
Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.
Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.
Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.
Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.


Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.
Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.
"Thế hệ trí thức vàng Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo".
Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.
Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn quê ở xã Nhân Thọ, tổng Yên Hồ, huyện La Sơn, Hà Tĩnh nay là xã Bùi La Nhân, Hà Tĩnh. Ông sinh ngày 7 tháng giêng năm Mậu Thân (7/3/1908) nhưng căn cước lại khai nhầm là ngày 3/3/1909.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từ trần tại Paris ngày 10/3/1996.
Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội và nhân văn với cụm công trình Lịch sử và Lịch Việt Nam: Lý Thường Kiệt; La Sơn Phu Tử; Lịch và Lịch Việt Nam.
Tháng 8/2011, Trường Đại học Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris) đã chọn tên Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đặt cho một giảng đường của trường.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908 - 1996) là một bậc trí giả, một nhà văn hóa lớn. Ông là nhà bác học trên nhiều lĩnh vực: khoa học xã hội - nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Ông góp nhiều công sức đặt nền móng cho giáo dục và học thuật Việt Nam hiện đại. Ở Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, trí lực khoa học luôn hòa quyện cùng tình yêu và trách nhiệm với đất nước, quê hương.
Tấm gương học tập không ngừng nghỉ
Năm 1928, ông sang Pháp du học và chinh phục một cách dễ dàng các chứng chỉ khoa học. Ông đã nhận bằng cử nhân của trường Bách khoa, bằng kỹ sư của trường Cầu đường là hai trường luôn ở trong nhóm dẫn đầu các trường khoa học - kỹ thuật của Pháp và cả thế giới. Là người có trí tuệ đặc biệt, chỉ cần một năm tự học thêm nhiều môn, ông đã có bằng Thạc sĩ toán học tại Đại học Sorbone năm 1936. Hoàng Xuân Hãn là một trong những người Việt Nam đầu tiên có học vị Thạc sĩ Toán học ở Pháp.
Trở về nước năm 1936, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn không vào “làng Tây” mà dạy toán tại trường Bưởi và các trường Công chính, Nông lâm, Võ bị … Ông tham gia nhiều diễn đàn khoa học và tích cực trong nhiều hoạt động xã hội: Xuất bản Tạp chí Khoa học, truyền bá các kiến thức khoa học trong đại chúng, làm Trưởng Ban tu thư của Hội Truyền bá Quốc ngữ. Tháng 4/1945, ông tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Mỹ thuật.
Tháng 4/1946, ông được cử làm Chủ tịch Tiểu ban chính trị của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Đà Lạt. Trong suốt quá trình đàm phán tại Hội nghị Đà Lạt, ông luôn kiên trì, kiên quyết đấu tranh cho tự do và độc lập của dân tộc.
Khi trở lại Pháp đầu những năm 50 của thế kỷ trước, vấn đề năng lượng và vũ khí hạt nhân đang là mối quan tâm lớn trên toàn cầu trong không khí chiến tranh lạnh đang bao trùm. Dù đã gần tuổi tri thiên mệnh, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn vẫn hăng hái học thêm những tri thức mới trong lĩnh vực này. Chỉ cần vài năm, ông đã giành được bằng kỹ sư nguyên tử ở Đại học Saclay (1956).
Cống hiến lớn cho giáo dục và khoa học
Bạn đọc trẻ, thậm chí trung niên, chắc ít ai biết những câu thơ lục bát giản dị, thân thuộc như ca dao đó do Giáo sư Hoàng Xuân Hãn sáng tác được ghi trong cuốn Vần quốc ngữ. Lại càng khó hình dung tác động to lớn của chúng trong phong trào “bình dân học vụ” xóa nạn mù chữ những năm 1945 - 1946 nhờ đó hàng triệu đồng bào đã thoát khỏi nạn mù chữ. Phong trào “bình dân học vụ” đã tiếp nối và phát triển hoạt động của Hội Truyền bá quốc ngữ do cụ Nguyễn Văn Tố và một số trí thức thành lập năm 1938, trong đó có Hoàng Xuân Hãn - giáo sư toán tại Trường Bưởi.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. (Ảnh tư liệu)
Cũng từ năm học 1945 - 1946, trong lúc những em bé chăn trâu nắn nót viết I, tờ bằng vôi trắng trên lưng trâu; những bà mẹ già, những thanh niên nam nữ đánh vần o tròn…, thì cũng lần đầu tiên, học sinh trung học được học các môn bằng tiếng Việt trong nhà trường. Và ở cấp đại học của nền giáo dục Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các bộ môn khoa học cơ bản toán, lý, hóa, sinh học... đều được giảng bằng tiếng Việt.
Một lớp học chữ Bình dân học vụ sau ngày Độc lập.
Một lớp học chữ Bình dân học vụ sau ngày Độc lập.
Chỉ cần nêu ba công trình Vần quốc ngữ, Chương trình Trung học và Danh từ khoa học của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng đủ nói lên những đóng góp lớn của ông cho nền giáo dục Việt Nam từ buổi đầu độc lập cũng như trong suốt quá trình phát triển của giáo dục Việt Nam sau này. Cho đến những năm đầu của thế kỷ XXI, trẻ em Việt Nam vẫn dễ dàng học tiếng Việt bằng những bài học truyền khẩu đầu tiên: “O tròn như quả trứng gà…” tuy trên thực tế ít người biết tác giả của những câu truyền khẩu này là Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và các đồng nghiệp của ông từ những năm 40 của thế kỷ XX.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. (Ảnh tư liệu)
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. (Ảnh tư liệu)
Trong thời gian ngắn ngủi giữ chức Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật, ông đã xây dựng và ban hành Chương trình Phổ thông trung học. Từ khi áp dụng chương trình này, tháng 6/1945, nền giáo dục của Việt Nam bắt đầu bãi bỏ bậc cao đẳng tiểu học và chuyển thẳng từ tiểu học lên trung học.
Ở thời điểm năm 1945, Chương trình Phổ thông trung học của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn là chương trình học tiến bộ, có nhiều ưu điểm, mang tính khoa học đại chúng và là bước khởi động ban đầu nhưng cần thiết cho quá trình xây dựng phương pháp giáo dục Việt Nam hiện đại sau này. Chương trình đã tiếp cận với trình độ phát triển của khoa học đương thời và được thiết kế phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh theo từng bậc học.
Những câu ca dao giản dị về chữ của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã giúp hàng triệu đồng bào thoát nạn mù chữ.
Những câu ca dao giản dị về chữ của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã giúp hàng triệu đồng bào thoát nạn mù chữ.
Đối với mỗi môn học, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn lại áp dụng một phương pháp học khác nhau, trong đó ưu tiên việc thực hành gắn với thực tiễn bên cạnh việc học lý thuyết. Với tư duy “mềm hóa” giáo dục thể hiện ở Chương trình Phổ thông trung học, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn khuyến khích khả năng tự lựa chọn môn học của học sinh.
O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội mũ, Ơ thời có râu
I, Tờ có móc cả hai
I ngắn có chấm, Tờ dài có ngang
Hơn 6.000 danh từ khoa học về các lĩnh vực toán học, hóa học, vật lý học, thiên văn học… chứa trong bộ Danh từ khoa học của Hoàng Xuân Hãn đã đáp ứng được yêu cầu thiết yếu của việc sử dụng danh từ khoa học ở Việt Nam. Với bộ Danh từ khoa học, đóng góp của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn không dừng lại ở tư duy khoa học mà còn đưa ngôn ngữ khoa học vào tiếng Việt. Với sự uyên bác chữ Hán, tiếng Pháp và tiếng Việt của mình, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã góp phần hoàn thiện thêm và đưa tiếng Việt phát triển lên một tầm cao hơn, không dừng lại ở tiếng nói và chữ viết hàng ngày mà đã có một hệ thống danh từ khoa học.
Đến nay, trên giảng đường, các ấn bản phẩm hoặc tại các hội nghị nghiên cứu khoa học, chúng ta vẫn sử dụng các thuật ngữ do Giáo sư Hoàng Xuân Hãn định ra như: những danh từ hóa học trong tên các nguyên tố: như Asen gọi cho Asenicum, Vàng gọi cho Aurum, Brôm gọi cho Bromum, Calci gọi cho Calcium, hợp chất, hỗn hợp…; trong toán học như: đường phân giác, hình chiếu, hình xiên, hình bình hành, tiệm cận, tam giác thẳng góc nhọn….; trong vật lý như phản xạ, phản chiếu; trong thủy động học: gia tốc, trọng lực, nguyên hàm, tốc độ, thể tích, khối, đường kính
Nền giáo dục Việt Nam hiện đại ngày nay phát triển trên cơ sở tích hợp những thành quả trong quá khứ mà Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đóng vai trò như là người góp phần tạo thêm sự vững chãi của những viên gạch nền móng. Cho đến nay, tư duy, ý tưởng khoa học của ông trong lĩnh vực giáo dục vẫn đáng để cho những người làm giáo dục, những nhà hoạch định chính sách suy ngẫm và học hỏi.
Dành tất cả tâm huyết cho lịch sử - văn hóa Việt Nam
Ông tự ví mình như một “người ẩn dật” để làm việc “nỗ lực cứu vớt các sách tàn giấy cũ”. Trên đất Pháp, ông miệt mài nghiên cứu, hoàn thiện các tác phẩm và đã cho ra đời số lượng lớn công trình có giá trị gồm: La Sơn phu tử, Lý Thường Kiệt, Chinh phụ ngâm bị khảo, Bích câu kỳ ngộ, Hoàng hậu Ỷ lan, Văn các tổ Trúc Lâm, Thiền tông bản hạnh, Thân thế Hồ Xuân Hương, Những chuyến tiếp sứ Thanh đời Lê, Lê Quý Đôn đi sứ Thanh, Lê Quýnh giữ tóc ngồi tu ở Bắc Kinh, Những lời thề của Lê Lợi, Nhóm chống Tây Sơn, Nguyễn Công Trứ về hưu, Những văn Nôm Phật giáo, Lịch và Lịch Việt Nam,…
Ngoài ra, tại Paris ông đã hoàn tất công trình lớn về Đoạn trường tân thanh có tên Nghiên cứu về Kiều...
Một nguyên tắc của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn khi nghiên cứu sử học và văn hóa dân tộc là thu thập tối đa và rất tôn trọng tư liệu. Chính nhờ sự phát hiện của ông mà những người nghiên cứu có được tư liệu quý đạo sắc do chính tay Quang Trung viết cho La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp - nay được lưu trữ ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
Cũng với nguyên tắc sưu tầm tối đa và luôn đề cao nguyên tắc phê phán sử liệu, trên cơ sở các bản Nôm - bản in và bản chép tay, cùng với những gia phả, của tác phẩm Chinh phụ ngâm, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã chứng minh một cách thuyết phục rằng bản mà chúng ta được học ở nhà trường không phải của Đoàn Thị Điểm mà là của Phan Huy Ích. Và ông cũng đã tìm ra bản diễn ca đích thực của Đoàn Thị Điểm.
Áp dụng tinh thần phê phán khoa học, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã để lại cho chúng ta những công trình nghiên cứu gương mẫu như Lý Thường Kiệt, La Sơn phu tử… Tinh thần khoa học và sự uyên bác về toán học, thiên văn học cũng đã đưa Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đến việc đối chiếu âm lịch và dương lịch. Đặc biệt, ông tìm ra lý do tại sao trong một số thời kỳ âm lịch Việt Nam khác với âm lịch Trung Quốc.
Niềm say mê trong những năm cuối đời của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn là đi tìm văn bản Truyện Kiều sát gần nguyên tác của Nguyễn Du nhất. Ông không hy vọng tìm được nguyên bản nhưng mong tìm ra bản nào gần nguyên tác nhất. Đây là công việc đầy khó khăn và chưa hoàn thành. Nhưng di cảo và tài liệu của ông về chủ đề này đã chiếm hơn 1m giá tài liệu trong thư viện. Khối tài liệu này đang chờ Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) số hóa để một ngày không xa, các nhà nghiên cứu có thể tham khảo công trình nghiên cứu Kiều học của học giả Hoàng Xuân Hãn.
Các tác phẩm nghiên cứu của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn:
La Sơn phu tử, Lý Thường Kiệt, Chinh phụ ngâm bị khảo, Bích câu kỳ ngộ, Hoàng hậu Ỷ lan, Văn các tổ Trúc Lâm, Thiền tông bản hạnh, Thân thế Hồ Xuân Hương, Những chuyến tiếp sứ Thanh đời Lê, Lê Quý Đôn đi sứ Thanh, Lê Quýnh giữ tóc ngồi tu ở Bắc Kinh, Những lời thề của Lê Lợi, Nhóm chống Tây Sơn, Nguyễn Công Trứ về hưu, Những văn Nôm Phật giáo, Lịch và Lịch Việt Nam, Nghiên cứu về Kiều…
Tất cả các tác phẩm của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đều viết bằng Việt. Ông không có ý viết sách bằng tiếng nước ngoài mà chủ trương “viết sách bằng tiếng Việt cốt để cho đồng bào ta, con cháu ta đọc. Đọc để mà biết lịch sử, tin tưởng vào tổ tiên, cha ông mình”.
Có một câu chuyện minh họa cho sự uyên bác Hán - Nôm của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn:
Tháng 5/1954, Hội nghị Geneva về Đông Dương khai mạc. Học giả Hoàng Xuân Hãn đang ở Roma theo lời mời của Tòa thánh Vatican để tham khảo những tư liệu chữ Nôm được lưu trữ từ thế kỷ XVI.
Qua báo chí, ông theo dõi diễn biến Hội nghị và muốn viết thư góp ý kiến với phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng thư không thể viết bằng quốc ngữ hay tiếng Pháp vì lý do cần bảo mật - thư gửi qua đường bưu điện, đối phương hoặc thậm chí bên thứ ba có thể đọc trộm được.
Biết trong phái đoàn có người bạn cố tri là luật sư Phan Anh đọc được chữ Nôm nên Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết lá thư đó bằng chữ Nôm. Lá thư đã tới tay người cần nhận một cách an toàn và tỏ ra rất hữu dụng.
Tấm lòng sắt son với dân tộc
Dù sống xa Tổ quốc nhưng Giáo sư Hoàng Xuân Hãn dành tất cả tâm huyết cho các công trình nghiên cứu lịch sử - văn hóa Việt Nam. Ông tham gia Hội người Việt Nam tại Pháp, đã từng là Ủy viên đoàn chủ tịch của tổ chức này. Gần như nửa cuộc đời sống trên đất Pháp với nhiều ưu tư, Hoàng Xuân Hãn vẫn trọn vẹn một tấm chân tình của một người con đất Việt nặng lòng hướng về quê hương. Người ta gặp ở ông một cốt cách Việt Nam thuần chất với vẻ niềm nở, cởi mở thật đặc biệt. Cốt cách Việt Nam thuần chất ấy của ông đã có một ảnh hưởng lớn đối với cộng đồng kiều bào Việt kiều trên đất Pháp.
Ngày 21/7/1992, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn tham gia sáng lập Hội Văn hóa giáo dục Cam Tuyền tại Pháp, do ông làm Chủ tịch. Hội có tôn chỉ và mục đích bảo vệ và phát huy văn hóa, giáo dục, nhất là bảo tồn văn hóa cổ Việt Nam tại Pháp và ở các quốc gia phương Tây nói chung.
Lo rằng văn hoá Việt Nam sẽ bị mai một dần trong những thế hệ Việt kiều sau này, ông luôn có ý thức đào tạo thế hệ tiếp nối trong việc bảo lưu, phát huy văn hóa dân tộc trên đất Pháp. Thế hệ học trò của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn với những tên tuổi như Giáo sư Tạ Trọng Hiệp, Giáo sư Trần Văn Khê… đã thực sự phát huy được vai trò chuyển giao thế hệ mà ông hằng mong mỏi để có thể tiếp tục nối dòng văn hóa dân tộc ở nước ngoài. Và đối với họ, những bài học và phương pháp, về thái độ, về tình cảm với di sản văn hóa dân tộc, với cội nguồn dân tộc Việt của thầy Hãn vẫn luôn là những viên ngọc quý
Gần 50 năm sống ở Paris, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã đóng góp đáng kể cho cộng đồng người Việt trên đất Pháp nói riêng và cho dân tộc Việt Nam nói chung. Những đóng góp của ông đã trở thành một trong những nhân tố tạo nền xây đắp nên cộng đồng người Việt bền vững trên đất Pháp. Niềm tự hào là người Việt Nam đi theo Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đến cuối cuộc đời. Ông là một trong số rất ít người vẫn giữ lại hộ chiếu Việt Nam sau rất nhiều năm định cư tại Pháp.
Ngày 20/2/1996 - mùng 2 Tết Bính Tý, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn tới Đại sứ quán Việt Nam nhờ chuyển một bức thư tay cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong đó có một số đoạn hiện rõ cái nhìn uyên bác và viễn kiến:
“Thân gửi anh Văn.
(…) Chúng ta là những kẻ tủi-nhục cho nước khi trẻ, mà may-mắn hơn nhiều bạn, còn sống đến ngày nay, nhận thấy đất nước thống-nhất độc-lập. Nhưng lại sợ rằng lớp trẻ, hiện nay là sinh-lực của nước, sẽ chóng quên tủi nhục xưa và công lao những người như các Anh.
Tôi đã có lúc biện-luận về điều khác biệt giữa sự thắng ngoại-xâm và sự giải-phóng đất nước. Nước ta chỉ có hai cuộc giải-phóng mà thôi: thời 1416 - 1427 với Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi, và thời 1945 - 1975 với Bác Hồ cùng các Anh. Tự nhiên cả hai mặt phải nhờ gắn-bó giữa mưu-lược lãnh-đạo và kiên-cường nhân-dân. Khi ngoại-xâm thì nhân-dân ai cũng căm-tức và lo-sợ cho tương-lai; còn trong cuộc giải-phóng thì địch đã ở chung với nhân-dân lâu trong nước, rồi có thể dùng quyền-lợi để chia rẽ và giảm tinh-thần nhân-dân. Vì vậy, cái cần-thiết nhất trong cuộc giải-phóng là cái ĐỨC của những người lãnh-đạo, cái Đức để cho địch không tìm cách mua-chuộc mình và làm gương cho nhân-dân giữ lòng yêu nước.
(…) Nước ta nghèo; mới độc-lập và thống-nhất. Vậy sự bảo-thủ đất-nước rất khó. Nước lại có nhiều dân-tộc thiểu-số, tuy tỉ-lệ nhỏ, nhưng ở những vùng kinh-tế quan trọng ở mé Bắc và mé Tây, và cả tại trung-châu như Chàm và Kh'mer Krom. Gương ngoại-bang xui-khiến hay giúp-rập không thiếu: Tchetchene, Đông-Âu, Tây-Á. Phi-Châu. Tôi nghĩ rằng phải tôn-trọng và ứng-dụng văn-hoá địa-phương và coi đó là văn-hóa Việt-nam, đồng-hóa chóng về trình-độ kiến-thức và trà-trộn dân-tộc trong lúc tuyển-chọn cán-bộ. Nước Pháp đã giải-quyết được vấn-đề Bretons, Auvergnats, Alsaciens, Basques... mà vấn-đề Irland ở Anh vẫn tồn-tại. (…)
Về mặt kinh-tế, sự mở cửa cho ngoại-quốc đầu-tư là một sự dĩ-nhiên để dân mình có việc làm, học kĩ-thuật, học quản-lí, kiến-thiết hạ-tầng cơ-sở, nâng dần đời sống, và nhờ đó báo-đáp ít nhiều công-lao lãnh-đạo và nhân-dân. Nhưng các Anh cũng đồng-ý với tôi thà chịu thiệt-thòi chút ít bây giờ, chứ không để nợ lớn lâu dài về sau cho con cháu, đến mức không bao giờ trả hết lãi...”.

Kèm theo bức thư, ông chép gửi tặng bài thơ khai bút Xuân Bính Tý (1996):
Tám chục may rồi sắp chín mươi
Sức chừng thêm đuối tính thêm lười
Sử nhà bạn cũ ôn không thẹn
Vận nước tình sâu mộng sẽ tươi
Văn ngữ thời xưa tìm kiếm gốc
Tinh hoa thuở mới gắng đua người
Tuổi cao nhưng chí còn trai trẻ
Mắt đọc tay biên miệng vẫn cười.

Ngày xuất bản: 8/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - HỒNG VÂN
Thực hiện: VƯƠNG ANH - LINH KHÁNH
Trình bày: NGỌC DIỆP - HÀ CHI
Ảnh: Tư liệu
E-Magazine I nhandan.vn