Có thể nói, mô hình CNXH Việt Nam thời kỳ Đổi mới đã được Đảng ta đặt nền móng từ Đại hội VI của Đảng năm 1986 và được hình thành một cách cơ bản trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, năm 1991 (gọi tắt là Cương lĩnh 1991).
Cương lĩnh 1991 không chỉ vạch ra một chiến lược dài hạn cho công cuộc Đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, mà còn có ý nghĩa khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới được vạch ra tại Đại hội VI của Đảng và thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện thắng lợi đường lối đó. Nền móng, cốt lõi của mô hình CNXH Việt Nam được Cương lĩnh 1991 xác lập chính là mục tiêu chung hướng đến dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN với 6 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là: (1) Do nhân dân lao động làm chủ; (2) Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; (3) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (4) Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; (5) Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; (6) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Cùng với mục tiêu chung và những đặc trưng cơ bản kể trên, mô hình CNXH Việt Nam theo Cương lĩnh 1991 cũng bao gồm 7 phương hướng cơ bản, thể hiện con đường, cách thức để đạt được yêu cầu phát triển 7 lĩnh vực chủ yếu hướng tới hiện thực hóa mục tiêu chung và các đặc trưng của chế độ xã hội, bao gồm:
(1) Nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
(2) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại.
(3) Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN với sự đa dạng về hình thức sở hữu.
(4) Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.
(5) Thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
(6) Thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
(7) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tuy nhiên, mô hình CNXH Việt Nam đặt ra trong Cương lĩnh 1991 được xây dựng trên cơ sở thực tiễn và nhận thức lý luận của Đảng ta vào thời điểm khi mà chúng ta vừa mới trải qua nhiệm kỳ đại hội đầu tiên của quá trình đổi mới, tình hình thế giới vô cùng phức tạp sau khi Liên Xô tan rã, nhiều vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH trong điều kiện đặc thù của nước ta chưa được nhận thức đầy đủ, rõ ràng. Mặt khác, trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều thay đổi rất nhanh chóng và rất phức tạp.
Thực tế triển khai thực hiện các nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước, nhất là việc giải quyết nhiều vấn đề mới nảy sinh, mang lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm mới, giúp cho Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn nội dung, yêu cầu, các giải pháp cần thiết để xây dựng đất nước theo con đường XHCN. Cũng trong quá trình đó, có những nội dung, vấn đề nêu ra trong Cương lĩnh 1991 về mô hình CNXH của nước ta hoặc là chưa đầy đủ, toàn diện, hoặc là không còn phù hợp với điều kiện thực tế, hoặc là đã bị thực tế vượt qua. Việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện nhận thức về mô hình CNXH của nước ta trở thành một yêu cầu khách quan, một đòi hỏi thực tiễn có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Trên cơ sở những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kết quả của nghiên cứu, tổng kết thực tiễn Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới xây dựng, phát triển đất nước, mô hình CNXH Việt Nam được nhận thức rõ hơn, được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng trong Cương lĩnh 2011, trong đó, xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng: (1) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (2) Do nhân dân làm chủ; (3) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; (4) Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (5) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; (6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; (7) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; và (8) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Từ 6 đặc trưng đặt ra trong Cương lĩnh 1991 đến 8 đặc trưng được xác định trong Cương lĩnh 2011, là một bước tiến xa, quan trọng trong nhận thức lý luận của Đảng, là kết quả to lớn trong phát triển sáng tạo lý luận về CNXH Việt Nam. Trước hết, đó là sự bổ sung hai đặc trưng, bao gồm đặc trưng thể hiện mục tiêu tổng quát, tính chất ưu việt của chế độ là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, và đặc trưng xác định tính chất Nhà nước vừa thể hiện tính quy luật chung của sự phát triển nhà nước trong tiến trình lịch sử của nhân loại, vừa mang tính đặc thù của Việt Nam - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Đồng thời, nội dung của một số đặc trưng được cập nhật, bổ sung, phát triển, thậm chí có những thay đổi để làm rõ hơn tính chất của thời kỳ quá độ lên CNXH với điều kiện riêng có của Việt Nam. Đó là trường hợp đặc trưng thứ ba, đặc trưng về kinh tế. Trước Đại hội XI của Đảng, trong quá trình chuẩn bị cho việc bổ sung, phát triển Cương 1991, có một bộ phận không nhỏ trong Đảng muốn giữ lại yêu cầu “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”, coi đó là một yếu tố không thể thiếu để phân biệt CNXH với CNTB. Vấn đề này đã được thảo luận trong các tổ chức đảng, thảo luận ở Ban Chấp hành Trung ương Đảng và cuối cùng được đưa ra lấy ý kiến tại Đại hội. Đại hội XI của Đảng đã thảo luận và thông qua biểu quyết để thống nhất nội dung đặc trưng kinh tế là: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Có thể nói, đặc trưng kinh tế theo cách tiếp cận mới phản ánh nhận định trong “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)” của Trung ương Đảng, trong đó chỉ ra rằng, đổi mới tư duy kinh tế của Đảng đã được thể hiện qua 6 bước chuyển: Từ tư duy kinh tế hiện vật sang tư duy kinh tế hàng hóa, thị trường; từ tư duy bao cấp sang tư duy chủ động, sáng tạo; từ tư duy khép kín sang tư duy kinh tế mở, hội nhập quốc tế; từ tư duy đơn sở hữu sang tư duy đa sở hữu, đa thành phần; từ không thừa nhận đến thừa nhận đa dạng hóa hình thức phân phối, kể cả phân phối theo vốn, tài sản; từ tư duy “Nhà nước độc quyền” sang tư duy đa dạng hóa chủ thể kinh tế[1].
Như vậy, việc xác định đặc trưng kinh tế có “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” là hợp lý, phù hợp với thực tế. Bởi vì, 6 bước chuyển nêu trên đã được xác lập trên thực tế, nền kinh tế thị trường đa thành phần, đa sở hữu đã trở thành trạng thái hiện thực, do đó, tiếp tục duy trì tính chất nền kinh tế với “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” cũng có nghĩa là sự bảo thủ, tạo ra một nút thắt cố chấp làm hạn chế sự phát triển nền kinh tế của đất nước.
Nói cách khác, việc xác định đặc trưng kinh tế theo cách tiếp cận mới thực sự có ý nghĩa cách mạng trong nhận thức về kinh tế của Đảng ta.
Với việc khẳng định tính chất quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, chúng ta không chỉ công nhận đa sở hữu trong kinh tế, mà cũng đồng thời mở ra phương hướng, điều kiện để phát triển đầy đủ một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện. Đó là: “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”[2].
Đồng thời với các nội dung về đặc trưng, Cương lĩnh 2011 cũng bổ sung, phát triển, làm rõ thêm 8 phương hướng xây dựng, phát triển đất nước, nhất là xác định rõ phương hướng về kinh tế là “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, và phương hướng xây dựng nhà nước là “Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”
Để thực hiện 8 phương hướng trên, lần đầu tiên, Cương lĩnh 2011 của Đảng đã chỉ ra và xác định các mối quan hệ lớn phải chú trọng nắm vững và giải quyết trong quá trình thực hiện các phương hướng xây dựng và phát triển đất nước. Đó là các mối quan hệ giữa: đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;...
Từ sau Đại XI đến Đại hội XIII, Đảng ta bổ sung hai mối quan hệ: giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Mô hình CNXH Việt Nam được xác định trong Cương lĩnh 2011 là kết quả phát triển sáng tạo về lý luận có tính đột phá của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tính chất đột phá của mô hình CNXH Việt Nam thể hiện ở chỗ, trên cơ sở kiên định Chủ nghĩa Mác – Lê nin, mà cốt lõi vấn đề là sự kiên định mục tiêu CNXH; kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh mà cốt lõi là giương cao ngọn cờ tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, nhận thức lý luận của Đảng đã tạo ra những bước chuyển biến to lớn, trong đó các bước chuyển chủ yếu là:
- Từ Nhà nước chuyên chính vô sản sang Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
- Từ nền kinh tế kế hoạch hóa dựa trên sở hữu nhà nước và tập thể sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đa sở hữu, đa thành phần, hội nhập quốc tế sâu rộng.
- Từ hệ thống chính sách văn hóa, xã hội chủ yếu tập trung cho việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ xã hội sang hệ thống chính sách văn hóa, xã hội vì sự phát triển toàn diện của con người cả về đời sống vật chất với tinh thần, kinh tế với văn hóa, cả con người xã hội với con người cá nhân, cải thiện không ngừng đời sống Nhân dân gắn với bảo đảm sự bền vững của môi trường.
- Từ nền quốc phòng, an ninh dựa trên thế trận nhân dân kết hợp với các mối quan hệ liên minh, lựa chọn chủ thể đối tác sang nền quốc phòng, an ninh dựa trên thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân, có sự phân biệt đối tác với đối tượng với phương châm 4 không - không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
- Từ nền ngoại giao “đóng kín” theo hệ tư tưởng sang nền ngoại giao đa phương rộng mở, hội nhập quốc tế sâu rộng, sẵn sàng làm bạn, làm đối tác tin cậy, có trách nhiệm với tất cả các nước trên thế giới.
Sự định hình ngày càng rõ mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là kết quả của sự thấm nhuần một quan điểm rất quan trọng của V.I. Lênin về lý luận mà Bác Hồ đã trích làm đề từ trên trang đầu sách Đường kách mệnh: “Không có lý luận kách mệnh thì không có kách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận kách mệnh tiền phong, đảng kách mệnh mới làm nổi trách nhiệm kách mệnh tiền phong”. Cần phải nói rằng, mô hình CNXH Việt Nam chính là những nhận thức lý luận mới của Đảng ta được hình thành và rút ra từ quá trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, cũng như quá trình thảo luận dân chủ trong Đảng, trong đó có vai trò rất to lớn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng.
Xét theo logic lịch sử, lý luận về mô hình CNXH Việt Nam xác định trong Cương lĩnh 2011 được đúc kết trên cơ sở toàn bộ quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đổi mới từ năm 1986 đến trước Đại hội Đảng lần thứ XI, năm 2011. Tuy nhiên, trong toàn bộ quá trình ấy, hai cuộc tổng kết: “Tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)”, và “Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991-2011)”, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Bởi vì, kết quả của hai cuộc tổng kết này đã cung cấp những cơ sở khoa học, thực tiễn, trực tiếp phục vụ cho việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh 2011.
Với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ thứ hai từ 2001 đến 2006, người thay mặt Bộ Chính trị phụ trách công tác lý luận của Đảng trong giai đoạn đến năm 2011, đồng chí Nguyễn Phú Trọng có vai trò to lớn trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cũng như đóng góp trực tiếp vào quá trình bổ sung, phát triển Cương lĩnh 2011 nói chung và mô hình CNXH Việt Nam nói riêng.
Trong cuộc “Tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)”, đồng chí Nguyễn Phú Trọng là Phó Trưởng ban chỉ đạo duy nhất, giúp Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trực tiếp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo. Ở cuộc “Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991-2011)”, đồng chí được phân công là Phó Trưởng tiểu ban thường trực của Tiểu ban Tổng kết bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991 và chuẩn bị Báo cáo Chính trị trình Đại hội XI của Đảng. Dưới sự chỉ đạo chung của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, đồng chí Nguyễn Phú Trọng là người trực tiếp tổ chức nghiên cứu, khảo sát thực tế, chịu trách nhiệm tổ chức việc tập hợp, chọn lọc các ý kiến, đề xuất các nội dung, biên tập bản thảo của báo cáo của hai cuộc tổng kết. Nhiều nội dung mới bổ sung, phát triển Cương lĩnh 2011 nói chung và mô hình CNXH Việt Nam nói riêng được rút ra từ kết quả của hai cuộc tổng kết nói trên.
Với những trách nhiệm ấy, vai trò và đóng góp của đồng chí vào quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là rất to lớn. Vai trò đó, đóng góp đó không chỉ ở công tác chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên, mà còn chính là sự định hướng, gợi mở các vấn đề, tổng kết để đưa ra kết luận trong các cuộc thảo luận. Đặc biệt là vai trò, đóng góp của đồng chí trong xây dựng, hoàn thiện các bản báo cáo tổng hợp, nguồn tài liệu trực tiếp phục vụ cho việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh 2011.
Từ Đại hội lần thứ XI của Đảng đến nay, đồng chí Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư của Đảng, người chủ trì trong việc phát triển, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có việc phát triển, hoàn thiện và khẳng định mô hình CNXH Việt Nam.
Trước hết, cùng với việc khẳng định “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”, đồng chí Nguyễn Phú Trọng tiếp tục làm sâu sắc hơn nhận thức của Đảng ta về CNXH và thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong bài nói tại Trường đảng cao cấp Nicô Lôpết Cu Ba ngày 9/4/2012, đồng chí nhấn mạnh: “quá độ lên CNXH là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”. Và quá độ lên CNXH đối với Việt Nam càng khó khăn, phức tạp hơn, bởi vì nước ta đi lên CNXH “từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề…”[3]
Từ nhận thức chung về thời kỳ quá độ lên CNXH của Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh và làm rõ thêm bản chất và cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của một số vấn đề mới được xác định trong các đặc trưng của chế độ xã hội XHCN và phương hướng xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN.
Vấn đề đầu tiên được đồng chí nhắc đến, nhấn mạnh nhiều nhất, sâu sắc nhất, chính là Nhân dân. Nội dung về Nhân dân được đặt ra và lý giải trên tất cả các chiều cạnh, từ vai trò và vị trí Nhân dân đối với chế độ, Đảng, Nhà nước và xã hội; từ sức mạnh của Nhân dân với vai trò là động lực, nguồn lực quan trọng nhất của phát triển; đến hạnh phúc của Nhân dân với ý nghĩa là mục đích tối thượng của phát triển; các chủ trương, giải pháp để tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết, phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân.
Không chỉ khẳng định vai trò, vị trí của Nhân dân như những nguyên tắc được xác định trong các đặc trưng, phương hướng phát triển của chế độ, của đất nước, đồng chí còn phân tích cụ thể, lý giải sinh động những yêu cầu về mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân; về trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đối với Nhân dân; về tác phong công tác, về thái độ ứng xử của cán bộ đảng viên đối với Nhân dân. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, đồng chí nói: “Cần khẳng định, ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.
Đây không chỉ là cách biểu đạt một vấn đề có tính quy luật của lịch sử, không chỉ là khẳng định quyết liệt, sâu sắc một quan điểm, chủ trương đặc biệt quan trọng của Đảng, Nhà nước và chế độ, đây còn là thể hiện một sự nhận thức sâu sắc về Nhân dân, một tấm lòng thương yêu hết mực vì Nhân dân, một tinh thần “luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu”.
Trong câu nói của đồng chí Tổng Bí thư, ta gặp câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại” [4]. Phải chăng đó chính là một biểu hiện sinh động về sự trung thành, kế tục và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhân dân nói riêng. Những ý kiến của Tổng Bí thư về vấn đề nhân dân càng cho thấy ý nghĩa sâu sắc và quan trọng của những thành tố “Nhân dân” với ý nghĩa khẳng định tính chất nền tảng quyết định trong các đặc trưng của chế độ xã hội XHCN mà Nhân dân ta xây dựng.
Gắn liền với vấn đề Nhân dân là vấn đề văn hóa. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”[5]. Nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò to lớn của văn hóa, ngay trong mở đầu bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, đồng chí Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn…”.
Luận giải về nền văn hóa mà nhân dân ta xây dựng là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng chí Tổng Bí thư xác định rõ nội dung của nền văn hóa đó là, thứ nhất, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; thứ ba, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước; thứ tư, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại; và thứ năm, mục tiêu là, xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao[6].
Bàn về các đặc trưng của CNXH, trong các tác phẩm của mình, tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập, phân tích và làm rõ từng đặc trưng từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn. Tuy nhiên, đồng chí dành sự quan tâm phân tích, lý giải làm rõ hơn đối với những vấn đề mới, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, của con người, những vấn đề còn có những ý kiến khác nhau, nhất là còn có những ý kiến chống đối từ các thế lực ngoài nước, trong đó có vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam. Đồng chí đã phân tích, chứng minh, chỉ rõ bản chất và cơ sở khoa học, cơ sở thực tế để khẳng định về sự tồn tại không thể bác bỏ của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam.
Theo đồng chí, đó là “một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)[7].
Nói đến nền kinh tế thị trường riêng có của Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn chỉ rõ và nhấn mạnh một thuộc tính quan trọng của nền kinh tế đó là định hướng xã hội chủ nghĩa:
- Đó là “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”.
- Đó là “mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn"[8].
Theo đồng chí, đây chính là một nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước, là nội dung của định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường đặc thù của Việt Nam. Bảo đảm nguyên tắc đó cũng chính là bảo đảm cho tính ưu việt của chế độ xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng. Trên cơ sở phân tích, làm rõ tính chất, nội dung, đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam, đồng chí khẳng định đây là “một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta”, là thành quả phát triển lý luận từ thực tiễn công cuộc đổi mới, “xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”[9].
Cùng với việc làm rõ nội dung, tính chất, cơ sở khoa học và thực tiễn của các đặc trưng, phương hướng và cách thức cơ bản để phát triển của mô hình CNXH Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, khái quát và khẳng định giá trị cốt lõi của mô hình CNXH Việt Nam. Những giá trị cốt lõi này được tổng kết và nêu lên từ bài nói tại Trường đảng Nicô Lôpết Cu Ba năm 2012 và tiếp tục được nhấn mạnh, làm rõ hơn trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” công bố năm 2021.
5 giá trị đó là: Thứ nhất, mục đích tối thượng của phát triển trong xã hội XHCN Việt Nam là vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân; thứ hai, trong xã hội XHCN Việt Nam, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; thứ ba, xã hội XHCN Việt Nam là xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; thứ tư, xã hội XHCN Việt Nam là xã hội phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; và thứ năm, toàn bộ quyền lực chính trị trong xã hội XHCN Việt Nam thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân[10].
5 giá trị cốt lõi trên chính là sự biểu hiện tập trung nhất của tính ưu việt, của mục đích nhân văn cao cả của xã hội XHCN mà Nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, đó cũng chính là những khát vọng ngàn đời của con người nói chung, cũng như của Nhân dân ta, dân tộc ta nói riêng.
Một vấn đề có tính nguyên tắc được đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn luôn quan tâm đặc biệt, quán triệt sâu sắc trong các bài viết, bài phát biểu quan trọng của mình, đó là vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng.Theo đồng chí: “Chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa” bởi vì “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”[11].
Nói về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đồng chí luôn nhấn mạnh mục đích phấn đấu của Đảng là vì lợi ích dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Để đạt được mục đích ấy, Đảng kiên trì lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, trong đó cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Nhấn mạnh quan điểm nhất quán, coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng chí Nguyễn Phú Trọng coi đó như là một logic tất yếu, một vấn đề do các yếu tố khách quan xã hội quy định, bởi vì Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thành công của cách mạng. Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác tổ chức, cán bộ được đồng chí xác định “là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước[12].
Công tác tổ chức, cán bộ là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, với chế độ, song lại là một công việc xây dựng con người, là công tác con người, vô cùng phức tạp, tinh tế. Vì thế, đồng chí yêu cầu không thể nóng vội, làm một lần là xong, mà ngược lại, phải làm rất kiên trì, bền bỉ, làm thường xuyên, liên tục, làm đi làm lại nhiều lần như đánh răng, rửa mặt, quét nhà, rửa bát hằng ngày như Bác Hồ đã dạy.
Để làm tốt công tác tổ chức, cán bộ phải làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện thử thách, kiểm tra thường xuyên, đánh giá lựa chọn chặt chẽ để bố trí, sắp xếp cán bộ đúng người, đúng việc; đồng thời phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn đẩy lùi những hạn chế, yếu kém, kiên quyết đưa ra khỏi tổ chức đảng nhất là ra khỏi những vị trí lãnh đạo, quản lý, những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, để làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Nhưng để giải quyết tận gốc rễ những hạn chế, yếu kém trong Đảng, thì phải tìm ra được nguyên nhân của nó, mà theo đồng chí: “Đó chính là do nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta; do sự yếu kém, thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục, lãnh đạo, quản lý; do sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng viên; sự thiếu gương mẫu của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân”[13]. Cũng như muốn trị bệnh cứu người thì phải tìm ra được bệnh là gì, trong công tác tổ chức, cán bộ, chỉ có tìm được nguyên nhân của hạn chế, yếu kém mới đưa ra được những nội dung giải pháp để sửa chữa, khắc phục.
Nhìn lại quãng thời gian từ sau Đại hội lần thứ XI của Đảng đến nay, với trách nhiệm là Tổng Bí thư, với tư cách là một nhà lý luận, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng và trực tiếp thể hiện quan điểm của mình trong nhiều tác phẩm quan trọng, nhằm bổ sung, hoàn thiện và định hình ngày càng rõ hơn mô hình CNXH Việt Nam. Đó là quá trình khẳng định, làm rõ hơn mục tiêu, các đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng, cùng các phương hướng chủ yếu nhằm hiện thực hóa mục tiêu và những đặc trưng đó.
Trong bài viết nhân dịp công bố tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí Walter Sorrentino, Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Brazil có nhận định: “Những tổng kết bài bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thắp sáng niềm tin, làm phong phú thêm kho tàng lý luận và thực tiễn của những người cộng sản và tiến bộ trên toàn thế giới”.
Nhận định của người đại diện Đảng Cộng sản Brazil còn cho chúng ta thấy một vai trò khác, một ý nghĩa mới về hoạt động lý luận của đồng chí Nguyễn Phú Trọng. Nói cách khác, với trách nhiệm Tổng Bí thư của Đảng, đồng thời là nhà lý luận của Đảng ta, đồng chí không chỉ có vai trò quan trọng trong quá trình bổ sung, phát triển, định hình mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, mà hơn thế nữa, đồng chí còn góp phần phát triển sáng tạo, làm phong phú hơn kho tàng lý luận và thực tiễn về CNXH của nhân loại, truyền bá lý luận về mô hình CNXH Việt Nam và những thành tựu to lớn, đầy sức thuyết phục trong quá trình hiện thực hóa mô hình đó ở Việt Nam, góp phần cổ vũ, thắp sáng niềm tin của phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới.
Chú thích:
[1] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết Lý luận: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb CTQG, HN, 2005, tr. 142-143.
[2] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG Sự thật, HN, 2022, tr. 26.
[3] Nguyễn Phú Trọng: Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - nhìn từ thực tiễn Việt Nam, báo Nhân dân, ngày 12/4/2012
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, t.10, Nxb CTQG, H. 2011, tr.63
[5] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 164.
[6] Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 164-165.
[7] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 26.
[8] Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, báo Nhân dân, ngày 31/01/2024.
[9] Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG Sự thật, HN, 2022, tr. 25.
[10] Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 21-22.
[11] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 29.
[12] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 260.
[13] Nguyễn Phú Trọng: Bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết T.Ư 4 khóa XI: "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Hà Nội, ngày 27-2-2012, báo Nhân dân ngày 28-2-2012.
Trình bày: Tạ Lư - Thi Uyên
Ảnh: Báo Nhân Dân