Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch Điện Biên Phủ ...

Suốt chặng đường 60 năm hoạt động cách mạng (1939-1999), trong đó có hơn 40 năm gắn bó với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, Đại tướng Đoàn Khuê luôn đem hết tinh thần, nghị lực và trí tuệ cống hiến cho Đảng, cho nhân dân, đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết. Đồng hành với những bước phát triển của đất nước, sự trưởng thành của quân đội, đồng chí đã nêu tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, nhà lãnh đạo uy tín, người chỉ huy xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đại tướng Đoàn Khuê (bí danh Võ Tiến Trình), sinh ngày 29/10/1923; quê ở làng Gia Đẳng, xã Triệu Lăng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Năm 1939, đồng chí Đoàn Khuê tham gia phong trào Thanh niên phản đế và bị địch bắt giam ở nhà lao Quảng Trị, sau đó bị đưa đi đày đi ở Buôn Ma Thuột. Sau khi thoát khỏi lao tù, đồng chí về hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng ở Quảng Bình. Tháng 6/1945, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, là Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Quảng Bình.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí Đoàn Khuê lần lượt giữ các chức vụ như: Ủy viên quân sự Ủy ban quân chính Khu C (gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam); Chính trị viên, Bí thư Hiệu ủy Trường Lục quân Quảng Ngãi (1946-1947); Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn Hồ Hích, Quảng Ngãi (1946-1947). Từ năm 1947 đến năm 1954, đồng chí là Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy các Trung đoàn: 69, 73, 78, 126, 84 Liên khu 5; Chính uỷ, Bí thư Đảng uỷ Trung đoàn chủ lực 108, Liên khu 5 rồi Phó Chính ủy Sư đoàn 305 - Sư đoàn chủ lực đầu tiên ở Nam Trung Bộ.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí là Phó Chính ủy Sư đoàn Pháo binh 675; Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Sư đoàn Pháo binh 351 (1954-1957); Chính ủy Lữ đoàn 270 ở khu vực giới tuyến quân sự (tháng 3/1958-1960); Phó Chính ủy Quân khu 4 (1960-1962), Ủy viên Quân khu ủy Quân khu 4... Năm 1963, đồng chí Đoàn Khuê được cử vào chiến trường miền Nam, đảm nhiệm các chức vụ như: Phó chính ủy Quân khu 5, Phó Bí thư Quân khu ủy, Ủy viên Thường vụ Khu ủy Khu 5, góp phần đưa chiến trường Quân khu 5 thành địa phương “đi đầu diệt Mỹ”.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ tháng 3/1977, đồng chí làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu 5, chỉ đạo “giải quyết vấn đề FULRO” và góp phần cùng Quân tình nguyện Việt Nam giải phóng Campuchia, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

Với kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo trên nhiều chiến trường nóng bỏng, từ năm 1983 đến năm 1986, đồng chí được phân công giữ các chức vụ Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719; Phó Trưởng ban rồi Trưởng ban lãnh đạo Đoàn Chuyên gia tại Campuchia, kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh 719.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia “hồi sinh đất nước”, từ tháng 2/1987 đến năm 1991, đồng chí Đoàn Khuê giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Từ tháng 8/1991 đến năm 1997 là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Năm 1998, Bộ Chính trị phân công đồng chí Đoàn Khuê chỉ đạo công tác bảo vệ chính trị nội bộ và Trưởng ban Chỉ đạo công tác tổng kết “Đảng lãnh đạo chiến tranh cách mạng”.

Đồng chí Đoàn Khuê được thăng quân hàm Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980), Thượng tướng (1984) và Đại tướng (1990); là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV, V, VI, VII, VIII; Ủy viên Bộ Chính trị khoá VI, VII, VIII; Đại biểu Quốc hội khoá VII, VIII, IX, X.

Đại tướng Đoàn Khuê từ trần ngày 16/1/1999, tại Hà Nội.

Với nhiều cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng Đoàn Khuê được Đảng, Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng (truy tặng năm 2007); được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, 2 Huân chương Quân công hạng Nhất, 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí Đoàn Khuê lần lượt giữ các chức vụ như: Ủy viên quân sự Ủy ban quân chính Khu C (gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam); Chính trị viên, Bí thư Hiệu ủy Trường Lục quân Quảng Ngãi (1946-1947); Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn Hồ Hích, Quảng Ngãi (1946-1947). Từ năm 1947 đến năm 1954, đồng chí là Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy các Trung đoàn: 69, 73, 78, 126, 84 Liên khu 5; Chính uỷ, Bí thư Đảng uỷ Trung đoàn chủ lực 108, Liên khu 5 rồi Phó Chính ủy Sư đoàn 305 - Sư đoàn chủ lực đầu tiên ở Nam Trung Bộ.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí là Phó Chính ủy Sư đoàn Pháo binh 675; Chính ủy, Bí thư đ Đảng ủy Sư đoàn Pháo binh 351 (1954-1957); Chính ủy Lữ đoàn 270 ở khu vực giới tuyến quân sự (tháng 3/1958-1960); Phó Chính ủy Quân khu 4 (1960-1962), Ủy viên Quân khu ủy Quân khu 4... Năm 1963, đồng chí Đoàn Khuê được cử vào chiến trường miền Nam, đảm nhiệm các chức vụ như: Phó chính ủy Quân khu 5, Phó Bí thư Quân khu ủy, Ủy viên Thường vụ Khu ủy Khu 5, góp phần đưa chiến trường Quân khu 5 thành địa phương “đi đầu diệt Mỹ”.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ tháng 3/1977, đồng chí làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu 5, chỉ đạo “giải quyết vấn đề FULRO” và góp phần cùng Quân tình nguyện Việt Nam giải phóng Campuchia, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

Với kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo trên nhiều chiến trường nóng bỏng, từ năm 1983 đến năm 1986, đồng chí được phân công giữ các chức vụ Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719; Phó Trưởng ban rồi Trưởng ban lãnh đạo Đoàn Chuyên gia tại Campuchia, kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh 719.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia “hồi sinh đất nước”, từ tháng 2/1987 đến năm 1991, đồng chí Đoàn Khuê giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Từ tháng 8/1991 đến năm 1997 là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Năm 1998, Bộ Chính trị phân công đồng chí Đoàn Khuê chỉ đạo công tác bảo vệ chính trị nội bộ và Trưởng ban Chỉ đạo công tác tổng kết “Đảng lãnh đạo chiến tranh cách mạng”.

Đồng chí Đoàn Khuê được thăng quân hàm Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980), Thượng tướng (1984) và Đại tướng (1990); là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV, V, VI, VII, VIII; Ủy viên Bộ Chính trị khoá VI, VII, VIII; Đại biểu Quốc hội khoá VII, VIII, IX, X.

Đại tướng Đoàn Khuê từ trần ngày 16/1/1999, tại Hà Nội.

Với nhiều cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng Đoàn Khuê được Đảng, Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng (truy tặng năm 2007); được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, 2 Huân chương Quân công hạng Nhất, 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cương vị là Chính ủy Lữ đoàn 341, đồng chí Đoàn Khuê cùng Ban Chỉ huy Lữ đoàn chỉ huy đơn vị phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân vũ trang và đảng bộ, chính quyền địa phương đề ra chủ trương “tiến lên phía trước để bảo vệ phía sau”, tổ chức các đơn vị vũ trang đầu tiên cho hai huyện Gio Linh và Cam Lộ, góp phần xây dựng Vĩnh Linh thành lũy thép kiên cường.

Khi đế quốc Mỹ triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đồng chí Đoàn Khuê được cử vào miền Nam, lần lượt đảm nhiệm các chức vụ như Phó Chính ủy Quân khu 5, Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên, Phó Bí thư Quân khu 5, Ủy viên Thường vụ Khu ủy Khu 5. Từ thực tiễn chiến trường và chỉ huy chiến đấu, đồng chí Đoàn Khuê đã đúc rút tư tưởng chỉ đạo phong trào đánh Mỹ ở Khu 5: “Vì đánh với kẻ mạnh nên ta phải lấy ít địch nhiều, lấy thô sơ đánh hiện đại, nên phải hết sức mưu trí linh hoạt, phát huy đánh gần đánh đêm là sở trường của ta để đạt hiệu suất cao”, góp phần nâng cao hiệu quả công tác chính trị, tư tưởng, bản lĩnh, ý chí quyết tâm “dám đánh, quyết đánh và quyết thắng” cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, đưa Quân khu 5 trở thành “địa phương đi đầu diệt Mỹ” với những trận đánh, chiến dịch nổi tiếng như Núi Thành, Vạn Tường, Pleime…

Trong Chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức (1974), đồng chí Đoàn Khuê chỉ đạo Sư đoàn 2 (Quân khu 5) vận dụng linh hoạt, sáng tạo chiến thuật “bao vây đánh lấn, tiến công dứt điểm”, tiêu diệt căn cứ Nông Sơn - Trung Phước (Quảng Nam) - cụm cứ điểm tiền tiêu của địch, nằm sâu trong vùng giải phóng của ta. Thành công trận then chốt mở màn đã mở ra thời cơ thuận lợi cho Chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức giành thắng lợi quyết định, tạo ra thế và lực mới cho ta trên chiến trường Khu 5 trong năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa kết thúc thắng lợi, ngay lập tức, nhân dân ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách bởi sự tàn phá của chiến tranh, tàn dư của chế độ cũ để lại. Ở địa bàn Quân khu 5, lực lượng FULRO - tổ chức phản động có vũ trang do thực dân Pháp xây dựng, sau đó đế quốc Mỹ nắm và điều khiển - trỗi dậy mạnh mẽ, ra sức phá hoại công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta với những âm mưu như tổ chức các hoạt động vũ trang gây tiếng vang, bắt thanh niên vào rừng, khống chế chính quyền, xây dựng các khung chính quyền ngầm.

Với những nghiên cứu và hiểu biết sâu sắc về tổ chức phản động này, đồng chí Đoàn Khuê nhấn mạnh: “FULRO không phải đơn thuần quân sự mà cả vấn đề chính trị, không phải giải quyết một lúc là xong, mà nội dung giải quyết FULRO phải đồng bộ, cả giáo dục chính trị, xây dựng cơ sở, thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, cùng với biện pháp quân sự và biện pháp nghiệp vụ của các ngành chuyên môn”. Trên cơ sở đó, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 Đoàn Khuê đã thảo luận, đi đến thống nhất với Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 chủ trương chuyển “truy quét FULRO” thành “giải quyết vấn đề FULRO”; đồng thời khẳng định nhiệm vụ “giải quyết vấn đề FULRO” là vấn đề đấu tranh lâu dài, không thể một sớm một chiều và phải tiến hành đấu tranh bằng cả quân sự và chính trị.

Với tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, quyết đoán và phù hợp với tình hình thực tiễn, đồng chí Đoàn Khuê cùng Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và hệ thống chính quyền các địa phương tăng cường bám cơ sở, kịp thời sơ tổng kết, nhân rộng cách làm hay, sáng tạo. Đồng chí Đoàn Khuê chỉ đạo các lực lượng thường xuyên kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với quân sự, tăng cường chăm lo đời sống kinh tế, văn hoá, tinh thần, sức khoẻ, tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo, giúp đỡ đồng bào các dân tộc thiểu số ổn định cuộc sống, góp phần đẩy lùi và “giải quyết triệt để FULRO”, giữ vững an ninh chính trị, củng cố quốc phòng, tạo điều kiện để xây dựng, phát triển toàn diện Tây Nguyên trong thời kỳ mới.

Đồng chí Đoàn Khuê (giữa) làm việc với Ban chỉ huy Tiểu đoàn 2 Gia Lai-Kon Tum ở Đồn 21 dịp Tết Mậu Ngọ 1978

Đồng chí Đoàn Khuê (giữa) làm việc với Ban chỉ huy Tiểu đoàn 2 Gia Lai-Kon Tum ở Đồn 21 dịp Tết Mậu Ngọ 1978

Đối phó hành động xâm nhập biên giới, lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam của tập đoàn phản động Pol Pot - Ieng Sari, đồng chí Đoàn Khuê đã chỉ đạo quân và dân Quân khu 5 tích cực dùng phương pháp đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao là chủ yếu nhằm thuyết phục đối phương phân rõ đúng sai; đồng thời chủ động sử dụng các giải pháp quân sự để ngăn chặn quân Pol Pot xâm nhập lãnh thổ Việt Nam.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, từ năm 1977, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 Thiếu tướng Đoàn Khuê nhanh chóng triển khai điều động các Trung đoàn 29, 95 và 1 lên bảo vệ biên giới. Đồng chí điều động một số đơn vị làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế sang làm nhiệm vụ thường trực, sẵn sàng chiến đấu; thành lập sở chỉ huy tiền phương của Quân khu trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy tác chiến phòng ngự bảo vệ biên giới; chỉ đạo các đơn vị phối hợp với quân và dân địa phương khu vực biên giới khẩn trương rào làng, rào tuyến biên giới.

Item 1 of 2

Đồng chí Đoàn Khuê (bên trái) trong chuyến công tác cùng Tổng Bí thư Lê Duẩn ở Đắk Lắk, ngày 10-4-1978

Đồng chí Đoàn Khuê (bên trái) trong chuyến công tác cùng Tổng Bí thư Lê Duẩn ở Đắk Lắk, ngày 10-4-1978

Đồng chí Đoàn Khuê đi kiểm tra xác định đường biên giới, năm 1978

Đồng chí Đoàn Khuê đi kiểm tra xác định đường biên giới, năm 1978

Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, ngày 10/6/1978, Tư lệnh Đoàn Khuê ra Mệnh lệnh số 395/TAC, mở một đợt hoạt động quân sự vào hậu phương địch trên 2 hướng: Hướng chủ yếu từ biên giới huyện Đức Cơ (Gia Lai - Kon Tum) phát triển theo Quốc lộ 19; hướng phối hợp từ khu vực BuPrăng (huyện Đức Lập, tỉnh Đắk Lắk) phát triển sang nhằm trừng trị hành động xâm lấn biên giới của quân Pol Pot, giúp cách mạng Campuchia mở rộng địa bàn hoạt động. Vào cuối năm 1978, Tư lệnh Đoàn Khuê chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu 5 tiến hành phản công, tiến công làm thất bại cuộc tiến công quy mô lớn vào lãnh thổ Việt Nam của tập đoàn phản động Pol Pot - Ieng Sari; đồng thời phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia tiến công giải phóng toàn bộ đất nước Campuchia, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng hồi sinh đất nước.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Đoàn Khuê và Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, trong hai năm kiên cường chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, quân và dân Quân khu 5 “không chỉ đánh bại mọi cuộc tiến công lấn chiếm của quân Pol Pot, giữ vững địa bàn biên giới được giao mà còn tăng cường lực lượng kịp thời cho các đơn vị bạn trong các chiến dịch lớn do Bộ tổ chức”.

Phát huy tinh thần “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”, năm 1983, Trung tướng Đoàn Khuê được phân công giữ chức Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia (Bộ Tư lệnh 719) kiêm giữ chức Phó Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia (tháng 4/1983 - tháng 1/1987).

Thực hiện chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Trung tướng Đoàn Khuê cùng tập thể Bộ Tư lệnh 719 lãnh đạo, chỉ đạo Đoàn 478 Chuyên gia quân sự, Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam trực thuộc các mặt trận 479, 579, 779 và 979 giúp bạn thực hiện thắng lợi 3 mục tiêu chiến lược: Tiếp tục làm tan rã lực lượng Pol Pot; xây dựng thực lực và bảo vệ thành quả của cách mạng Campuchia; tăng cường đoàn kết liên minh chiến đấu Campuchia - Việt Nam.

Cuối năm 1984, Trung tướng Đoàn Khuê trực tiếp thông qua phương án Chiến dịch A4, chỉ đạo hai sư đoàn bộ binh luồn sâu, đánh vu hồi, tiêu diệt 4 căn cứ lớn của quân Pol Pot và các lực lượng phản động khác ở biên giới. Đánh giá về thắng lợi này, Tư lệnh Chiến dịch A4 Trung tướng Nguyễn Chơn khẳng định: “Với cách đánh hiểm nên ta thu thắng lợi to lớn, toàn diện. Tôi nhận thấy, bao giờ anh [Đoàn Khuê] cũng quan tâm đến các mũi vu hồi, thọc sâu để tiêu diệt gọn địch, ta ít thương vong, đem lại hiệu quả chiến dịch cao”.

Cùng với hoạt động phối hợp chiến đấu, đồng chí Đoàn Khuê cùng Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia đặc biệt quan tâm giúp đỡ nhân dân Campuchia xây dựng tuyến công trình phòng thủ biên giới, hạn chế địch tiến công từ biên giới vào nội địa (K5). Đến đầu năm 1987, công trình phòng thủ K5 cơ bản hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần giải quyết gần như hoàn toàn sự xâm nhập của địch từ Thái Lan vào nội địa Campuchia, tạo thuận lợi để Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ và rút quân về nước sớm hơn.

Một người đảng viên cộng sản kiên trung, rất mực trung thành, tận tụy, suốt đời chiến đấu hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, một người lãnh đạo chỉ huy xuất sắc, có uy tín lớn của quân đội.

Đại tướng Đoàn Khuê là một cán bộ xuất sắc của Đảng ta - tấm gương sáng về một người Cộng sản kiên trung, người chỉ huy mẫu mực, dũng cảm, kiên cường vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.

Ngày xuất bản: 13/12/2024
Nội dung: Thiếu tá, ThS Lê Minh Nam, Viện Lịch sử Quân sự
Ảnh: QĐND; TTXVN
Tranh chân dung nhân vật: Họa sĩ Đỗ Hoàng Tường
Trình bày: Tạ Lư