựng tập đoàn cứ điểm Xênô.
Bằng đòn tiến công thứ ba ở Hạ Lào, ta cùng với bạn giải phóng thị xã Atôpơ và toàn bộ vùng cao nguyên Bôlôven, buộc địch phải điều bốn tiểu đoàn lên xây dựng tập đoàn cứ điểm Pắcxế.
Bằng đòn tiến công thứ tư, ta đã giải phóng Kon Tum và vùng bắc Tây Nguyên, bước đầu làm thất bại cuộc hành quân Átlăng của địch, buộc Nava phải đình chỉ cuộc hành binh này và điều 14 tiểu đoàn đến Tây Nguyên xây dựng hai tập đoàn cứ điểm Plâycu và An Khê, khiến cho lực lượng của địch bị phân tán trên chiến trường Nam Trung Bộ lên tới 30 tiểu đoàn.
Phối hợp với các chiến dịch tiến công ở phía trước, lực lượng vũ trang vùng sau lưng địch, nhất là vùng châu thổ sông Hồng, đã nắm vững thời cơ, đẩy mạnh hoạt động. Hàng loạt vị trí bị tiêu diệt, các đường giao thông lớn bị uy hiếp, nhiều khu du kích và căn cứ du kích không ngừng được mở rộng. Địch buộc phải căng mỏng lực lượng ra để đối phó, khiến cho khả năng tăng viện cho chiến trường Điện Biên Phủ bị hết sức hạn chế.
Như vậy là trong đợt một của chiến cuộc Đông Xuân, ta đã phân tán 50% lực lượng cơ động của địch tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ (23/44 tiểu đoàn). Số quân cơ động còn lại bị căng mỏng và giằng xé trong vùng tạm chiếm ở châu thổ sông Hồng để đối phó với chiến tranh du kích đã phát triển rất sâu rộng. Kế hoạch tập trung lực lượng và kế hoạch "bình định" vùng đồng bằng của địch đều bị phá sản. Địch hầu như không còn lực lượng cơ động để tăng viện cho chiến trường Tây Bắc. Đó chính là thời cơ để quân ta bước vào cuộc đọ sức mới trên chiến trường trọng điểm Điện Biên Phủ.

Các chiến sĩ xung kích của ta đang tấn công 1 vị trí của địch trên khu đồi C
Các chiến sĩ xung kích của ta đang tấn công 1 vị trí của địch trên khu đồi C
Quang cảnh chung khu đồi Độc lập, lá cờ quyết chiến quyết thắng, phần thưởng cao quý của Hồ Chủ Tịch đang được các chiến sĩ xung kích phất cao trên nóc hầm chỉ huy địch sau khi ta tiêu diệt hoàn toàn vị trí này ngày 14/3/1954.
Quang cảnh chung khu đồi Độc lập, lá cờ quyết chiến quyết thắng, phần thưởng cao quý của Hồ Chủ Tịch đang được các chiến sĩ xung kích phất cao trên nóc hầm chỉ huy địch sau khi ta tiêu diệt hoàn toàn vị trí này ngày 14/3/1954.
Các chiến sĩ quân y của ta luôn luôn bám sát trận địa, cứu chữa kịp thời những trường hợp bị thương.
Các chiến sĩ quân y của ta luôn luôn bám sát trận địa, cứu chữa kịp thời những trường hợp bị thương.
Cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra trên khu vực Đồi C
Cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra trên khu vực Đồi C
Về phía địch, thả quân dù xuống chiếm đóng Điện Biên Phủ, lúc đầu Nava hy vọng có thể yểm trợ cho Lai Châu, bảo vệ Thượng Lào đồng thời thu hút chủ lực của ta lên Tây Bắc, đỡ đòn cho đồng bằng. Nhưng ngay sau cuộc hành binh Chuột biển, Bộ Thống soái Pháp ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, một sự lựa chọn day dứt.
Hạ tuần tháng 11, những tin tức từ Pari cho thấy Hội đồng Quốc phòng không đáp ứng yêu cầu tăng viện mà còn nhắc nhở "hãy điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với khả năng phương tiện có trong tay", không một lời nói đến nhiệm vụ bảo vệ Thượng Lào. Cũng vào dịp này, tin tức cho thấy không phải chỉ một Đại đoàn 316 mà nhiều binh đoàn của đối phương sắp có mặt ở Tây Bắc trong thời gian tới. Rõ ràng là mấy tiểu đoàn đầu tiên ném xuống Điện Biên Phủ và lực lượng đồn trú ở Lai Châu đều đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Để đối phó với nguy cơ đó, Nava cho tổ chức "hành lang chiến lược" gồm sáu tiểu đoàn rải dọc sông Nậm Hu, nối liền Điện Biên Phủ-Mường Khoa-Luông Prabăng, nhằm sẵn sàng thực hiện kế hoạch Xênôphôn, bỏ Điện Biên Phủ chạy sang Thượng Lào khi tình thế bắt buộc.
Nhưng rồi Nava đã trải qua những ngày đắn đo "dùng dằng nửa ở nửa về". Kinh nghiệm Hòa Bình, Cánh Đồng Chum rồi Nà Sản cho thấy, liệu Việt Minh có đủ sức công phá tập đoàn cứ điểm?
Điện Biên Phủ đã thu hút chủ lực đối phương lên đây, sức ép ở đồng bằng đã giảm. Vậy thì tương kế tựu kế, hãy tổ chức Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, "một siêu Nà Sản", để nghiền nát chủ lực đối phương. Đó là quyết tâm chiến lược quan trọng của Bộ Thống soái Pháp, ngày 3/12. Ngay sau đó, hai tiểu đoàn Âu-Phi rút chạy trót lọt bằng máy bay từ Lai Châu về Điện Biên Phủ. Các loại trang bị được vội vã ném xuống cánh đồng Mường Thanh. Và điều đáng chú ý là tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ càng phình ra bao nhiêu thì khối cơ động của địch ở đồng bằng Bắc Bộ càng teo đi bấy nhiêu. Từ chỗ Điện Biên Phủ không có trong dự kiến ban đầu, cái thung lũng này dần dần trở thành trung tâm của kế hoạch Nava.
Sự cân nhắc của Bộ Thống soái Pháp đã từng được Tổng Quân ủy dự kiến giữa hai khả năng (địch rút hay chiếm đóng Điện Biên Phủ), dần dần Tổng Quân ủy đã khẳng định khả năng thứ hai và từ tháng 12, đã hướng mọi công tác chuẩn bị chiến lược cho khả năng đó. Trung tuần tháng 12, khi cục diện chiến trường đang chuyển biến ngày càng có lợi cho ta (khối cơ động chiến lược của địch đang trong quá trình bị phân tán trên nhiều hướng), Bộ Chính trị đã thông qua quyết tâm của Tổng Quân ủy, chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược.
Như vậy là, nắm vững phương châm "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", ta đã "từ tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu", đi đến chỗ tranh thủ thời cơ thuận lợi, chọn nơi mạnh nhất của địch là tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tiêu diệt.
Đến cuối tháng 12, khi một số đại đoàn của ta đã hình thành thế bao vây, mọi khả năng rút chạy của địch từ Điện Biên Phủ qua Tây Trang-Mường Khoa sang Thượng Lào không còn nữa thì cuộc đọ sức giữa ta và địch trên lòng chảo Mường Thanh rõ ràng là không tránh khỏi. Điện Biên Phủ trở thành tiêu điểm của cuộc đấu trí giữa hai bộ thống soái của ta và của địch.
Bị quân ta tấn công, địch ở các vị trí khu đồi C chạy toán loạn, các chiến sĩ xung kích của ta ở dưới các giao thông hào đang dùng súng trường bắn tỉa.
Bị quân ta tấn công, địch ở các vị trí khu đồi C chạy toán loạn, các chiến sĩ xung kích của ta ở dưới các giao thông hào đang dùng súng trường bắn tỉa.
Cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra tại vị trí 206.
Cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra tại vị trí 206.
4. Hai bên dốc sức tập trung mọi yếu tố cần thiết để đánh bại đối phương trên chiến trường trọng điểm Điện Biên Phủ (từ tháng 1 đến 12/3/1954)
Càng củng cố Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh, Bộ Thống soái Pháp và các tướng lĩnh, chính khách Pháp-Mỹ càng tin rằng quân ta nhất định sẽ thất bại nếu "liều lĩnh" mở cuộc tiến công. Họ tin rằng ta không thể khắc phục nổi những khó khăn về mặt tiếp tế và trang bị. Họ tin vào sức mạnh và hiệu quả của hình thức phòng ngự bằng tập đoàn cứ điểm nên quyết tâm xây dựng lòng chảo Mường Thanh thành một căn cứ không quân-lục quân để đọ sức với ta. Mọi yếu tố để giành thắng lợi đã được chuẩn bị ngày càng chu đáo: tăng cường binh lực và phương tiện "bằng mọi giá"; xin thêm không quân để yểm trợ chiến đấu và để tăng cường đánh phá, ngăn chặn tuyến hậu cần của ta, đưa thêm quân dù ra Bắc để sẵn sàng tăng viện cho Điện Biên Phủ.
Khách quan mà xét, Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, mạnh hơn nhiều so với Nà Sản trước đây. Không những binh lực, hỏa lực mạnh hơn gấp bội mà tổ chức phòng ngự cũng hiện đại hơn. Sai lầm của địch là đã nhấn mạnh một chiều những chỗ mạnh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà không thấy hết chỗ yếu của nó. Từ đó, họ đi đến kết luận: Nếu quân đội ta không đánh được các tập đoàn cứ điểm Hòa Bình (1951) và Nà Sản (1952) thì đương nhiên là không đánh được Điện Biên Phủ. Cách đánh giá cứng đờ máy móc đó là một nguyên nhân dẫn đến thất bại của họ sau này.
Về phía ta, quá trình cân nhắc để hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là quá trình phân tích khách quan, khoa học tình hình ta và địch, yêu cầu khách quan của cuộc kháng chiến và khả năng chủ quan của quân và dân ta.
Quân đội ta cần phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mới mở ra con đường phát triển của bộ đội, thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên, làm thất bại kế hoạch Nava và tạo được hậu thuẫn chắc chắn cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội nghị Geneva. Quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một quyết tâm chiến lược quan trọng, nhằm đáp ứng những yêu cầu chiến lược bức thiết trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến.
Quân đội ta có thể tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vì quân địch tuy mạnh nhưng chúng bị cô lập trên chiến trường rừng núi, rất xa các căn cứ ở đồng bằng; lực lượng của chúng bố trí tương đối phân tán; vì bộ đội ta đã có những tiến bộ mới về chiến thuật, kỹ thuật, chiến đấu theo một phương châm tác chiến đúng đắn, với binh lực đã được tập trung ưu thế. Mặc dù ta còn những khó khăn về chiến thuật, về bảo đảm hậu cần, song những khó khăn đó đều có thể khắc phục được.
Mặc dù đợt một của chiến cuộc Đông Xuân đã lật ngược thế cờ, lực lượng cơ động của địch đã bị phân tán cao độ trái hẳn với dự kiến của Nava, ta có những điều kiện thuận lợi để giành thắng lợi trong cuộc đọ sức sắp tới, nhưng sau khi đã hạ quyết tâm, một vấn đề quan trọng đặt ra là làm thế nào để bảo đảm đánh chắc thắng, Tổng Quân ủy đã đặc biệt coi trọng việc xác định phương châm chiến dịch, chọn cách đánh thích hợp để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Để bảo vệ cho sân bay chúng đã cho xe tăng 18 tấn phản công nhưng đã bị pháo ta bắn trúng và đang bốc cháy.
Để bảo vệ cho sân bay chúng đã cho xe tăng 18 tấn phản công nhưng đã bị pháo ta bắn trúng và đang bốc cháy.
Ngày 6/5/1954, ta mở cuộc tổng công kích vào Điện Biên Phủ. Ảnh: Quả bộc phá 1 tấn thuốc nổ phá tan các lô cốt và hầm ngầm cố thủ của địch trên đồi A1, 1 vị trí quan trọng trong Điện Biên Phủ, ta đã tiêu diệt ở đây 1 tiểu đoàn Âu Phi.
Ngày 6/5/1954, ta mở cuộc tổng công kích vào Điện Biên Phủ. Ảnh: Quả bộc phá 1 tấn thuốc nổ phá tan các lô cốt và hầm ngầm cố thủ của địch trên đồi A1, 1 vị trí quan trọng trong Điện Biên Phủ, ta đã tiêu diệt ở đây 1 tiểu đoàn Âu Phi.
Từ đầu tháng 12/1953, khi quân ta mới bao vây Điện Biên Phủ, lực lượng của địch chưa được tăng cường, bố trí của chúng còn tương đối sơ hở, trận địa phòng ngự chưa được củng cố. Bởi vậy ta chủ trương "đánh nhanh, giải quyết nhanh", nhằm tranh thủ thời gian, lợi dụng những điều kiện sơ hở của một kẻ địch mới lâm thời chiếm lĩnh trận địa để tiêu diệt gọn toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ trong một trận khi quân ta còn đang sung sức. Điều lợi của cách đánh này là ở chỗ cuộc chiến đấu không kéo dài, hạn chế được sự tiêu hao, mệt mỏi và hạn chế được những trở ngại lớn về tiếp tế lương thực, đạn dược. Tuy nhiên, đánh nhanh, giải quyết nhanh cũng đặt quân đội ta trước một thực tế là: mặc dù đã được chuẩn bị về tư tưởng và chiến thuật đánh tập đoàn cứ điểm, nhưng bộ đội chưa có kinh nghiệm thực tế, lần đầu tiên đánh tập đoàn cứ điểm lại gặp một tập đoàn cứ điểm mạnh.
Sau hơn một tháng vừa tiếp tục theo dõi tình hình địch, vừa chuẩn bị theo phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh", đến cuối tháng 1/1954, ta nhận thấy tình hình địch đã có nhiều thay đổi: Lực lượng của chúng đã được tăng cường, trận địa phòng ngự đã được xây dựng kiên cố, hệ thống phòng ngự đã được tổ chức khá vững chắc. Địch không còn ở vào tình trạng lâm thời chiếm lĩnh trận địa nữa. Nếu "đánh nhanh, giải quyết nhanh" thì không chắc chắn bảo đảm thắng lợi, khi trên một số mặt, công tác chuẩn bị của ta cũng chưa thật đầy đủ.
Trải qua suy nghĩ cân nhắc thận trọng mọi mặt, với quyết tâm và tinh thần trách nhiệm rất cao, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã kiên quyết thay đổi phương châm thành "đánh chắc, tiến chắc" và chỉ đạo khẩn trương, chuẩn bị bổ sung đầy đủ về mọi mặt, nhất là nghiên cứu cách đánh cụ thể bảo đảm chắc thắng.
Theo phương châm này, ta sẽ tập trung binh lực, hỏa lực đánh từng bước, giành thắng lợi trong từng trận, vừa đánh vừa rút kinh nghiệm; ta sẽ hoàn toàn chủ động chọn thời gian và mục tiêu tiến công, vừa đánh vừa củng cố lực lượng; ta sẽ có thêm điều kiện khoét sâu khó khăn và nhược điểm của địch về mặt tiếp tế vận tải, dồn địch vào thế không thể kéo dài cuộc chiến đấu. Tuy nhiên, theo phương châm này, ta phải có những biện pháp kiên quyết và tích cực, nhằm khắc phục rất nhiều khó khăn do chiến dịch kéo dài đặt ra: bộ đội tiêu hao mệt mỏi; vấn đề cung cấp vốn đã khó khăn nay càng trở nên khó khăn hơn; thời tiết không thuận lợi, mùa mưa sắp đến... Trong tất cả những khó khăn trên, nổi lên là khó khăn về vận tải tiếp tế, nhằm đáp ứng yêu cầu vật chất tăng gấp nhiều lần so với dự kiến ban đầu.
Với kinh nghiệm phát huy cả ba nguồn cung cấp (chi viện của hậu phương, động viên tại chỗ và lấy của địch đánh địch), ta đã từng bước vượt qua những khó khăn rất lớn về hậu cần, những khó khăn mà Bộ Thống soái Pháp tin rằng ta không thể nào khắc phục nổi.

Phía Pháp phán đoán ta sẽ bắt đầu tiến công vào đầu tháng 1/1954, nhưng đến cuối tháng không những thấy ta không tiến công mà họ còn phát hiện Đại đoàn 308 rút khỏi chiến trường Điện Biên Phủ sang hướng Thượng Lào. Bộ Thống soái địch đinh ninh rằng ta bỏ cuộc. Đúng ngày Tết Nguyên Đán, họ cho máy bay thả truyền đơn thách thức ta tiến công. Họ không ngờ rằng cuộc xuất quân bất ngờ, thần tốc, đánh địch trong hành tiến của Đại đoàn 308 đã đập tan phòng tuyến sông Nậm Hu dài hàng trăm km, nối liền Điện Biên Phủ với Mường Khoa xuống tận Luông Prabăng. Thắng lợi của ta không chỉ ở con số 17 đại đội địch bị tiêu diệt, mà sau khi "hành lang chiến lược" bị phá sập, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trở nên hoàn toàn bị cô lập. Hơn nữa, do nhận định rằng ta bỏ ý định tiến công Điện Biên Phủ (quay sang uy hiếp Thủ đô Lào), Bộ Thống soái địch vội vã điều một binh đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ sang Luông Prabăng và thiết lập thêm một tập đoàn cứ điểm ở đây. Một lần nữa, lực lượng dự bị chiến lược của Nava càng bị teo lại. Chỉ đến khi được tin Đại đoàn 308 đã quay trở lại Điện Biên Phủ (23/2/1954), Bộ Thống soái Pháp mới rút ra kết luận (quá muộn) là: 1. Đối phương vẫn giữ vững quyết tâm tiến công tập đoàn cứ điểm; 2. Điện Biên Phủ rõ ràng không thể là "cái chìa khóa" chặn đối phương tiến quân sang hướng Thượng Lào.
Ngày 12/3/1954, Nava cố vớt vát bằng đợt hai của Chiến dịch Átlăng (cuộc hành binh Axen, đổ bộ lên Quy Nhơn), Tổng Chỉ huy Pháp không ngờ rằng hôm sau quân ta nổ súng tiến công, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ.
5. Những nước cờ cuối cùng trong 56 ngày đêm trên chiến trường trọng điểm Điện Biên Phủ (13/3-7-5/1954)
Như trên đã nói, thấy ta chưa nổ súng tiến công, phía Pháp cho rằng ta do dự trước tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Họ không hề biết rằng vào đầu trung tuần tháng 3, chung quanh lòng chảo Điện Biên, mọi công tác chuẩn bị của ta đã hoàn thành, bộ đội đã sẵn sàng nổ súng.
Nhiệm vụ đề ra trong đợt tiến công đầu tiên là tiêu diệt ba cứ điểm Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo, "bóc vỏ" tập đoàn cứ điểm, mở cửa tiến xuống cánh đồng Mường Thanh. Để bảo đảm tập trung ưu thế binh hỏa lực hơn hẳn địch, bảo đảm cho "trận đầu phải thắng thật giòn giã", Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định lần lượt tiêu diệt từng vị trí trong từng đêm.
17 giờ ngày 13/3, quân ta nổ súng tiến công, bắt đầu Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Sau này ta được biết, trong buổi giao ban cuối cùng (trước khi ta nổ súng), các cấp chỉ huy tập đoàn cứ điểm còn tỏ ra lạc quan: "chờ đợi những trận chiến đấu gay go, đồng thời cũng chờ đợi cả chiến thắng nữa"(Y.Gra). Nhưng rồi ngay từ đợt tiến công đầu tiên, quân ta đã đặt các tướng lĩnh Pháp trước những bất ngờ liên tiếp.
Từ chỗ đánh giá quá thấp khả năng pháo binh của ta họ sớm bị bất ngờ trước tính chính xác của binh chủng hỏa lực trẻ tuổi Việt Nam. Ngay từ những trận đầu, pháo binh của ta đã loại khỏi vòng chiến đấu một loạt sĩ quan chỉ huy các cứ điểm Him Lam, Độc Lập và phân khu trung tâm. Nhiều máy bay trên sân bay trung tâm và một kho xăng bị bốc cháy. Từ chỗ khoác lác "khóa mõm pháo binh Việt Minh ngay từ loạt đạn đầu" đến chỗ viên chỉ huy pháo binh địch bị bất ngờ vì "tỏ ra bất lực trong nhiệm vụ phản pháo". Còn không quân, một phần vấp phải hỏa lực pháo cao xạ của ta, một phần bị lừa bởi các trận địa giả nên dù lồng lộn trên bầu trời, nhưng bom thả đều không trúng đích.
Từ chỗ đánh giá quá cao khả năng đề kháng của các cứ điểm được coi là "vững chắc nhất của tập đoàn cứ điểm" với những "đơn vị kiên cường thiện chiến và có tinh thần chiến đấu rất tốt" đến chỗ bất ngờ và không giải thích nổi vì sao "những đơn vị cự phách này lại có thể bị đè bẹp chỉ trong vòng vài giờ". Từ chỗ quá tin vào khả năng phản kích chiếm lại các cứ điểm đã mất, vậy mà sau khi được tăng viện hai tiểu đoàn "Đờ Cátxtơri vẫn phản ứng rất yếu ớt". Cả hai cứ điểm Him Lam và Độc Lập "không được cứu viện kịp thời... vì các trận phản kích không được dự kiến và chuẩn bị trước... Cuộc phản kích lên hướng cứ điểm Độc Lập của một tiểu đoàn và sáu xe tăng đã nhanh chóng bị đẩy lùi...".
Nava đặt hết lòng tin vào những sĩ quan được trao nhiệm vụ giữ tập đoàn cứ điểm, vậy mà chỉ sau hai tuần, viên đại tá cầm đầu tập đoàn cứ điểm đã "tỏ ra mệt mỏi và lo âu... để cho mình bị chìm đắm trong không khí bi quan và sự kinh hoàng". Còn Tham mưu trưởng Kenle thì "tinh thần nao núng đến mức bị đuổi về Hà Nội"... Tư lệnh pháo binh Pirôt đã "tự sát vì thất vọng, không thực hiện được lời cam kết của mình là làm câm họng pháo binh đối phương"...
Ngày 14/4/1954, ta tấn công 1 vị trí ở phía bắc sân bay Mường Thanh và tiêu diệt 1 đại đội địch đóng giữ ở đây.
Ngày 14/4/1954, ta tấn công 1 vị trí ở phía bắc sân bay Mường Thanh và tiêu diệt 1 đại đội địch đóng giữ ở đây.
Ngày 14/4/1954, ta tấn công 1 vị trí ở phía bắc sân bay Mường Thanh và tiêu diệt 1 đại đội địch đóng giữ ở đây.
Ngày 14/4/1954, ta tấn công 1 vị trí ở phía bắc sân bay Mường Thanh và tiêu diệt 1 đại đội địch đóng giữ ở đây.
Các đơn vị xung kích của ta dưới sự chỉ huy của anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị đang tấn công sân bay Mường Thanh.
Các đơn vị xung kích của ta dưới sự chỉ huy của anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị đang tấn công sân bay Mường Thanh.
Sau khi quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ, Nava vẫn đang lúng túng trước nguy cơ thất bại của cuộc hành binh Axen ở Quy Nhơn, còn Cônhi thì lo đối phó với hoạt động mạnh của ta ở đồng bằng sông Hồng. Vậy là Đờ Cátxtơri ở vào tình thế "phải tự mình xoay xở. Hắn ta không có những hoạt động đối phó với những thất bại đầu tiên... khiến người ta có cảm tưởng là hắn trút trách nhiệm chủ yếu của mình cho cấp dưới".
Nếu đối với ta, khi ba cứ điểm phía bắc bị tiêu diệt tức là quân ta mới mở toang cửa của tập đoàn cứ điểm để chuẩn bị tiến xuống cánh đồng thì phía Pháp đã vội cho rằng "trận giao chiến của quân viễn chinh có lẽ sẽ thất bại, trừ phi có một hành động giải tỏa từ bên ngoài tập đoàn cứ điểm". Bởi vậy, trong khi Tham mưu trưởng quân đội Pháp, tướng Êly bay sang Oasinhtơn để cùng những tên diều hâu Mỹ Đalét và Rátpho bàn kế hoạch can thiệp bằng không quân Mỹ vào Điện Biên Phủ (kế hoạch Diều hâu) thì ngày 19/3, Đờ Cátxtơri điện cho Cônhi: "Tôi cho rằng việc mất Điện Biên Phủ, mất phân khu nam Hồng Cúm là không thể tránh được trong một thời gian ngắn. Phải tính đến chuyện cử Lalăngdơ (chỉ huy phân khu nam Hồng Cúm) cố gắng đi tìm con đường sang Lào để rút lui".
Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ bị quân ta phá hủy và thu được tại mặt trận Điện Biên Phủ
Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ bị quân ta phá hủy và thu được tại mặt trận Điện Biên Phủ
Tướng Đờ Cátxtơri
Về phía ta, sau đợt tiến công thứ nhất, Bộ Chỉ huy chiến dịch nhận định: quân địch còn rất đông, pháo binh và không quân của chúng vẫn hoạt động mạnh. Trước mặt quân ta lúc này là gần 40 cứ điểm liên kết với nhau chặt chẽ trên cánh đồng bằng phẳng, dưới sự che chở của các vị trí trên các điểm cao chạy dài suốt phía đông. Trong hội nghị ngày 20/3, một vấn đề rất quan trọng được đặt ra để giải quyết là: Trong điều kiện nói trên, làm thế nào để tiếp cận địch và chiến đấu liên tục cả ngày lẫn đêm. Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương nhanh chóng xây dựng trận địa bao vây và tiến công.
Thế là một quá trình chiến đấu mới bắt đầu. Các chiến hào từ trên các triền núi cao dần dần đổ xuống cánh đồng và không ngừng tỏa lan trên mặt ruộng. Trận địa càng tiến sát vị trí địch, chúng càng ra sức dùng pháo binh, máy bay phá hoại và dùng bộ binh xe tăng phản kích. Mặc dù phải liên tục chiến đấu gian khổ và căng thắng nhưng chỉ sau 10 ngày, vào hạ tuần tháng 3, chiến hào của quân ta đã dài khoảng 100km, vây tròn lấy phân khu trung tâm (Mường Thanh) và khu nam (Hồng Cúm), cắt rời hoàn toàn hai khu này. Một số chiến hào đã bò đến giáp hàng rào của các điểm cao phía đông.
Sau này, chính người Pháp cũng phải thừa nhận rằng quân đội của họ "cố ngăn cản sự phát triển của mạng lưới hầm hào này đang bóp nghẹt Điện Biên Phủ, nhưng cả những loạt đạn pháo nổ trên không, cả những đợt súng cối bắn tập trung ban đêm... cũng không cản nổi các chiến hào của Việt Minh phát triển... Tập đoàn cứ điểm, sớm bị vây hãm từ xa bởi một "tập đoàn cứ điểm" khác đang ngày càng siết chặt chiếc thòng lọng của nó...”. Việc đối phó với sự phát triển các chiến hào của ta đã thu hút lực lượng không quân Pháp đến mức chúng "phải hủy bỏ các cuộc công kích vào đường giao thông... Không một quả bom nào được ném xuống đường trục tiếp tế trong suốt thời kỳ này (nửa cuối tháng 3), thời kỳ mà Việt Minh bổ sung các kho đạn dược của họ...".
Quân Pháp vừa cố ngăn chặn các chiến hào của ta phát triển vừa "lợi dụng tình trạng lắng dịu kéo dài" (giữa hai đợt tiến công của ta) để củng cố công sự, bổ sung trang bị, xây thêm những điểm tựa mới ở đông-bắc khu trung tâm, bổ sung cán bộ chỉ huy.
Nhưng khó khăn của Pháp về tiếp tế đã sớm bộc lộ. Sân bay trung tâm đã hoàn toàn nằm trong tầm hỏa lực của ta, "cầu hàng không được xem như hoàn toàn bị gián đoạn... bắt đầu những cuộc thả dù bấp bênh và tốn kém, làm sai lạc mọi dự kiến về hậu cần... Vì hỏa lực phòng không của Việt Minh trở nên dữ dội đến mức các máy bay phải thả dù từ độ cao lớn hoặc trong những điều kiện rất nguy hiểm...".
Về phía ta, sau đợt một và trong suốt nửa cuối tháng 3, Bộ Chỉ huy chiến dịch vừa củng cố bộ đội, vừa bổ sung trang bị, nghiên cứu kế hoạch tác chiến mới. Đó là kế hoạch mở đợt tiến công thứ hai vào tập đoàn cứ điểm bằng cách tập trung lực lượng tiêu diệt toàn bộ quân địch trên các điểm cao phía đông. Những điểm cao này là khu vực phòng ngự then chốt của cả phân khu trung tâm, quyết định số phận toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Tiến công vào khu vực này là một trận công kiên to lớn chưa từng có của quân đội ta.
Ngày 30/3, đợt tiến công thứ hai bắt đầu.
Nếu trong những giờ đầu, quân ta phát triển khá thuận lợi thì sau đó cuộc chiến đấu tiến triển chậm dần lại. Sau khi được tăng viện thêm một tiểu đoàn biệt kích dù, địch dồn toàn bộ lực lượng ứng chiến từ Mường Thanh lên phản kích, ra sức bảo vệ những điểm cao chúng còn chiếm giữ, đặc biệt là quyết tâm bảo vệ vị trí then chốt A1 bằng mọi giá.
Sau bốn ngày chiến đấu, quân ta đã chiếm được bốn trong năm điểm cao phía đông, thu hẹp thêm phạm vi chiếm đóng và không phận của địch ở phía tây và phía bắc vào tới giáp sân bay, nhưng quân ta chưa hoàn thành được đầy đủ nhiệm vụ đề ra cho đợt hai.
Đợt tiến công vừa qua không những đã làm bộc lộ một số nhược điểm của ta trước một cuộc chiến đấu quy mô lớn mà còn chứng tỏ thực lực ta chưa hơn hẳn địch. Chúng vẫn ưu thế tuyệt đối về không quân; hỏa lực của chúng còn khá mạnh, pháo binh của chúng hoạt động ráo riết. Từ ngày 6/4, khi ta tạm ngừng đợt tiến công thứ hai, địch đã tổ chức lại việc phòng thủ.
Mặc dù Bộ Chỉ huy chiến dịch trước sau vẫn giữ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm, nhưng một vấn đề cấp thiết lại được đặt ra: tiếp tục đánh địch bằng cách nào? Phải tìm ra cách đánh thích hợp với trình độ tác chiến và tình hình sức khỏe (bắt đầu giảm sút) của bộ đội. Phải làm sao khoét sâu thêm nhược điểm của địch, hạn chế sức mạnh của chúng, giảm bớt thương vong của ta và đẩy dần quân địch đến chỗ nhất định bị tiêu diệt.
Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng mọi mặt, Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương tiếp tục củng cố và phát triển trận địa tiến công và bao vây vào gần địch hơn nữa; tiếp tục đánh chiếm thêm một số vị trí của địch nhằm từng bước thắt chặt thêm vòng vây, tiến tới đánh chiếm sân bay nhằm triệt hẳn tiếp tế và tăng viện của địch, uy hiếp mạnh hơn nữa tung thâm của chúng và tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng địch.
Trong suốt 20 ngày cuối tháng 4, quân ta đã vận dụng nhiều hình thức hoạt động rất linh hoạt, sáng tạo và có hiệu quả để thực hiện chủ trương trên đây. Cụ thể là:
- Phát triển trận địa tiến công và bao vây vững chắc, ngày càng tiến sát gần địch, hạn chế uy lực máy bay và pháo binh của chúng.
- Phát triển mạnh chiến thuật đánh lấn, lần lượt tiêu diệt các vị trí chung quanh sân bay Mường Thanh, từng bước tiếp cận sân bay và cuối cùng, từ hai hướng đông và tây tiến vào cắt ngang và làm chủ sân bay.
- Tổ chức các đội thiện xạ, dùng hình thức bắn tỉa tiêu diệt bất cứ tên địch nào ló đầu ra khỏi cứ điểm, gây nên một nỗi khủng khiếp từng ngày, từng giờ đối với địch.
- Tìm mọi cách triệt nguồn tiếp tế và tăng viện của địch. Pháo cao xạ hoạt động tích cực và có hiệu quả, buộc máy bay địch phải thả dù tiếp tế ở độ cao lớn, khiến cho ngày càng nhiều dù rơi vào khu vực ta. Ta đã dùng hỏa lực các cỡ ngăn chặn không cho địch ra nhặt dù, đồng thời phát động phong trào đoạt dù của địch, lấy lương thực, đạn được bổ sung một phần cho ta. Như sau này địch thú nhận, máy bay của chúng đã "tiếp tế" cho ta chừng 5.000 viên đạn lựu pháo 105 ly. Về tăng viện, do số quân bị loại khỏi vòng chiến mỗi ngày lên tới 100-120 người, yêu cầu tăng viện thay thế ngày càng lớn. Khu vực nhảy dù đã bị thu lại quá hẹp nên quân dù phải nhảy trực tiếp xuống những khoảng đất đã bị đạn pháo cày xới ngay trong phân khu trung tâm, đầy dây thép gai. Nhiều tên bị bạt ra khu vực của ta.
"Phương pháp vây hãm bằng hệ thống chiến hào cuối cùng hoàn toàn quấn chặt lấy từng điểm tựa, giống như con nhện bắt một côn trùng trong mạng nhện. Vị trí trở nên bị phong tỏa cô lập và nhanh chóng bị bóp nghẹt vì thiếu đạn dược, thực phẩm và nhất là thiếu nước", một tình trạng căng thẳng, khủng khiếp mà sau này (khi đã bị bắt làm tù binh), tướng Đờ Cátxtơri đã phải thú nhận là quân Pháp không còn có thể chịu đựng nổi.
Tuy nhiên, về phía ta, sau đợt hai, chúng ta cũng phải giải quyết nhiều vấn đề quan trọng do chiến dịch kéo dài đặt ra. Ngoài vấn đề cốt yếu là tiếp tục nghiên cứu cách đánh sao cho phù hợp với thế trận và so sánh lực lượng, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã tập trung chỉ đạo khắc phục những trở ngại đối với việc giữ vững và phát huy sức mạnh và hiệu quả chiến đấu của bộ đội.
Khó khăn hàng đầu mà Bộ Chỉ huy chiến dịch đặc biệt quan tâm giải quyết là vấn đề tiếp tế. Do những trận mưa đầu mùa và do địch ra sức đánh phá đường tiếp tế cho nên có lúc công tác hậu cần trở nên nóng bỏng (có ngày, có khẩu pháo chỉ còn ba viên đạn; có đêm, gạo nhập kho mặt trận không được đầy một tấn). Trung ương Đảng lãnh đạo và động viên toàn dân dốc sức chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ. Riêng tại mặt trận, cán bộ ngành hậu cần đã phát huy tinh thần khắc phục những khó khăn vượt xa sức của mình. Cuối cùng, vấn đề tiếp tế đã được giải quyết một cách cơ bản trước khi quân ta bước vào đợt tiến công thứ ba.
Về mặt chính trị tư tưởng, sau 5 tháng chuẩn bị và thực hành chiến đấu liên tục và căng thẳng, đúng vào lúc quân ta đang đứng trước một thử thách to lớn để giành thắng lợi hoàn toàn trong nhiệm vụ tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thì có "một số hiện tượng không bình thường bắt đầu xuất hiện trong việc chấp hành nhiệm vụ chiến đấu của cán bộ". Đảng ủy mặt trận đã kịp thời phát động một đợt học tập nhằm quán triệt quyết tâm của Trung ương, khắc phục mọi tư tưởng mệt mỏi, mọi biểu hiện hữu khuynh tiêu cực, nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng của cán bộ và bộ đội, hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao.
Trải qua chừng ba tuần tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của đợt hai và chuẩn bị điều kiện bước vào đợt ba, quân ta đã tạo mọi yếu tố thuận lợi cần thiết cho đợt chiến đấu mới.
Như người Pháp sau này thú nhận, đợt tiến công thứ ba của ta bắt đầu vào thời điểm mà quân Pháp trong tập đoàn cứ điểm chỉ còn chừng 3.000 quân đủ sức chiến đấu ở phân khu trung tâm và 1.200 tên ở phân khu nam (trong tổng số gần 10.000 quân còn lại đó), cùng với 3 xe tăng, 19 khẩu pháo 105 ly, 1 khẩu 55 ly, 15 khẩu cối 120 ly, với số đạn đủ cho hai, ba ngày chiến đấu liên tục. Đó là tất cả những gì còn lại sau 48 ngày chiến đấu của 16.200 quân, kể từ khi cuộc tiến công của ta bắt đầu.
Sau khi đợt tiến công thứ hai của ta chấm dứt, Nava chỉ thị cho Bộ Tham mưu Pháp chuẩn bị kế hoạch Chim ưng chừng 8000 quân, do tướng Cônhi trực tiếp chỉ huy, vượt biên giới Việt Lào sang giải vây cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Tướng Đờ Cátxtơri được thông báo kế hoạch này vào ngày 14/4 khi mà vòng vây của ta đã siết chặt, quân Pháp trong tập đoàn cứ điểm đã ở vào thế "trong không ra được, ngoài không vào được". Kế hoạch đánh tháo không thành, nhưng nhiều sĩ quan Pháp ở Điện Biên Phủ vẫn còn nuôi hy vọng. Người này chờ đợi mùa mưa sẽ chặn đứng cuộc tiến công của ta. Người khác hướng sang Thụy Sĩ, nơi Hội nghị Geneva về Đông Dương sắp họp. Riêng đại tá Lănggle, người nắm thực quyền chỉ huy lúc này, cho rằng "chỉ cần giữ vững một tháng nữa, thậm chí chỉ 20 ngày nữa là thắng". Sự cố gắng kéo dài trận chiến đấu đã trở thành cứu cánh cuối cùng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ.
Về phía ta, quyết tâm của Bộ Chỉ huy chiến dịch là tiêu diệt tập đoàn cứ điểm trước mùa mưa, làm cho đế quốc Mỹ không kịp can thiệp, quân Pháp không còn khả năng rút chạy và để kịp phối hợp với cuộc đấu tranh ngoại giao ở Geneva. Cuối tháng 4, mọi công tác chuẩn bị cho đợt tiến công mới đã hoàn tất. Đêm 1/5, đợt ba của chiến dịch bắt đầu.
Ngay trong đêm đó, bốn vị trí địch ở phân khu trung tâm bị diệt. Cứ như thế, từ ngày 2 đến ngày 6, vùng đất và vùng trời của địch không ngừng bị thu hẹp, quân số và tinh thần chiến đấu của chúng bị giảm sút nhanh chóng. Ngày 4/5, thêm một kế hoạch tháo chạy được phổ biến cho tướng Đờ Cátxtơri, kế hoạch Chim biển. Theo kế hoạch này, một tiểu đoàn dự bị chiến lược sẽ được ném xuống Điện Biên Phủ để cùng lực lượng tại chỗ giải vây rút chạy sang hướng Thượng Lào. Chừng sáu tiểu đoàn khác tạo thành một hành lang ở biên giới Việt-Lào để đón quân từ Điện Biên Phủ chạy sang. Nhưng ngày 6/5, tình thế của quân Pháp ở Điện Biên Phủ "đã ở vào đỉnh cao của sự tồi tệ". Chúng bị dồn trong 20 cứ điểm còn lại, dưới sự che chở không còn hiệu lực của vài điểm cao phía đông. Trong khi đó, về phía ta, việc chuẩn bị đường hầm để vào đặt khối thuốc nổ lớn nhằm phá hầm ngầm trong cứ điểm A1 đã hoàn thành. Đêm 6/5, khối bộc phá 1.000kg đã phá sập điểm cao cuối cùng, "chiếc chìa khóa của tập đoàn cứ điểm" đã lọt vào tay quân ta.
Ngày 7/5, từ buổi sáng, nhiều triệu chứng cho thấy quân địch đã rối loạn. Ở một số nơi, đã có những lá cờ trắng xuất hiện. Rõ ràng tinh thần quân địch đã hoàn toàn tan rã. Quân ta được lệnh không chờ đến tối, chuẩn bị nắm ngay thời cơ thuận lợi, lập tức mở cuộc tổng công kích vào tập đoàn cứ điểm. 17 giờ 30 quân ta đánh chiếm Sở Chỉ huy của địch. Đờ Cátxtơri và toàn bộ Bộ Tham mưu của hắn bị bắt sống. Ngay đêm đó, toàn bộ quân địch ở phân khu nam bị bắt trong lúc chúng đang tìm đường rút chạy sang Thượng Lào.
Quân ta đã giành toàn thắng ở Điện Biên Phủ một ngày trước khi Hội nghị Geneva về Đông Dương khai mạc.
Cuộc đấu trí cuối cùng giữa hai bộ thống soái đã dẫn đến kết quả có ý nghĩa quyết định: thắng lợi hoàn toàn thuộc về ta, thất bại hoàn toàn thuộc về địch.

1. Thắng lợi của ta và thất bại của địch trước hết là do phương pháp khác nhau về đánh giá tình hình
Bộ Thống soái địch luôn luôn chủ quan, đánh giá quá cao khả năng "chuyển bại thành thắng" của khối chủ lực mới được xây dựng, tính chất "bất khả xâm phạm" của tập đoàn cứ điểm, sức mạnh của vũ khí, trang bị, công sự kiên cố, khả năng tiếp tế và tăng viện. Họ đánh giá thấp khả năng hoạt động trên nhiều hướng chiến lược cũng như khả năng đánh công sự vững chắc của chủ lực ta, đánh giá sai khả năng khắc phục những khó khăn về vận tải tiếp tế của ta.
Trong khi đó, chúng ta đánh giá khách quan đúng đắn chỗ mạnh, chỗ yếu cả về vật chất và tinh thần của địch, về khả năng của quân và dân ta, để tìm ra biện pháp hạn chế từng bước, tiến tới vô hiệu hóa mặt mạnh, khoét sâu mặt yếu của chúng, phát huy sức mạnh tổng hợp của ta cả ở tiền tuyến và hậu phương, cả trên chiến trường chính và chiến trường phối hợp... nhằm làm thay đổi so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho ta để giành thắng lợi cả về chiến lược và chiến dịch.
2. Thắng lợi của ta và thất bại của địch còn là kết quả phán đoán đúng sai chủ trương chiến lược của đối phương
Trong thời gian dài, Bộ Thống soái địch đinh ninh rằng ta mở tiến công chiến lược vào đồng bằng trong khi ta đã sớm xác định chọn hướng chiến lược trên chiến trường rừng núi. Và mở hàng loạt chiến dịch tiến công trên hướng đó, làm cho khối dự bị chiến lược của địch bị chia năm sẻ bảy.
Địch cho rằng ta do dự trước sức mạnh của tập đoàn cứ điểm, nhưng thực ra, từ giữa tháng 12/1953 ta vẫn kiên trì quyết tâm chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược.
Địch muốn "ra tay" trước để thăm dò động tĩnh của ta và buộc ta phải thay đổi kế hoạch chiến lược, nhưng ta vẫn để các binh đoàn chủ lực "ẩn lặng như tờ" không tung lực lượng ra đối phó bị động. Địch định giành bất ngờ chiến lược bằng cuộc hành quân Átlăng mà không hề biết rằng ta đã dự kiến đúng ý đồ chiến lược của chúng và đã có kế hoạch chỉ đạo chủ lực Khu V chủ động mở chiến dịch giải phóng bắc Tây Nguyên, phá kế hoạch tiến công của địch vào vùng tự do.
Tiếp đó, cuộc tiến công của Đại đoàn 308 sang hướng Thượng Lào; sự xuất hiện trọng pháo ở mặt trận Điện Biên Phủ, việc đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng sau lưng địch làm tê liệt các đơn vị "cơ động" còn lại của chúng ở đồng bằng sông Hồng... là những sự kiện hoàn toàn bất ngờ, ngoài tầm phán đoán của địch.
3. Thắng lợi của ta và thất bại của địch còn do khả năng vận dụng cụ thể nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy tác chiến chiến lược, chiến dịch của mỗi bên.
Với kế hoạch Nava, trước mắt Bộ Thống soái địch nuôi hy vọng xây dựng được khối cơ động chiến lược mạnh, tránh giao chiến với ta trên chiến trường miền Bắc, thực hành tiến công chiến lược ở miền Nam. Nhưng trong thực tế, Nava không thoát khỏi những mâu thuẫn vốn có từ đầu cuộc chiến tranh. Đó là mâu thuẫn giữa quân số ngụy càng tăng thì chất lượng chiến đấu của địch càng giảm, mâu thuẫn giữa rải quân ra chiếm đóng đất đai và tập trung lực lượng, giữa tiến công và phòng ngự chiến lược, giữa củng cố chiến trường đồng bằng với chiếm đóng chiến trường rừng núi, giữa tham vọng lớn của Bộ Thống soái với tinh thần ngày càng bạc nhược của binh lính... Mặc dù rêu rao "tinh thần chủ động tiến công" nhưng khả năng thực tế không cho phép Nava "đảo lộn thế cờ" theo ý muốn.
Trong khi đó, mọi công tác chuẩn bị chiến lược của ta được triển khai rất sớm đều hướng vào mục tiêu "đập tan kế hoạch Nava". Bằng các đòn tiến công liên tục và xen kẽ trên nhiều hướng chiến lược trong đợt một của chiến cuộc Đông Xuân, bằng quyết tâm chọn điểm quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, bằng phương châm chiến dịch đúng đắn và chỉ huy tác chiến chính xác (chọn thời cơ mở màn chiến dịch, cách đánh "bóc vỏ" trong đợt một, cách đánh linh hoạt sáng tạo sau đợt hai, biết chớp thời cơ chuyển sang tổng công kích trước thời gian dự kiến, cũng như sự chỉ đạo các chiến trường phối hợp "chia lửa" với mặt trận chính...), tất cả đều nói lên sự chỉ đạo, chỉ huy sắc sảo của Tổng ủy trong suốt chiến cuộc Đông Xuân cũng như riêng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Nguồn: Sách "50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ - Điện Biên Phủ: Hợp tuyển công trình khoa học", NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2005, trang 195. Trước đó, bài đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 3/1984.
Trình bày: Hạnh Vũ
Ảnh: TTXVN