
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi là Tiểu đội trưởng Tiểu đội 2, Trung đội 1, Đại đội 360, Tiểu đoàn 130, Trung đoàn 209, Sư đoàn 312. Đặc biệt vinh dự cho tôi là trong chiến dịch lịch sử này, tôi vô cùng may mắn được tham gia đánh trận mở màn Him Lam và có mặt ở hầm De Castries đúng thời khắc huy hoàng kết thúc thắng lợi chiến dịch.
65 năm đã trôi qua, từ một thanh niên 20 tuổi, đến nay đã ở tuổi 85, nhưng những ký ức hào hùng của Điện Biên Phủ năm xưa vẫn còn nguyên vẹn trong tôi, đặc biệt là những giây phút chiến thắng lẫy lừng chiều ngày 7/5/1954, khi tôi cùng đồng đội dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật xông vào hầm bắt sống tướng De Castries.

Ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm tên bại tướng thực dân pháp De Castries. (Ảnh: TTXVN)
Ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm tên bại tướng thực dân pháp De Castries. (Ảnh: TTXVN)
Tôi được sinh ra tại thôn Hoàng Các, xã Tiên Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên vào một ngày cuối năm 1935, khi đất nước đang còn chìm đắm trong vòng nô lệ của thực dân Pháp. Khi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 nổ ra, cả làng tôi đã theo Việt Minh giành chính quyền, phá kho thóc cấp cho dân nghèo, cuộc sống ở quê tôi như bước sang trang mới.
Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang, đến năm 1949-1950, giặc Pháp kéo về ngày càng nhiều, chiếm đóng, lập đồn bốt ở khắp nơi, gây nên những tội ác tày trời với nhân dân ta. Một ngày đầu năm 1952, khi đang cất vó ở con ngòi trong làng, tôi bị lính Pháp vu cho là Việt Minh và bắt mang về giam ở bốt La Tiến. Khi biết tin, mẹ tôi phải chạy vạy khắp nơi được ít tiền đút lót cho lính canh mới được vào gặp con. Bà đem cho tôi một bát miến, đang cố húp thì bị tên đội đi đến đá bay làm tung tóe lên mặt, lên người tôi. Chúng đuổi mẹ tôi ra khỏi bốt và tiếp tục hành hạ tôi, dùng cặp roi da đánh tới tấp vào người tôi, bắt phải đi làm. Đêm hôm đó, tôi nghĩ là phải trốn ra, phải đi bộ đội, không có con đường nào khác.
Sau này khi được thả, tôi lại về với cuộc sống hằng ngày, cấy lúa, cất vó đánh cá nhưng tôi luôn nghe ngóng để tìm bắt liên lạc với cách mạng. Lúc này, tôi biết Việt Minh vẫn đang hoạt động bí mật trong làng. Tình cờ một đêm, khi đang kéo vó bè, có một thanh niên bơi thuyền bám vào lều vó của tôi. Sau một hồi trò chuyện, biết được anh ấy là cán bộ thanh niên của địa phương, hoạt động bí mật. Anh hỏi tôi, Vinh ơi, có muốn đi bộ đội không? Mừng quá vì đúng mong ước của mình, tôi đồng ý ngay. Anh nói, nhưng đi bộ đội khổ lắm, có thể phải hy sinh đấy. Tôi nói: Dù khó khăn vất vả và cả hy sinh nữa em cũng không sợ. Thế là anh ghi tên tôi vào một cuốn sổ nhỏ, hẹn tôi 3 hôm sau đến miếu Đông Vương, tập trung lên đường.

Phải trốn ra,
phải đi bộ đội,
không có con đường nào khác
Tháng 9/1952, tôi gia nhập Đại đoàn 312. Từ anh trai làng quanh năm chỉ quẩn quanh với đồng ruộng và cất vó bè, gia nhập bộ đội, tôi được sống cùng tập thể, được học tập từ cách bẻ măng, lấy củi đến huấn luyện kỹ, chiến thuật bộ binh, được học chữ để đọc sách báo, biết vì sao người dân khổ, muốn hết khổ thì người Việt Nam phải làm gì?...
Cuối năm 1953, đơn vị tôi hành quân về Điện Biên Phủ. Khi cách tập đoàn cứ điểm khoảng 10 cây số, toàn đơn vị được lệnh dừng lại, bắt đầu đào công sự và làm đường chuẩn bị kéo pháo vào trận địa. Ngày ấy chưa có máy móc, chỉ toàn sức người với cuốc, thuổng nhưng chúng tôi không quản ngại gian khổ, hy sinh, ngày đêm xẻ núi làm đường, chuẩn bị kéo pháo vào trận địa.
Trận đánh đầu tiên của tôi trong đời quân ngũ là vào năm 1953 tại Điện Biên, cách cứ điểm Him Lam gần một cây số. Trong trận này, tôi đã phát hiện ra tiếng cạch cạch của xe tăng địch và báo cáo cấp trên. Trong trận đánh ấy, tôi được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.
Khi cách tập đoàn cứ điểm khoảng 10 cây số, toàn đơn vị được lệnh dừng lại, bắt đầu đào công sự và làm đường chuẩn bị kéo pháo vào trận địa.
Năm 1954, tôi được tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Trải qua hai đợt chiến đấu đầy cam go, gian khổ nhưng vô cùng anh dũng, đến ngày 1/5/1954, ta mở màn đợt ba chiến dịch, quyết tâm đánh bại hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Chiều ngày 7/5, Đại đội 360 tiêu diệt được cứ điểm 507, sau đó cùng các đơn vị bạn tiến sang chiếm lĩnh các cứ điểm 509, 508. Trên đường tiến công, tôi và đồng chí Nhỏ gặp một chiến sĩ bị mảnh đạn pháo cắt cụt cả hai ống chân, đang lết trên mặt đất. Thấy vậy, tôi và đồng chí Nhỏ ngồi thụp xuống, định băng bó nhưng anh hét lớn: "Đằng nào tôi cũng chết, các anh tiến lên đi, thời cơ đến rồi". Tôi và đồng chí Nhỏ đành gạt nước mắt, xốc súng tiếp tục băng lên phía trước.
Trung đội 1 chúng tôi nhanh chóng tiến qua cầu sắt Mường Thanh. Khi qua cầu, chúng tôi bị súng 12,7 ly của địch ở bên kia cầu bắn lướt qua thành cầu, cản đường tiến. Đồng đội tôi có người đã ngã xuống ngay đầu cầu khi giờ khắc chiến thắng đã cận kề. Thấy phía trước có một ụ đất to nhô lên khá cao, bốn chiếc xe tăng chạy vòng quanh để tìm mục tiêu. Khi đó, quân ta bất ngờ bắt được một tên địch và hỏi hắn hầm chỉ huy De Castries ở đâu? Tên này khai chỗ ụ đất chính là hầm của tướng De Castries. Tổ chúng tôi liền dùng thủ pháo đánh một chiếc xe tăng rơi xuống giao thông hào, tiêu diệt một chiếc khác, hai chiếc còn lại tháo chạy.
Đằng nào tôi cũng chết, các anh tiến lên đi, thời cơ đến rồi!
Đến trước cửa hầm, đồng chí Nhỏ dùng thủ pháo ném vào cửa hầm. Sau tiếng nổ của thủ pháo, đất, đá, khói xộc xuống miệng hầm. Mấy phút sau, một tên sĩ quan Pháp từ dưới hầm bò lên, mặt mày xám ngoét giơ tay hàng, run run mời sĩ quan Việt Nam vào nhận sự đầu hàng của chúng. Ngay lúc đó, Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật xuất hiện, ra lệnh toàn đơn vị bao vây hầm và phân công: "Hiếu, Nam bịt cửa hầm phía bên kia. Vinh, Nhỏ theo tôi vào hầm bắt De Castries đầu hàng".


Tướng De Castries, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ, làm việc tại hầm chỉ huy trong những giờ phút cuối cùng trước khi Điện Biên Phủ thất thủ. (Ảnh: TTXVN)
Tướng De Castries, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ, làm việc tại hầm chỉ huy trong những giờ phút cuối cùng trước khi Điện Biên Phủ thất thủ. (Ảnh: TTXVN)

Toàn bộ bộ chỉ huy địch ở Điện Biên Phủ đi đầu là tên tướng De Castries ra hàng. (Ảnh: TTXVN)
Toàn bộ bộ chỉ huy địch ở Điện Biên Phủ đi đầu là tên tướng De Castries ra hàng. (Ảnh: TTXVN)

Ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm tên bại tướng thực dân pháp De Castries. (Ảnh: TTXVN)
Ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm tên bại tướng thực dân pháp De Castries. (Ảnh: TTXVN)
Vào hầm, chúng tôi tiến đến đâu, lũ sĩ quan Pháp lùi lại đến đó, có tên tỏ ra rất run sợ. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật dùng tiếng Pháp ra lệnh cho cả bọn đầu hàng. Tất cả đều giơ tay, riêng tướng De Castries vẫn ngồi im lặng. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật ra hiệu cho tôi tiến lại gần. Khi đến gần, De Castries vội bật dậy, giơ tay ra định bắt tay. Lúc đấy tôi nghĩ, sao lại bắt tay, bắt tay là thế nào? Tôi đã dùng khẩu tiểu liên thọc mạnh một nhát vào bụng ông ta, đồng thời quát bằng tiếng Pháp “Hô-lê-manh” (giơ tay lên). De Castries lùi lại mấy bước, giơ tay nói một tràng tiếng Pháp, lúc đó tôi hiểu ông ta chính thức xin được hàng. Toàn bộ Bộ Chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị chúng tôi giải về Đồi E giao cho cấp trên, đặt dấu chấm hết cho cái gọi là "pháo đài bất khả xâm phạm" của thực dân Pháp. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
Có một điều thú vị là hơn 10 ngày sau, tôi có dịp gặp lại De Castries, người đã bị chúng tôi bắt sống ngay tại sào huyệt Bộ Chỉ huy Pháp ở Điện Biên Phủ. Chuyện là, ngày 19/5/1954, tôi cùng một số đại biểu tham gia chiến dịch được về thăm và chúc mừng sinh nhật Bác Hồ. Ngày hôm sau, theo đề nghị của một đoàn làm phim Liên Xô, tôi gặp lại và ngồi đối diện với tướng De Castries. Một cán bộ Việt Nam trong đoàn làm phim hỏi De Castries: "Ông còn nhớ người này không"? De Castries trả lời: "Tôi đã gặp anh ta rồi". Người cán bộ nói: "Ông có trí nhớ rất tốt. Chính người này đã vào hầm tóm cổ ông ra". De Castries quay sang nói với tôi: "Tôi rất hân hạnh nếu được chỉ huy những người lính dũng cảm như anh". Trước những lời trịch thượng của De Castries, tôi trả lời dứt khoát: "Ông chỉ khoác lác, kẻ bại trận như ông sao có thể chỉ huy được tôi, bởi chính tôi và các đồng đội tôi đã vào hầm lôi cổ ông ra cơ mà". Trước thái độ cương quyết đó của tôi, tướng De Castries đành ngồi im lặng.

Toàn bộ bọn giặc Pháp còn sống sót ở Điện Biên Phủ đã kéo cờ trắng lũ lượt ra hàng. (Ảnh: TTXVN)
Toàn bộ bọn giặc Pháp còn sống sót ở Điện Biên Phủ đã kéo cờ trắng lũ lượt ra hàng. (Ảnh: TTXVN)
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cũng trong năm 1954, Sư đoàn 312 về giải phóng Bắc Ninh. Đơn vị của chúng tôi đóng quân tại đây. Tháng 10/1955, tôi được đề bạt làm Trung đội trưởng của Đại đội Công binh Trung đoàn 209, sau đó được điều về Binh chủng Công binh. 39 năm quân ngũ, tôi đã tham gia chiến đấu ở chiến trường Thượng Lào năm 1953, tại Điện Biên Phủ năm 1954, những năm 1967-1968 ở Quảng Bình, năm 1971 ở Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, năm 1972 là trận “Điện Biên Phủ trên không” tại Hà Nội và 17 năm làm công tác địa phương tại Bắc Ninh. Ở vị trí công tác nào, tôi cũng luôn cố gắng phấn đấu, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ. Ngày 19/8/2015, tôi vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Đến nay, đã 65 năm trôi qua kể từ buổi chiều hè lịch sử ngày 7/5/1954 ở Điện Biên Phủ, trong số những đồng đội cùng tôi xông vào hầm bắt tướng De Castries dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật, nay chỉ mình tôi còn sống. Kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi lại nhớ đến các đồng đội của mình một thời cùng chia ngọt, sẻ bùi, cùng sống và chiến đấu với lý tưởng cao đẹp vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Nhiều đêm trong giấc mơ tôi vẫn thấy những đồng đội tôi như đang sống, vẫn kéo pháo, vẫn tươi cười trên đường hành quân.
Bài viết này như một nén tâm nhang tưởng nhớ đến các đồng chí, đồng đội đã khuất của tôi, những người đã góp một phần máu xương, cả tuổi trẻ của mình để làm nên một chiến thắng lẫy lừng của dân tộc - Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Bài: Đại tá Hoàng Đăng Vinh, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, cựu chiến binh Điện Biên Phủ
Trình bày: T. Nguyên
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (07/5/1954 - 07/5/2019)”

