Cửu đỉnh - "Bách khoa thư Việt Nam" triều Nguyễn

Biểu tượng của triều Nguyễn
Theo sách “Đại Nam thực lục chính biên”, bộ Cửu đỉnh được vua Minh Mạng cho khởi đúc vào tháng 12/1835 và hoàn thành tháng 6/1837, do những nghệ nhân Phường đúc Huế thực hiện.
Tất cả 9 đỉnh đều có hình dáng chung giống nhau, thân bầu tròn, cổ thắt, miệng loe, trên miệng có hai quai, dưới có ba chân. Nhưng kích thước và khối lượng (khối lượng các đỉnh được ghi rõ bên trái cổ đỉnh) lại không giống nhau, đỉnh cao nhất (Cao đỉnh) 2,5m, nặng 2.061 kg, đỉnh thấp nhất (Huyền đỉnh) 2,3m, nặng 1.935 kg.

Các cặp quai trên miệng đỉnh không hoàn toàn giống nhau, cặp đúc vuông, cặp đúc tròn, cặp xoắn theo kiểu dây thừng. Chân đỉnh cũng khác nhau, có bộ uốn theo kiểu chân quỳ, có bộ đúc thẳng. Trên mỗi đỉnh đều khắc nổi tên hiệu do vua Minh Mạng đặt, ứng với thụy hiệu các vị vua Nguyễn. Mở đầu là Cao đỉnh tượng trưng cho sự vĩ đại; Nhân (Nhơn đỉnh) là lòng tốt, tượng trưng đức; Chương đỉnh là sự gương mẫu, là ánh sáng; Anh đỉnh là tài giỏi vinh hạnh, hiển đạt; Nghị đỉnh là ý chí kiên cường, cương nghị; Thuần đỉnh là sự hoàn thiện, phong phú; Tuyên đỉnh là sự hài hòa, tinh thông; Dụ đỉnh là nền tảng sự thịnh vượng; Huyền đỉnh, ứng với nơi sâu thẳm.

Không chỉ lưu giữ về hình ảnh, Cửu đỉnh còn là bộ sưu tập thư pháp qua nhiều thời kỳ ở triều Nguyễn.
Không chỉ lưu giữ về hình ảnh, Cửu đỉnh còn là bộ sưu tập thư pháp qua nhiều thời kỳ ở triều Nguyễn.
Theo Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Cao đỉnh chính là thụy hiệu của Thế tổ Cao hoàng đế, Nhân đỉnh là thụy hiệu của chính vua Minh Mạng (Thánh tổ Nhân hoàng đế), Chương đỉnh là thụy hiệu của vua Thiệu Trị (Hiến tổ Chương hoàng đế), Anh đỉnh là thụy hiệu của vua Tự Đức (Dực tông Anh hoàng đế), Nghị đỉnh là thụy hiệu vua Kiến Phúc, Thuần đỉnh là thụy hiệu của vua Đồng Khánh, Tuyên đỉnh là thụy hiệu của vua Khải Định.

Các vua Dục Đức, Hiệp Hòa bị Tôn Thất Thuyết phế truất, vua Hàm Nghi dưới sự giúp sức của Tôn Thất Thuyết đã xuống dụ Cần Vương kêu gọi văn thân, sĩ phu đứng lên giúp vua cứu nước chống Pháp, hai cha con vua Thành Thái, Duy Tân bị người Pháp phế truất và lưu đày, vua Bảo Đại thoái vị... đều không được đặt tên miếu hiệu và thụy hiệu. Do đó, tên của Dụ đỉnh và Huyền đỉnh không trở thành thụy hiệu của bất kỳ vị vua nào triều Nguyễn.
Sau khi hoàn thành, Cửu đỉnh được đặt thẳng hàng trước sân Hiển Lâm Các đối diện với Thế Miếu. Riêng Cao đỉnh được đặt ở giữa và lên trước các đỉnh khác 3m, tượng trưng cho Cao Thế tổ Hoàng đế Nguyễn Ánh - người lập nên vương triều Nguyễn.
Bộ Cửu đỉnh được vua Minh Mạng cho khởi đúc vào tháng 12/1835 và hoàn thành tháng 6/1837, do những nghệ nhân Phường đúc Huế thực hiện.
“Bách khoa thư” bằng hình dưới triều Nguyễn
Cửu đỉnh Huế là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, có giá trị cao về mặt văn hóa và lịch sử của dân tộc, chứa đựng những nội dung tư tưởng của một thời đại, tâm tư và ý niệm của con người về đất nước, về vũ trụ và thiên nhiên. Trên Cửu đỉnh đã khắc họa nhiều hình ảnh về các cảnh vật rất thật và thân quen với người Việt trải dài từ bắc chí nam, tạo nên bức tranh thiên nhiên giàu đẹp của đất nước, như: tinh tú, núi sông, cửa biển, lãnh hải, cửa ải, cây cối, hoa cỏ, động vật, binh khí, xe thuyền… Cửu đỉnh cũng được xem như một bộ cẩm nang có minh họa và chú thích đầu tiên của nước ta về sự đa dạng sinh học.

Hình ảnh hoa sen trên Cửu đỉnh.
Hình ảnh hoa sen trên Cửu đỉnh.
Thực vật trên Cửu đỉnh với 54 họa tiết, có thể phân thành 6 nhóm: cây lương thực, cây lấy sợi, rau và cây gia vị, cây lấy quả, các loại hoa, các loại gỗ, dược liệu và hương liệu. Động vật gồm có: loài cá, ốc, côn trùng; chim; thú lớn bốn chân; các loài vật linh. Cửu đỉnh nhà Nguyễn có thể nói là một bộ sách ảnh các loài động thực vật đặc trưng của nước ta, thể hiện một thiên nhiên phong phú, quý giá. Đó cũng có thể coi là một cuốn Sách đỏ Việt Nam hay một Danh mục các loài cần được bảo vệ của thời xưa.

Hoa mai.
Hoa mai.
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế cũng cho biết, nhiều chi tiết trên Cửu đỉnh gắn với những truyền thuyết thú vị. Chẳng hạn như cây Nam trân (lòn bon) được khắc chạm trên Nhân đỉnh. Quả lòn bon rất ngọt, mọc nhiều ở rừng Quảng Nam, hiện vẫn được bán trên thị trường Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế... Tương truyền, những năm cuối thế kỷ XVIII, thời gian bị quân Tây Sơn săn đuổi, Nguyễn Vương (Nguyễn Phúc Ánh) ẩn náu ở nguồn sông Vu Gia, rừng Quảng Nam, nhờ ăn quả lòn bon này mà sống. Khi Nguyễn Vương lên ngôi Vua Gia Long, người đã đặt tên cho cây trái này là phụng quân mộc (cây gặp vua). Có lẽ vì thế mà Vua Minh Mạng cho khắc cây lòn bon vào Nhân đỉnh.
Ngoài cây lòn bon, Vua còn cho khắc hình ảnh cá sấu trên Chương đỉnh vì tương truyền Nguyễn Phúc Ánh qua sông nhờ cá sấu cản mà không sa vào tay kẻ thù.

Du khách tham quan Cửu đỉnh.
Du khách tham quan Cửu đỉnh.
Cửu đỉnh còn là bộ sưu tập đặc sắc của văn hóa Việt Nam, với 153 hình ảnh tiêu biểu đặc trưng nhưng cũng rất gần gũi thân thuộc của đất nước từ nam ra bắc được chạm khắc nổi trên Cửu đỉnh. Tất cả 153 mảng hình trên Cửu đỉnh là những bức chạm độc lập, sống động, tinh xảo, là sự kết hợp điêu luyện giữa nghệ thuật đúc và chạm nổi đồ đồng đạt trình độ tuyệt kỹ của những người thợ đúc đồng Việt Nam.
Năm 1837 tức Minh Mạng thứ 18, Vua dụ Nội các rằng: “Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã tụ lại. Thực là đồ quý trọng ở nhà tôn miếu. Xưa các minh vương đời tam đại lấy kim loại do các quan mục bá chín châu dâng cống, đúc 9 cái đỉnh để làm vật báu truyền lại đời sau. Quy chế điển lễ ấy thật to lớn lắm! Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường lối rõ ràng. Nay muốn phỏng theo đời xưa; đúc 9 cái đỉnh để ở nhà Thế miếu...
Quanh hông mỗi đỉnh được bố trí 17 cảnh vật được sắp xếp theo một biểu đồ hợp lý, chia làm ba hàng ngang, mỗi hàng gồm một chủng loại, mỗi hình ảnh đều có ghi tên từng cảnh vật.

Mặt trời, với chú thích chữ "Nhật" bên trên.
Mặt trời, với chú thích chữ "Nhật" bên trên.
Cửu Đỉnh gắn liền với con số 9, một con số thiêng liêng theo quan niệm phương Đông, tượng trưng cho Trời, cho sự hoàn thiện tuyệt đối, cho quyền uy và sức mạnh của người đứng đầu thiên hạ.

Hình ảnh Hải Vân quan đúc nổi trên Cao đỉnh.
Hình ảnh Hải Vân quan đúc nổi trên Cao đỉnh.
Vì thế số 9 là tư tưởng chủ đạo vua Minh Mạng trong việc đúc Cửu Đỉnh cho triều đại mình: tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và sắp xếp theo số 9, “Chín tinh tú và thiên nhiên trong vũ trụ; Chín ngọn núi lớn;Chín con sông lớn; Chín sông đào và sông khác; Chín cửa biển, cửa quan, biển, cầu vồng; Chín con thú lớn bốn chân; Chín con vật linh; Chín loài chim; Chín loại cây lương thực; Chín loại rau, củ; Chín loại hoa; Chín loại cây lấy quả; Chín loại dược liệu quí; Chín loại cây thân gỗ; Chín loại vũ khí; Chín loài cá, ốc, côn trùng; Chín loại thuyền, xe, cờ”.

Mặt trăng.
Mặt trăng.
Tất cả những số 9 ấy hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên sông núi đất trời Việt Nam thống nhất hoành tráng.
Trong số 162 họa tiết chạm nổi trên Cửu đỉnh, có tới 90 hình ảnh là về các loài động, thực vật đặc trưng của Việt Nam. Các họa tiết này đều thể hiện một cách sống động các loài động, thực vật, nhiều chỗ chạm khắc khá chi tiết những đặc điểm nổi bật của các loài.

Biển Đông.
Biển Đông.
Ngoài ra, hình ảnh sông núi, lãnh hải của Việt Nam cũng được chạm khắc nổi trên bộ Cửu đỉnh triều Nguyễn. Nếu ở Tuyên đỉnh có sông Hồng, thì Huyền đỉnh có sông Cửu Long và Nhân đỉnh có sông Hương. Nếu Cao đỉnh có cọp trên rừng, thì Nhân đỉnh có cá voi dưới biển…
Cửu đỉnh là 9 đỉnh, nên các hình ảnh được thể hiện cũng xoay quanh con số 9 đặc trưng như: 9 vì tinh tú và thiên nhiên trong vũ trụ là Mặt trời, Mặt trăng, Gió, Sấm, Mây, Mưa, các sao Ngũ Tinh, Bắc Đẩu, Nam Đẩu; 9 ngọn núi lớn: Thiên Tôn, Ngự Bình, Thương Sơn, Hồng Lĩnh, Tản Viên, Núi Duệ, Đại Lãnh, Hải Vân, Hoành Sơn; 9 sông lớn: sông Hậu, sông Tiền, sông Mã, Bạch Đằng, sông Hồng, sông Hương, sông Gianh, Thạch Hãn, sông Lam
Trong 9 đỉnh, có 3 đỉnh to cao nhất và quan trọng nhất có khắc biển đảo nước Việt, gồm: Biển Đông ở Cao đỉnh, biển Nam ở Nhân đỉnh và biển Tây ở Chương đỉnh. Cùng với hàng loạt tài liệu Hán Nôm cổ, những hình ảnh biển đảo được khắc trên bộ Cửu đỉnh là một nguồn tư liệu quý về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cửu đỉnh tại Thế Miếu.
Cửu đỉnh tại Thế Miếu.

White windmill near grass
White windmill near grass
Kỹ thuật đúc đồng tinh xảo
Theo thông tin từ Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Cửu đỉnh đạt đến trình độ tinh xảo nhất của nghệ thuật đúc đồng Việt Nam ở thế kỷ XIX. Bộ báu vật này do các nghệ nhân bậc thầy về đúc đồng dưới thời nhà Nguyễn chế tác. Kỹ thuật khắc nổi những họa tiết, hoa văn tinh tế với những hình ảnh “sống động” trên bộ Cửu đỉnh đòi hỏi các nghệ nhân phải kiên trì và có sự am hiểu nhất định.

Hình vẽ Cửu đỉnh trên tạp chí Bulletin des amis du vieux Hué. năm 1914
Hình vẽ Cửu đỉnh trên tạp chí Bulletin des amis du vieux Hué. năm 1914
Để làm nên Cửu đỉnh, người thợ phải làm ra những chiếc khuôn đúc với tỷ lệ chuẩn xác nhất định, đây là công đoạn quyết định đến sự thành công hay thất bại trong việc đúc Cửu đỉnh nói riêng.
Theo sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” thì Cửu đỉnh được đúc theo lối thủ công truyền thống nên khuôn đúc được tạo theo lối thủ công. Để tạo nên những khuôn đúc, người ta rất kì công trong việc lựa chọn loại đất sét phù hợp. Khuôn đúc Cửu đỉnh là những chiếc khuôn độc bản, vì để tránh sự sao chép, sau khi đúc hoàn chỉnh, các khuôn đúc đều bị phá bỏ.

Dấu tích thời gian trên thân đỉnh.
Dấu tích thời gian trên thân đỉnh.
Quá trình chế tác khuôn đúc được triều đình giám sát chặt chẽ. Theo sử quan nhà Nguyễn thì khoảng thời gian đúc Cửu đỉnh phải đúc cách đoạn, đúc từng chiếc, đến gần bảy tháng mới đúc xong.
Cửu đỉnh được đúc theo lối thủ công truyền thống nên khuôn đúc được tạo theo lối thủ công.
Theo một số sử liệu, Cửu đỉnh được đúc theo lối thủ công truyền thống nên việc tạo khuôn đúc cũng thực hiện theo thủ công qua việc chọn lựa loại đất sét phù hợp một cách tỉ mỉ. Khuôn đúc Cửu đỉnh là khuôn “độc bản”, sau khi hoàn thành chế tác, các khuôn đúc đều bị phá bỏ để tránh sự sao chép.
Quá trình chế tác khuôn đúc được triều đình giám sát chặt chẽ. Từ cách tạo dáng đến các hình chạm nổi trang trí bên ngoài cho thấy tất cả các đơn vị hoa văn, họa tiết trang trí trên Cửu đỉnh là một thực thể độc lập và duy nhất, không lặp lại ở bất kỳ nơi đâu.
Di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương
Ngày 8/5 tại Kỳ họp thứ 10 của Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO diễn ra ở thành phố Ulan Bator (Mông Cổ), “Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế” của Việt Nam chính thức được ghi danh vào Danh mục Di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO.

Chứng nhận ghi danh “Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế” của Việt Nam là Di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO.
Chứng nhận ghi danh “Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế” của Việt Nam là Di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO.
Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới và 23/23 quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham dự Kỳ họp đã đồng thuận đánh giá cao những giá trị của “Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế” của Việt Nam.
Theo PGS.TS. Nguyễn Tuấn Cường, Viện trưởng Viện Hán Nôm, đây là nguồn tư liệu độc đáo, quý hiếm được giới nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài rất quan tâm bởi nó mang giá trị nội dung về lịch sử, văn hóa - giáo dục, địa lý, phong thủy, y dược, nghệ thuật thư pháp.
Đặc biệt, vua Minh Mạng đã dùng hình thức đặt tên người phụ nữ lên dòng kênh để ghi dấu công lao, điều rất hiếm thấy dưới chế độ phong kiến. Đáng lưu ý nhất là nghệ thuật đúc đồng và kỹ thuật của người thợ để tạo nên tác phẩm đặc sắc, độc đáo. Con số 9 liên quan đến Cửu đỉnh ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa phương Đông, bao hàm ý nghĩa tính thống nhất và trường tồn của triều đại.

Đoàn Việt Nam tại Kỳ họp thứ 10 của Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO.
Đoàn Việt Nam tại Kỳ họp thứ 10 của Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO.
Các bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng đảm bảo tính nguyên vẹn, là “nhân chứng” lịch sử chứng kiến sự thăng trầm của triều đại, và điều quan trọng nhất là di sản tư liệu này được thể hiện dưới dạng hình ảnh và chữ Hán vẫn còn nguyên vẹn và ngay cả vị trí đặt chín chiếc đỉnh cũng chưa từng bị dịch chuyển.

Cửu đỉnh nhìn từ trên cao.
Cửu đỉnh nhìn từ trên cao.
“Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế” còn lưu trữ các giá trị về mối quan hệ giao thoa và tiếp xúc văn hóa xã hội của đất nước Việt Nam với các quốc gia trong khu vực Đông Á.
PGS.TS. Lê Thị Thu Hiền, Chủ tịch Ủy ban quốc gia MOW của Việt Nam, Cục trưởng Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đánh giá, đây là kết quả xứng đáng cho những nỗ lực của Việt Nam trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung và di sản tư liệu nói riêng. Việc Thừa Thiên - Huế có thêm một di sản được UNESCO ghi danh sẽ là một nguồn lực mới, góp phần quảng bá tiềm năng, thu hút du lịch, hợp tác quốc tế, từ đó, đóng góp cho sự phát triển bền vững của địa phương.
Việc Hồ sơ lần này được ghi danh đã nâng tổng số các danh hiệu, di sản UNESCO mà Việt Nam sở hữu lên 68 danh hiệu, góp phần thực hiện vượt mục tiêu của “Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2030”.
PGS.TS. Lê Thị Thu Hiền cũng chia sẻ, đến nay Việt Nam có 10 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh, đây chính là cơ sở thực tiễn để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch kiến nghị hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu trở thành một Chương mới trong Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) sẽ được Quốc hội thông qua vào cuối năm 2024.

Bà Lê Thị Hồng Vân, Tổng Thư ký UBQG UNESCO Việt Nam cho rằng, đây là niềm vui không chỉ đối với riêng Thừa Thiên Huế, mà còn là niềm vinh dự và tự hào của tất cả người dân Việt Nam. Việc Hồ sơ lần này được ghi danh đã nâng tổng số các danh hiệu, di sản UNESCO mà Việt Nam sở hữu lên 68 danh hiệu, góp phần thực hiện vượt mục tiêu của “Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2030”.
Việt Nam đã có 68 danh hiệu di sản UNESCO
Đây là sự ghi nhận, tin tưởng mà các nước khu vực và bạn bè quốc tế dành cho Việt Nam trong hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di sản tư liệu. Việc Thừa Thiên Huế có thêm một di sản, danh hiệu UNESCO sẽ góp phần giúp địa phương tiếp tục tham gia và mở rộng sự kết nối, trao đổi các kinh nghiệm và nâng cao kỹ năng bảo tồn và tiếp cận di sản tư liệu trong khu vực.
Ngày xuất bản: 11/5/2024
Tổ chức sản xuất: Hồng Minh
Nội dung và trình bày: Tuyết Loan
Ảnh: Quang Tiến, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Cục Di sản văn hóa.
