Cao Bằng ghi dấu ấn của nhiều sự khởi đầu lịch sử: bước chân đầu tiên khi Bác Hồ - "Người đi tìm hình của nước" trở về sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước; những lời thề lịch sử ở khu rừng Trần Hưng Đạo trong buổi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân... Nhưng ít người biết, Cao Bằng còn có những địa danh ghi dấu ấn mở đầu của không chỉ một đội quân, mà còn ghi dấu ấn của những dòng điện đầu tiên.

Đã từng có nhiều tài liệu cho rằng nhà máy thủy điện đầu tiên của Việt Nam là Nhà máy thủy điện Ankroet (Lâm Đồng), khởi công xây dựng từ năm 1942 và đi vào hoạt động năm 1945. Tuy nhiên, cuốn “Điện lực Việt Nam - Quá trình phát triển” (Ấn phẩm kỷ niệm 125 năm của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, xuất bản tháng 12/2019) ghi nhận: “Nhà máy thủy điện đầu tiên ở nước ta là nhà máy thủy điện Tà Sa-Nà Ngần 825kW-750kW" (trang 30).

Theo đó, thủy điện Tà Sa xây dựng năm 1927, thủy điện Nà Ngàn (Nà Ngần) được xây dựng năm 1928. Cũng theo cuốn biên niên sử của ngành điện thì năm 1927 có thể được xem như dấu mốc mở đầu cho lịch sử ngành thủy điện ở Việt Nam.

Đường ống dẫn nước của nhà máy thủy điện Tà Sa.

Đường ống dẫn nước của nhà máy thủy điện Tà Sa.

Tuy nhiên, theo các tài liệu từ Pháp, thì thủy điện xuất hiện ở Việt Nam còn sớm hơn thế, vào 10 năm trước đó. Trong một tài liệu của Công ty Thiếc và Wolfram Bắc Kỳ (“Société des Étains et Wolfram du Tonkin”), một nhà máy điện đã xuất hiện tại Tà Sa từ năm 1917 (từ dùng trong văn bản là "nhà máy điện"). Công ty Thiếc và Wolfram Bắc Kỳ cũng là công ty chủ trì xây dựng hai nhà máy thủy điện Tà Sa và Nà Ngàn. Các thủy điện được xây dựng phục vụ cho công cuộc khai thác các mỏ thiếc và Wolfram tại Cao Bằng.

Một góc dòng chảy Tà Sa qua xóm Tà Sa.

Một góc dòng chảy Tà Sa qua xóm Tà Sa.

Năm 1918, một báo cáo ghi lại một phiên họp của Phủ Toàn quyền Đông Dương đã gọi chính xác tên nhà máy ở Tà Sa là "nhà máy thủy điện": “Nhà máy thủy điện tại Tà Sa của Công ty Thiếc và Wolfram Bắc Kỳ đã vận hành và dòng điện đã dùng cho những mỏ Saint-Alexandre (mỏ Phia Oắc- PV) và Sainte-Adèle (mỏ Tĩnh Túc - PV), để rửa quặng, phân tách điện từ, vận hành những tời nâng hạ trong trích xuất quặng". Cũng theo báo cáo này, nhà máy thủy điện Tà Sa được xây dựng trên Km34 từ Cao Bằng đi Nguyên Bình, cách 20km đường dây tới mỏ Phia Oắc, cách 2km tới mỏ Tĩnh Túc.

Thời điểm đó, dòng chảy của sông Nguyên Bình qua Tà Sa khi đó được đánh giá có sức nước lớn, độ dốc cao, rất thích hợp làm thủy điện. Mùa khô, lưu lượng nước ở đây khoảng 1500-2500 lít/giây (tương ứng với công suất tối thiểu 1.000 CV).

Một đoạn sông Nguyên Bình.

Một đoạn sông Nguyên Bình.

Cụm từ "nhà máy điện" được sử dụng một lần nữa trong một bài báo trên Tạp chí Khai khoáng và luyện kim (L’Écho des mines et de la métallurgie, xuất bản ngày 14/7/1918, trang 347-348): “Một nhà máy điện đã được xây dựng tại Tà Sa và đi vào hoạt động vào năm 1917. Nhà máy này có công suất 500CV (mã lực) và có thể tăng lên 1.000 mã lực”.  Dù không dùng từ "nhà máy thủy điện" nhưng bài báo cũng mô tả quá trình xây dựng nhà máy. Đó là xây dựng một đập bê-tông dài 40m để ngăn thành hồ chứa nước, và xây dựng thêm một câu cầu qua đập này để không làm gián đoạn tuyến đường từ Nguyên Bình về trung tâm Cao Bằng khi đó. Người Pháp cũng cho đào một con kênh dài hơn 1500m để dẫn nước từ độ cao hơn 60m, nước theo con kênh này sẽ tiếp tục đi qua một hệ thống ống dẫn dài 100m. Dấu tích của đường ống dẫn này vẫn còn tại thị trấn Tĩnh Túc, nơi có một đoạn đường ống ngầm hiện nay được gọi là hang Tuy Nen. 

Đường vào Nhà máy thủy điện Tà Sa.

Đường vào Nhà máy thủy điện Tà Sa.

Tới năm 1920, những tài liệu về công trình thủy điện ở Tà Sa có nhiều hơn, đi kèm với những bài báo, những báo cáo về tình hình khai thác khoáng sản tại Cao Bằng. Cũng cần nói thêm rằng, người Pháp cho xây dựng các nhà máy điện để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2, và ở Cao Bằng, người Pháp đặc biệt chú trọng tới khai thác thiếc và vonfram tại mỏ Tĩnh Túc, Nguyên Bình. Ngày 16/10/1920, Tạp chí Đường sắt của Pháp đã có một bài báo về tình hình khai thác khoáng sản ở Bắc Kỳ (Tonkin), trong đó có một dòng ghi: "Một nhà máy thủy điện công suất 500 mã lực và có thể tăng lên tới 1.200 mã lực đã hoạt động".

Một nhà máy điện đã được xây dựng tại Tà Sa và đi vào hoạt động vào năm 1917.

Tạp chí Khai khoáng và luyện kim
(L’Écho des mines et de la métallurgie, xuất bản ngày 14/7/1918)

Nhà máy thủy điện Tà Sa.

Nhà máy thủy điện Tà Sa.

Như vậy, nhà máy thủy điện Tà Sa - nhà máy thủy điện đầu tiên của Việt Nam đã đi vào hoạt động từ trước 1927 rất nhiều năm, cụ thể là từ năm 1917. Thời điểm 1927-1928, nhà máy thủy điện Tà Sa và thủy điện Nà Ngàn được bổ sung thêm các tổ máy để tăng công suất hoạt động. Ngày 10/6/2928, trong tạp chí Thức tỉnh kinh tế Đông Dương (L’Éveil économique de l’Indochine), đã có một bài báo, có nội dung: “Công ty Thiếc và Wolfram Bắc Kỳ đã xây dựng một nhà máy thủy điện tại Tà Sa, trên sông Nguyên Bình. Đó là một nhà máy thủy điện gồm ba tổ máy công suất 230kW mỗi tổ máy”.

Thực tế năm 1927-1928 đã có nhiều nhà máy thủy điện ở các vùng núi phía bắc được xây dựng như nhà máy thủy điện Bản Mân (Hà Giang), nhà máy thủy điện Bản Thi (Bắc Cạn), nhà máy thủy điện Cát Cát (Sa Pa, Lào Cai). 

Đường ống dẫn nước của nhà máy thủy điện Tà Sa.

Đường ống dẫn nước của nhà máy thủy điện Tà Sa.

Cả hai nhà máy Tà Sa và Nà Ngàn đều tận dụng dòng chảy của sông Nguyên Bình, cung cấp điện trong công cuộc khai thác khoáng sản. Và nhờ thế, vị trí thị trấn Tĩnh Túc bây giờ, là nơi được "hưởng" nguồn điện sớm nhất nhì Việt Nam. Nói cho chính xác, nếu như Hải Phòng là nơi đầu tiên của Việt Nam có điện (năm 1892), sau đó là Hà Nội, Sài Gòn (TP Hồ Chí Minh), với nguồn điện từ các nhà máy nhiệt điện than, thì Tĩnh Túc lại sớm được thắp sáng bởi điện từ thủy điện.

Theo bài báo trên Tạp chí Khai khoáng và luyện kim ngày 14/7/1917 thì thời điểm nhà máy thủy điện Tà Sa hoạt động, kéo theo đó là: “Toàn bộ ngôi làng (vị trí thị trấn Tĩnh Túc bây giờ) đã được thắp sáng bằng điện”. 

Một công trình cũ ở Nhà máy thủy điện Tà Sa.

Một công trình cũ ở Nhà máy thủy điện Tà Sa.

Năm 1955, khi mỏ thiếc Tĩnh Túc hoạt động trở lại, thủy điện Tà Sa cũng được xây dựng trên cơ sở đập cũ để tiếp tục cung cấp điện cho mỏ thiếc.  Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền bắc bước vào giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa.  Năm 1956, nhà máy thủy điện Tà Sa được sửa chữa và đưa vào hoạt động trở lại dưới sự giúp đỡ của Liên Xô. Theo sơ đồ tại mỏ thiếc Tĩnh Túc, suốt những năm tháng xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhà máy thủy điện Tà Sa và Nà Ngàn đã góp phần không nhỏ làm nên thị trấn Tĩnh Túc như một điểm sáng mà người ta có thể hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng ở miền bắc.

Một góc mỏ thiếc Tĩnh Túc.

Một góc mỏ thiếc Tĩnh Túc.

Tới bây giờ, thủy điện Tà Sa vẫn duy trì hai tổ máy hoạt động. Mặc dù thời gian đã phủ rêu lên rất nhiều công trình của nhà máy, nhưng những dấu vết vẫn đâu đó, qua những dòng chữ khẩu hiệu từ 50 năm trước, hay những đường ống đã phủ màu thời gian. Từ cây cầu Tà Sa trên QL34, đi theo con dốc chừng 2km là bắt gặp nhà máy thủy điện Tà Sa.

Cầu Tà Sa cũ.

Cầu Tà Sa cũ.

Có thể, cây cầu chính là dấu vết của đoạn cầu bắc qua dòng kênh hơn 1500m mà bài viết Tạp chí Khai khoáng và luyện kim đã đề cập. Thời điểm hiện tại, hai nhà máy thủy điện Tà Sa và Nà Ngàn vẫn hoạt động với sản lượng điện bình quân hằng tháng xấp xỉ 200.000kWh.

Toàn cảnh xóm Tà Sa.

Toàn cảnh xóm Tà Sa.

Ngày xuất bản: 31/1/2025
Nội dung: MAI NGUYÊN
Trình bày: NGÔ HƯƠNG