Địa đạo Củ Chi ở Thành phố Hồ Chí Minh gồm hệ thống đường hầm dọc ngang nhiều tầng, dài hơn 250km, xuyên sâu trong lòng đất kết hợp với khoảng 500km chiến hào bao quanh. Những đường hầm bé nhỏ trong lòng đất là dấu ấn một kỳ tích anh hùng, “kỳ quan” trong lòng đất của nghệ thuật chiến tranh du kích Việt Nam.

Hơn 250 cây số hầm địa đạo xuyên trong lòng đất

Những ngày trước Đại lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, cựu chiến binh Phạm Hồ Quang, Đại tá, nguyên Trưởng phòng Tuyên huấn Bộ đội Biên phòng, có dịp đến thăm địa đạo Củ Chi. Ông thành kính thắp một nén hương tại Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược để tri ân những người đã ngã xuống vì Tổ quốc, rồi lặng lẽ ngắm từng căn hầm, góc địa đạo, nắp hầm bí mật, nơi chiến đấu của quân và dân Củ Chi năm nào.

Ông Quang xúc động chia sẻ: “Thăm mỗi điểm di tích, mỗi đường hầm, góc địa đạo, tôi vô cùng khâm phục tinh thần yêu nước, mưu trí, dũng cảm, vượt khó vươn lên không chịu lùi bước trước mọi khó khăn nguy hiểm và ý chí quyết tâm của quân dân miền nam nói chung, cũng như quân và dân Củ Chi, Sài Gòn-Gia Định nói riêng”.

Theo tư liệu của Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch), hệ thống địa đạo Củ Chi tại Thành phố Hồ Chí Minh hình thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, khoảng vào năm 1948. Hệ thống địa đạo được xây dựng sớm nhất tại hai xã Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An, và tên gọi địa đạo Củ Chi cũng xuất hiện từ đó.

Lúc đầu, địa đạo chỉ có những đoạn hầm ngắn, cấu trúc đơn giản, dùng để giấu tài liệu, trú ém cán bộ trong vùng địch hậu. Nhưng bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, địa đạo được gia cố và mở rộng. Từ năm 1961 đến năm 1965 cuộc chiến tranh du kích của dân nhân ở Củ Chi đã phát triển mạnh, gây cho địch những tổn thất lớn, góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Sáu xã phía bắc huyện Củ Chi đã hoàn chỉnh đường địa đạo “xương sống”. Sau đó, các cơ quan, đơn vị phát triển địa đạo nhánh ăn thông với đường “xương sống”, thành hệ thống địa đạo liên hoàn.

Từ năm 1961, khi Khu ủy, Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn-Gia Định chọn Củ Chi làm địa bàn hoạt động, thì hệ thống địa đạo ở đây phát huy tối đa tác dụng, đặc biệt từ năm 1966, trước những hành động của quân xâm lược Mỹ sau khi vào miền nam tham chiến. Đến tháng 1/1967, với sức mạnh và ý chí quật cường, quân và dân Củ Chi đã kiến tạo được một hệ thống đường hầm dọc ngang, nhiều tầng, dài hơn 250km xuyên trong lòng đất, kết hợp với khoảng 500km chiến hào, công sự trên mặt đất, tựa như “thiên la địa võng”, khiến kẻ thù phải khiếp sợ…

Hệ thống đường hầm dọc ngang, nhiều tầng, kết hợp với chiến hào, công sự trên mặt đất tạo thành “thiên la địa võng” khiến kẻ thù phải khiếp sợ.

Hệ thống đường hầm dọc ngang, nhiều tầng, kết hợp với chiến hào, công sự trên mặt đất tạo thành “thiên la địa võng” khiến kẻ thù phải khiếp sợ.

Phong trào đào địa đạo ngày càng phát triển mạnh mẽ, người người tham gia xây dựng đường hầm đánh giặc đã minh chứng cho sức mạnh ý chí của con người đã chiến thắng khó khăn trong điều kiện chiến tranh ác liệt.

Chỉ bằng phương tiện dụng cụ hết sức thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất bằng tre, quân và dân Củ Chi đã tạo nên công trình đồ sộ với hàng trăm km đường ngầm dọc ngang trong lòng đất, nối liền các xã ấp với nhau như một “làng ngầm” kỳ diệu.

Với nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Cát (Hà Nội), địa danh Củ Chi luôn là nơi trái tim gia đình ông hướng về, bởi đó là nơi hy sinh của của người em trai - nhạc sĩ, liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Vĩnh Bảo.

Là một nhạc sĩ từ Hà Nội xung phong vào nam chiến đấu, liệt sĩ Nguyễn Vĩnh Bảo đã hy sinh vì bom Mỹ ở mặt trận Củ Chi vào tháng 6/1967, khi mới 31 tuổi. Thi thể của ông cũng không được tìm thấy, chỉ còn ngôi mộ gió đặt tại Nghĩa trang Liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh.

Niềm vui ngày thống nhất đất nước với gia đình nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Cát có lẽ không trọn vẹn. Nhưng bên cạnh nỗi đau mất mát, liệt sĩ Nguyễn Vĩnh Bảo vẫn là niềm tự hào vô bờ bến của gia đình vì ông đã hy sinh vì Tổ quốc.

Bức tường đá ở Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược có khắc tên em Nguyễn Vĩnh Bảo trong danh sách những người đã hy sinh. Tin rằng, tên của em Bảo cũng như gần 46 nghìn cái tên khác của những người đã ngã xuống vẫn còn được nhắc nhớ trên mảnh đất Củ Chi này.
Nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Cát

“Không có hy sinh thì không có ngày thống nhất đất nước và ngày đoàn tụ của hàng triệu gia đình khác. Em tôi đã ngã xuống trên mảnh đất Củ Chi, nhưng hình ảnh của em vẫn luôn được nhớ tới trong ký ức bao người”, nhạc sĩ Vĩnh Cát trầm ngâm.

Mỗi lần đến địa đạo Củ Chi, cảm xúc tiếc thương lại day dứt trong lòng nhạc sĩ Vĩnh Cát. Ông cũng từng xuống lòng địa đạo, ăn khoai mỳ chấm muối vừng như một trải nghiệm lại cuộc sống của em trai khi chiến đấu trên mảnh đất thành đồng.

“Bức tường đá ở Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược có khắc tên em Nguyễn Vĩnh Bảo trong danh sách những người đã hy sinh. Đó cũng là dấu ấn để lại của em trong lòng đồng đội và người dân nơi đây. Tin rằng, tên của em Bảo cũng như gần 46 nghìn cái tên khác của những người đã ngã xuống vẫn còn được nhắc nhớ trên mảnh đất Củ Chi này”, nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Cát chia sẻ.

Cuộc chiến từ trong lòng “Đất thép thành đồng”

Trong một lá thư gửi về gia đình ngày 25/2/1967, nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Bảo viết về một trận càn lớn ở đất Củ Chi: “…Ba ngày ba đêm chịu tám, chín trận B52, ấy thế mà em vẫn bình thường, khỏe mạnh. Xe lội nước của chúng thọt ra, thọt vào thường xuyên nhưng có làm sao đâu, mà có lúc còn dám ra đứng ngó xe lội nước của thằng Mỹ xem nó hung hăng đến mức nào nữa. Nào là M113, M41, nào là xe phòng lửa, rồi Mỹ đen, Mỹ trắng… đủ loại”. Và “ngồi ở đất Củ Chi này mới thấy được thế nào là khí thế cách mạng, là sức mạnh của quần chúng, ngày thắng lợi chắc cũng chẳng còn bao xa nữa”.

Suốt một thời gian dài, địch liên tục tấn công đánh phá vùng căn cứ và hệ thống địa đạo Củ Chi hết sức khốc liệt, bằng những thủ đoạn như: Bơm nước vào lòng địa đạo, dùng đội quân “chuột cống” đánh phá, dùng chó béc-giê săn lùng phát hiện địa đạo để phá, dùng xe cơ giới ủi phá, gieo cỏ Mỹ phá địa hình,… lực lượng Mỹ-ngụy đã thực hiện hơn 5.000 cuộc hành quân càn quét vào vùng căn cứ cách mạng Củ Chi.

Trung bình, mỗi năm có khoảng 330 trận càn, với đủ sắc lính, các cấp hành quân, loại hình chiến thuật. Tính từ năm 1954-1975, khối lượng bom đạn Mỹ trút xuống Củ Chi khoảng 500.000 tấn. Tính trung bình, mỗi người dân ở đây phải hứng chịu khoảng 1,5 tấn bom. Ngoài ra, có khoảng 480 tấn chất độc hóa học các loại đã được quân địch rải xuống vùng đất này.

Thế nhưng, dựa vào hệ thống địa đạo, quân và dân Củ Chi kiên cường bám trụ, đánh địch bằng cả 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận) với phương châm “nắm thắt lưng địch mà đánh”, thực hiện lối đánh áp sát với những chiến thuật bắn tỉa, phục kích, tập kích, phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, vô hiệu hóa được nhiều loại vũ khí hiện đại nhất và làm thất bại âm mưu của địch.

Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quân và dân huyện Củ Chi đã lập được những chiến công xuất sắc. Đó là: đánh 4.269 trận lớn, nhỏ; loại khỏi vòng chiến đấu 22.582 tên địch (bắt sống hơn 10.000 tên lính Mỹ, 710 lính ngụy); binh vận làm rã ngũ 32.000 tên; phá hủy và đánh chiếm hơn 5.168 xe quân sự (phần lớn là xe tăng và xe bọc thép); bắn rơi và làm hư hỏng 256 máy bay (chủ yếu là trực thăng); bắn chìm và cháy 22 tàu, xuồng chiến đấu; đánh sập và hỏng 173 cầu cống, thu 8.581 súng các loại; bức hàng, bức rút, đánh sập 270 lượt đồn bốt địch…

Với những chiến công vang dội đó, toàn huyện Củ Chi đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý. Tuy nhiên, trong hai cuộc chiến trường kỳ đó, Củ Chi cũng chịu nhiều tổn thất: 10.101 dân thường bị chết; hơn 10.000 chiến sĩ, thanh niên đã hy sinh, 28.421 nhà bị cháy, 20.000ha ruộng, rẫy và rừng bị tàn phá…

Đi qua hai cuộc chiến tranh, theo một thống kê chưa đầy đủ, Củ Chi có 2.135 Mẹ Việt Nam Anh hùng; 40 Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 13.598 gia đình thương binh, liệt sĩ và 20.208 gia đình có công cách mạng.

Huyện Củ Chi được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam phong tặng danh hiệu “Đất thép thành đồng” vào ngày 17/9/1967 và được Chính phủ hai lần trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

“Kỳ quan” trong lòng đất của nghệ thuật chiến tranh du kích

Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi hiện nay gồm: Địa đạo Bến Dược (Căn cứ Quân khu Sài Gòn-Gia Định (Khu A), Căn cứ Khu ủy Sài Gòn-Gia Định (Khu B) và Địa đạo Bến Đình (Căn cứ Huyện ủy Củ Chi).

Về cơ bản, hệ thống địa đạo trong di tích chạy ngoắt nghéo trong lòng đất, từ đường “xương sống” (đường chính) tỏa ra vô số nhánh, ăn thông với nhau, hoặc độc lập, tùy theo địa hình. Có nhiều nhánh trổ rộng ra sông Sài Gòn, để khi gặp tình thế nguy kịch, lực lượng du kích và quân đội của ta có thể vượt qua sông sang vùng căn cứ Bến Cát (Bình Dương).

Hệ thống đường hầm có khả năng chống được đạn pháo và sức nặng của xe tăng, xe bọc thép, những đoạn hầm sâu chống được bom cỡ nhỏ. Có những đoạn cấu trúc từ 2 đến 3 tầng (tầng trên gọi là “thượng”, tầng dưới gọi là “trầm”). Chỗ lên xuống giữa các tầng có nắp hầm bí mật. Trong địa đạo có những nút chặn ở những điểm cần thiết để ngăn địch hoặc chất độc hóa học do địch phun vào. Có những đoạn hẹp (eo), phải lách người mới chui qua được.

Lối xuống tầng 2.

Lối xuống tầng 2.

Dọc theo đường hầm có lỗ thông hơi bên trên, được ngụy trang kín đáo và trổ lên mặt đất bằng nhiều cửa bí mật. Nhiều cửa được cấu trúc thành ổ chiến đấu, ụ bắn tỉa rất linh hoạt. Dưới những khúc địa đạo ở khu hiểm yếu, có đặt hầm chông, hố đinh, cạm bẫy… Chung quanh cửa lên xuống hầm được bố trí nhiều hầm chông, hố đinh, mìn trái (gọi là tử địa), có cả mìn lớn chống tăng và mâm phóng lựu đạn chống máy bay trực thăng, nhằm tiêu diệt, ngăn chặn quân địch tới gần.

Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng có thể mắc võng để nghỉ ngơi. Trong hầm có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, thực phẩm, có giếng nước, bếp “Hoàng Cầm”, hầm làm việc của lãnh đạo, hầm giải phẫu, nuôi dưỡng thương binh, hầm chữ A vững chắc cho phụ nữ, người già, trẻ em trú ẩn. Có những hầm lớn, mái lợp thoáng mát, bên trên ngụy trang khéo léo để hội họp, biểu diễn văn nghệ…

Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi đã được công nhận là Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt từ năm 2015. Vào năm 2022, Thành phố Hồ Chí Minh đã hoàn thành giai đoạn 1 trong quá trình triển khai làm hồ sơ trình UNESCO công nhận địa đạo Củ Chi là Di sản Thế giới. Sau đó, việc nghiên cứu xây dựng hồ sơ di sản sẽ triển khai giai đoạn 2, tiến độ từ 4 đến 5 năm.

Như vậy, dự kiến đến năm 2027, UBND Thành phố Hồ Chí Minh hoàn thiện hồ sơ, phối hợp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu Thủ tướng Chính phủ quyết định việc đề nghị UNESCO xem xét đưa Di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi vào danh mục Di sản thế giới.

Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi là nơi các đồng chí lãnh đạo Khu ủy, Quân khu Sài Gòn-Gia Định sống và làm việc, trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo cách mạng Sài Gòn-Gia Định. Trong số này, có nhiều đồng chí sau giải phóng đã trở thành lãnh đạo cao cấp của Trung ương như các đồng chí: Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Mai Chí Thọ…. Đây cũng là nơi các lực lượng vũ trang và nhân dân Củ Chi sinh sống, trú ẩn, gắn bó với địa đạo bằng mồ hôi, xương máu và trí tuệ, tổ chức trận địa chiến đấu đánh địch giành nhiều thắng lợi vẻ vang trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước.

Địa đạo Củ Chi là một kỳ quan về nghệ thuật quân sự độc đáo của Việt Nam, thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất của con người vùng “đất thép”, một trong những biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Kiến trúc địa đạo mang tính kế thừa và có giá trị về nhiều mặt, đặc biệt là về mặt nghệ thuật quân sự, chiến tranh nhân dân, với những sáng tạo kiệt xuất, đã phát triển đến đỉnh cao trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, mà cả thế giới phải ghi nhận.

Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi là địa chỉ lý tưởng để giáo dục truyền thống cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn với người dân.

Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi là địa chỉ lý tưởng để giáo dục truyền thống cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn với người dân.

Hiện nay, Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi là địa chỉ lý tưởng để giáo dục truyền thống cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn với người dân. Địa danh này tri ân công ơn to lớn của các anh hùng, liệt sĩ, đã chiến đấu, hy sinh trên vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Hằng năm, khu di tích địa đạo Củ Chi đón hơn 1 triệu lượt khách trong nước và quốc tế đến tham quan hệ thống địa đạo, viếng Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược cũng như các hoạt động giáo dục truyền thống lịch sử, cách mạng…

Theo tư liệu của Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi, công trình này đã được đánh giá là một “kỳ quan” trong lòng đất của nghệ thuật chiến tranh du kích Việt Nam.

Địa đạo Củ Chi là nơi thu nhỏ trận đồ biến hóa và sáng tạo của quân và dân Củ Chi trong cuộc kháng chiến lâu dài, ác liệt suốt 30 năm chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Với tầm vóc chiến công của mình, địa đạo Củ Chi đã đi vào lịch sử đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam như một huyền thoại của thế kỷ 20 và trở thành một địa danh nổi tiếng trên thế giới.

Theo dấu địa đạo

Hiện nay, Địa đạo Củ Chi được bảo tồn ở hai địa điểm chính. Đó là Địa đạo Bến Dược (căn cứ Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định) tại ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng và Địa đạo Bến Đình (căn cứ Huyện ủy Củ Chi) tại ấp Bến Đình, xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại địa đạo Bến Dược, du khách sẽ được tham quan hệ thống địa đạo, những căn hầm của các đồng chí lãnh đạo Khu ủy và Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã từng sống, chiến đấu trong suốt thời kỳ chiến tranh.

Đó là các công trình nằm sâu dưới lòng đất như: Hầm ở và làm việc của các đồng chí lãnh đạo Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, hầm hội họp, hầm giải phẫu, hầm chữ A chống sụp lỡ khi bom pháo nổ gần, hầm chứa lương thực và vũ khí, nắp bí mật, lỗ thông hơi, ổ chiến đấu, giếng nước, bếp Hoàng Cầm, công binh xưởng, nhà may quân trang, nhà cắt dép râu, nhà trưng bày vũ khí tự tạo…

Xuyên qua cánh rừng là Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược. Tại đây, du khách tham quan có thể chiêm ngưỡng bức tranh ghép gốm lớn nhất, tháp 9 tầng, tham quan sa bàn biểu diễn đánh bại trận càn Cedar Falls của quân đội Mỹ vào vùng “Tam giác sắt” năm 1967, khu tái hiện vùng giải phóng Củ Chi để biết được phong cách kiến trúc nhà cửa, cuộc sống, sinh hoạt, chiến đấu của quân và dân Củ Chi trong giai đoạn từ năm 1961-1972.

Một điểm nhấn của khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi là Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược được xây dựng để tưởng nhớ công ơn to lớn của đồng bào, chiến sĩ đã chiến đấu, hy sinh trên vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Bên trong đền có những bia đá hoa cương khắc tên những liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Có 45.666 liệt sĩ được ghi tên trong đền, gồm các Mẹ Việt Nam Anh hùng, anh hùng, liệt sĩ, trong đó có 14.077 liệt sĩ là con em của 40 tỉnh, thành phố khác và 800 liệt sĩ không rõ quê quán.

Cùng với đó là không gian trưng bày chín chủ đề về những sự kiện tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

Địa đạo Bến Đình nằm trên Tỉnh lộ 15, đây là căn cứ của Huyện ủy Củ Chi.

Sau phong trào Đồng khởi, đến năm 1967, phong trào đào địa đạo ở Củ Chi từng bước được cải tiến và phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn huyện, đặc biệt là ở 6 xã phía bắc. Riêng xã Nhuận Đức có hệ thống địa đạo liên hoàn 4 ấp: Ấp Bàu Trăn, ấp Xóm Bưng, ấp Bà Thiên, ấp Bến Đình.

Do Bến Đình có địa thế rất thuận lợi, có khu rừng trích trải dài trên 100ha, dáng đất cao ráo, rắn chắc, khó bị sụp lỡ lại nằm cặp sông Sài Gòn, trường hợp địch hành quân càn quét, ta có thể cơ động về phía sông rút lui an toàn. Vì vậy, Huyện ủy Củ Chi chọn Bến Đình làm căn cứ cơ bản để lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân Củ Chi trong cuộc chiến khốc liệt với quân Mỹ từ 1968 đến 1975.

Ngoài việc tham quan hệ thống đường hầm, nơi ăn ở, sinh hoạt, hội họp của các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy Củ Chi, hầm chế tạo vũ khí, nhà trưng bày vũ khí tự tạo…nơi đây còn có hệ thống chiến hào chằng chịt, có đường địa đạo ra hướng căn cứ Đồng Dù.

Có dịp đến tham quan địa đạo Củ Chi, em Nguyễn Xuân Anh, sinh viên đến từ quận 7 (Thành phố Hồ Chí Minh), chia sẻ: “Cảm nhận sâu sắc nhất trong em là niềm tự hào về lòng yêu nước, bởi tinh thần quả cảm trong chiến đấu của các thế hệ ông cha đi trước”.

Bác Lê Thị Thục, 70 tuổi, đến từ thành phố Bắc Ninh cho hay: “Thật khó quên khi tận mắt chứng kiến cuộc sống dưới lòng đất một thời như thế. Tôi khâm phục sự thông minh, óc sáng tạo, tinh thần chiến đấu và sức chịu đựng kiên cường của quân và dân Củ Chi trong hệ thống địa đạo kỳ tích này”.

Còn theo Đại tá Phạm Hồ Quang, giờ đây, chúng ta cần đẩy mạnh tôn tạo, bảo vệ, giữ gìn Khu di tích địa đạo Củ Chi xứng đáng là địa chỉ đỏ, để có thể tích cực tuyên truyền, giáo dục truyền thống cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, về ý chí vươn lên của con người Việt Nam...

Một điểm nhấn của Khu di tích địa đạo Củ Chi là tour tham quan “Trăng Chiến khu” ra đời từ tháng 8/2023. Đây là sản phẩm du lịch mới nhằm thu hút nhiều hơn du khách đến tham quan và trải nghiệm.

Với sự phối hợp từ Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang, tour tham quan vào ban đêm tại Khu tái hiện vùng giải phóng với chủ đề “Trăng chiến khu” lấy bối cảnh của ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, giai đoạn 1961-1964. Qua đó, tái hiện lại cuộc sống, sinh hoạt về đêm của người dân Củ Chi sống trong vùng giải phóng.

Ngày đăng: 11/4/2025
Tổ chức sản xuất: MINH NHẬT
Nội dung: THẢO LÊ - NGÂN ANH
Ảnh: THÀNH ĐẠT - Khu Di tích lịch sử địa đạo Củ Chi
Trình bày: PHƯƠNG NAM