Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng không chỉ trong nước mà còn cả quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

 

Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

"Thế hệ trí thức vàng Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo".

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng không chỉ trong nước mà còn cả quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

Hồ Đắc Di sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc gốc ở Huế, có nhiều người làm quan trong triều Nguyễn. Ông nội là Hồ Đắc Tuấn, từng được phong tước Hầu, bà nội ông là Công nữ Thức Huấn - con gái Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Cụ thân sinh của Hồ Đắc Di là Khánh Mỹ quận công Hồ Đắc Trung, làm quan đến chức Tổng đốc Nam Ngãi, Thượng thư các Bộ Học, Lễ, Công; Đông các điện Đại học sĩ, sung Cơ mật đại thần. Những anh em của ông cũng đều là những trí thức, giữ các vị trí quan trọng cả dưới triều đình nhà Nguyễn lẫn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Giáo sư Hồ Đắc Di (1900-1984) là Hiệu trưởng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giữ cương vị này đến năm 1973. Bên cạnh những đóng góp chuyên môn y học hoặc trên cương vị quản lý, tổ chức xây dựng và phát triển trường y trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Giáo sư còn được biết đến là một trí thức thế hệ vàng Việt Nam, người có những quan điểm sâu sắc về y học và văn hóa Việt Nam.

Nhà trí thức dấn thân

Mặc dù xuất thân và chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho học, nhưng ngay từ khi còn nhỏ, Hồ Đắc Di đã được gia đình hướng con đường học tập theo văn hóa phương tây. Giữa lúc thời cuộc nhiễu nhương, sự giao lưu và tiếp biến văn hóa Đông-Tây diễn ra mạnh mẽ thì việc hướng theo Tây học có lẽ là một sự lựa chọn hợp thời và có thể đem lại một tương lai tươi sáng hơn.

Với điều kiện của một gia đình quan lại, Hồ Đắc Di được gửi ra Hà Nội và học tại Trường Lycée Albert Sarraut. Từ năm 1918 đến 1930, những năm diễn ra nhiều biến động của lịch sử và phong trào yêu nước ở Việt Nam, Hồ Đắc Di du học tại Pháp. Ông học trung học ở Bordeaux, sau đó theo học về y khoa tại Trường đại học Tổng hợp Paris.

Sau hơn chục năm du học ở xứ người, Hồ Đắc Di trở về nước với tư cách là một trí thức Tây học cùng những tư tưởng mới mẻ, nguyện đem sở học của mình ra để phục vụ nhân dân lầm than. Nhưng sau cao trào cách mạng Xô Viết-Nghệ Tĩnh, thực dân Pháp tăng cường đàn áp các phong trào yêu nước, xiết chặt các hoạt động văn hóa, tư tưởng. Hồ Đắc Di về Huế và làm việc như một bác sĩ thực tập và chịu sự khinh mạt từ người Pháp. Một thời gian sau ông được điều chuyển vào Quy Nhơn công tác.

Năm 1932, ông được mời ra công tác tại Trường đại học Y và Bệnh viện Phủ Doãn. Tại đó, ông đã dũng cảm nói lên quan điểm cá nhân và đấu tranh đòi được hành nghề giải phẫu. Với sự cương quyết và tấm lòng trong sáng, ông trở thành người Việt Nam đầu tiên được chính quyền thực dân Pháp cho làm bác sĩ phẫu thuật.

Sinh viên Hồ Đắc Di ở Paris năm 1925 (người đứng giữa, phía trước). (Ảnh tư liệu)

Sinh viên Hồ Đắc Di ở Paris năm 1925 (người đứng giữa, phía trước). (Ảnh tư liệu)

Sau hơn chục năm du học ở xứ người, Hồ Đắc Di trở về nước với tư cách là một trí thức Tây học cùng những tư tưởng mới mẻ, nguyện đem sở học của mình ra để phục vụ nhân dân lầm than.

Chứng kiến cảnh lầm than của nhân dân Việt Nam, sự coi thường của người Pháp đối với người bản xứ, Hồ Đắc Di cảm thấy tủi nhục mà không biết làm cách nào. Trong lúc ấy, một bộ phận lớn trí thức cũng chỉ dám bày tỏ tiếng nói yêu nước một cách kín đáo thông qua các bài viết, nghiên cứu đăng tải trên các tờ báo, tạp chí. Khi thời cơ đến, đại bộ phận trí thức hướng theo lá cờ của Việt Minh để làm cuộc Cách mạng lớn nhất, lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ kéo dài thế kỷ.

Trong và sau Cách mạng Tháng Tám, dưới ảnh hưởng của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, thấm nhuần văn hóa truyền thống dân tộc và đặc biệt là tinh thần yêu nước luôn đau đáu trong tâm can nên những trí thức như Hồ Đắc Di đã sẵn sàng tham gia cách mạng và kháng chiến một cách vô tư nhất. Tài năng của những trí thức này đã được nhìn nhận một cách trân trọng, xác đáng nhất khi những chức vụ quan trọng trong Chính phủ và các bộ máy của các ngành, các cấp đều do họ nắm giữ.

114675

Gia đình giáo sư Nguyễn Văn Huyên, Hồ Đắc Di và Tôn Thất Tùng trong kháng chiến (1948). (Ảnh tư liệu)

Gia đình giáo sư Nguyễn Văn Huyên, Hồ Đắc Di và Tôn Thất Tùng trong kháng chiến (1948). (Ảnh tư liệu)

Nghe ba chữ Nguyễn Ái Quốc tôi rất xúc động. Thì ra, Người mà mình vẫn hằng nghe tiếng, vẫn được nghe bạn bè hỏi đến, người đó đã cất tiếng nói đanh thép đòi quyền lợi chính đáng của đất nước Việt Nam, làm cho bất cứ người Việt Nam nào cũng cảm thấy tự hào ấy chính là người ngồi trước mặt tôi kia.
Hồi ký của GS Hồ Đắc Di - Kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng Thủ đô (1954-1975), Bản đánh máy năm 1975, Hà Nội, tr.4

Giáo sư Hồ Đắc Di khẳng định rằng hoạt động của nhóm Việt Nam yêu nước do Nguyễn Ái Quốc đứng đầu đã gây tác động mạnh mẽ đối với Việt kiều ở Pháp. Tám yêu sách của Nguyễn Ái Quốc đưa ra tại Hội nghị Versailles gây tiếng vang lớn. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã thức tỉnh lòng yêu nước trong nhiều tầng lớp Việt kiều. Đến những ngày Cách mạng Tháng Tám thì ảnh hưởng ấy càng lớn lao. Bác sĩ Hồ Đắc Di viết:

“Nghe ba chữ Nguyễn Ái Quốc tôi rất xúc động. Thì ra, Người mà mình vẫn hằng nghe tiếng, vẫn được nghe bạn bè hỏi đến, người đó đã cất tiếng nói đanh thép đòi quyền lợi chính đáng của đất nước Việt Nam, làm cho bất cứ người Việt Nam nào cũng cảm thấy tự hào ấy chính là người ngồi trước mặt tôi kia. Thời ấy, một số anh em sinh viên chúng tôi tham gia bán báo Người cùng khổ và Việt Nam hồn cho thợ thuyền ở khu La tinh. Bấy giờ lính thợ Việt Nam ở Paris cũng nhiều, anh em rất quen biết hai tờ báo trên và tên ông Nguyễn Ái Quốc”[1].

Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, bác sĩ Hồ Đắc Di được Chính phủ giao nhiều nhiệm vụ quan trọng như: Tổng thanh tra Y tế, Tổng Giám đốc Đại học vụ, Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy. Những ngày độc lập ngắn chẳng tày gang, khi ngay sau đó thực dân Pháp nổ sung ở Nam Bộ (23-9), đánh dấu cho sự xâm lược trở lại nước ta. Các trí thức dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ mới lại bắt đầu bước vào những tháng ngày gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (12/1946), cùng với Giáo sư Tôn Thất Tùng, Giáo sư Hồ Đắc Di đã tổ chức các hoạt động cứu chữa cho thương binh và nhân dân, đào tạo cán bộ y tế trong những điều kiện khắc nghiệt, đồng thời đặt quyết tâm phải duy trì trường Y, phục vụ cho cuộc kháng chiến.

Những năm tháng ở Việt Bắc là những tháng ngày gian khó, nhưng nhờ quyết tâm và lòng yêu nước sáng trong, Giáo sư Hồ Đắc Di cùng với học trò – Giáo sư Tôn Thất Tùng trở thành linh hồn của Trường đại học Y, đào tạo nhiều cán bộ y tế, phục vụ trực tiếp cho cuộc kháng chiến, góp phần đưa lại thắng lợi của dân tộc ta vào năm 1954.

Khi ấy cả trường Đại học Y chỉ có hai giáo sư là bác sĩ Hồ Đắc Di và bác sĩ Tôn Thất Tùng, sau này có thêm bác sĩ Đặng Văn Ngữ ở Nhật về (sau năm 1950), một số y tá và 11 sinh viên (mà khi đó gọi là sinh viên xung phong).

Giáo sư Hồ Đắc Di tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Hồ Đắc Di tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang. (Ảnh tư liệu)

Những năm tháng ở Việt Bắc là những tháng ngày gian khó, nhưng nhờ quyết tâm và lòng yêu nước sáng trong, Giáo sư Hồ Đắc Di cùng với học trò – Giáo sư Tôn Thất Tùng trở thành linh hồn của Trường đại học Y.

Ngày 6/10/1947, Trường Đại học Y của nước Việt Nam kháng chiến khai giảng khóa đầu tiên tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang, với 2 giáo sư và 11 sinh viên, với chương trình giảng dạy bằng tiếng Việt. Ông được cử giữ chức Hiệu trưởng đầu tiên của Trường.

Trường đại học không chỉ là nơi đào tạo những cán bộ phục vụ trực tiếp cho kháng chiến, cho tương lai của đất nước, mà còn là nơi khơi dậy, cổ vũ tinh thần yêu nước của thanh niên, trí thức trẻ tuổi.

   GS Hồ Đắc Di phát biểu tại lễ tổng kết năm học của trường Đại học Y, 1952. Từ trái qua phải: GS Hồ Đắc Di (đứng), Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, GS Tôn Thất Tùng. (Ảnh tư liệu)

Bác sĩ Hồ Đắc Di cho rằng việc tập hợp sinh viên dưới mái trường đại học cũng là một dịp để thể hiện lòng yêu nước: “Tổ quốc lâm nguy cần sự tập hợp của mọi đứa con không phân biệt giai cấp, đảng phái hay tôn giáo vì mục đích chung. Sự đoàn kết thiêng liêng là yêu cầu tuyệt đối và sống còn, nếu không nước Việt Nam sẽ có nguy cơ vĩnh viễn xóa khỏi bản đồ thế giới. Trong cuộc đời người ta thường không có dịp để được hiến dâng và chết cho Tổ quốc. Thì đây! Thưa các bạn! Dịp ấy đây! Hãy chớp lấy thời cơ!” (Bài phát biểu của Hiệu trưởng Hồ Đắc Di tại lễ khai giảng trường Đại học Y, 6-10-2947).

Trường Đại học Y vừa khai giảng được một ngày thì quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn, mở cuộc tấn công Việt Bắc. Một thời gian sau thì chúng đánh vào khu vực mà trường Y đóng ở Chiêm Hóa, thầy trò trường Y lại sơ tán vào núi rừng. Có lần, giặc Pháp còn đến tận trường Y, nơi ở của gia đình bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Hồ Đắc Di…, giặc Pháp đã dùng máy bay bà già, gọi loa để mời những trí thức như bác sĩ Hồ Đắc Di, bác sĩ Tôn Thất Tùng, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên về Hà Nội để làm việc nhưng họ đều quyết tâm thà chết chứ không chịu theo Pháp.

"Cuộc kháng chiến gian khổ, ăn đói, ở rừng không thể làm nhụt ý chí của các trí thức vốn xuất thân dòng dõi quan lại. Động lực có gì khác ngoài lòng yêu nước nồng nàn và một tinh thần dấn thân".

Bác sĩ Hồ Đắc Di viết về một lần như thế: “Nghe tiếng chúng, tôi rợn tóc gáy, tim đập tưởng như muốn vỡ ra. Tôi lo quá. Vợ tôi đưa mắt nhìn tôi. Chúng biết rõ chỗ chúng tôi nấp thật chăng? Trong cơn hoảng hốt, tôi đã nói nhỏ với vợ tôi một câu mà tôi còn nhớ mãi, một câu nói hết sức tỉnh táo: Chết thì chết chứ không để bọn Pháp bắt lại một lần nữa. Câu nói ngắn gọn trong giây phút căng thẳng đó không phải là ý nghĩ thoảng qua, mà là điều tôi đã nghiền ngẫm từ lâu, đã ăn sâu trong tiềm thức tôi”.

Suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, bác sĩ Hồ Đắc Di cùng các trí thức khác như Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Đỗ Xuân Hợp… đã đào tạo ra bao lớp sinh viên y khoa, trực tiếp phục vụ cho cuộc kháng chiến và nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Cuộc kháng chiến gian khổ, ăn đói, ở rừng không thể làm nhụt ý chí của các trí thức vốn xuất thân dòng dõi quan lại. Động lực có gì khác ngoài lòng yêu nước nồng nàn và một tinh thần dấn thân. Giáo sư Hồ Đắc Di là một đại diên tiêu biểu cho thế hệ trí thức tinh hoa Việt Nam thế kỷ 20, một người dám từ bỏ tất cả danh lợi của cái tôi để sống và cống hiến cho cái ta chung.

“Nhà nhận thức luận sâu sắc”

“Nhà nhận thức luận sâu sắc” là nhận xét của GS, Nhà giáo Nhân dân Đào Văn Tiến (nguyên Chủ nhiệm khoa Sinh học, Đại học Tổng hợp Hà Nội) về GS Hồ Đắc Di – người mà ông coi là bạn vong niên đáng kính. Mượn lời GS Đào Văn Tiến, chúng tôi chỉ xin nhắc lại vài vấn đề, vài quan điểm của GS Hồ Đắc Di về vai trò của trường đại học y, của nghề y và của người thầy thuốc. Hơn 70 năm đã trôi qua, nhưng những quan điểm ấy vẫn còn nguyên giá trị, đáng để chúng ta suy ngẫm một cách thấu đáo.

Tổ quốc lâm nguy, sĩ phu hữu trách. Do vậy, người trí thức phải có trách nhiệm với nhân dân, dân tộc mình, không thể đứng ngoài cuộc. Những sinh viên của trường đại học cũng vậy, là những đại diện ưu tú cho tầng lớp thanh niên, sức trẻ của đất nước, phải là những người xông pha lên tuyến đầu. Trường đại học có một vai trò lớn, đào tạo ra những con người có tri thức, văn hóa, trước tiên làm cuộc cách mạng giải phóng ách áp bức, sau đó đưa đất nước tiến kịp với văn minh của nhân loại.

Chú thích ảnh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Đại học Y (năm 1955). (Ảnh: Tư liệu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Đại học Y (năm 1955). (Ảnh: Tư liệu)

Trong thời điểm khai giảng Trường đại học Y, Hiệu trưởng Hồ Đắc Di khẳng định nhiệm vụ thiêng liêng của trường: “Trong giờ phút nghiêm trọng mà chúng ta đang trải qua rất có ý nghĩa: nó xác nhận quyết tâm không gì lay chuyển của Chính phủ muốn giữ nguyên nhiệm vụ thiêng liêng và cổ truyền của trường đại học là đào tạo những người có văn hóa và có học thức, nghĩa là những cán bộ kỹ thuật và những con người tự do”[1].

Để có được buổi khai giảng của một trường đại học giữa núi rừng Việt Bắc thì cả Chính phủ, những thầy giáo, bác sĩ và sinh viên y khoa đều rất nỗ lực, vượt qua nhiều gian khó, thậm chí là nhiều hy sinh. Nhiệm vụ của Trường đại học Y – như Hiệu trưởng Hồ Đắc Di nói, nó thiêng liêng, đào tạo những người có văn hóa, học thức, đặc biệt là những người tự do. Vậy thì, trong bối cảnh đất nước đang lâm nguy, những người có tri thức và văn hóa ấy không thể đứng ngoài cuộc, làm ngơ trước vận mệnh của chính mình được. Họ phải tiếp thu tri thức và phục vụ nhân dân, phục vụ cho dân tộc làm cuộc kháng chiến trường kỳ, giải phóng khỏi ách nô lệ.

Nhiệm vụ thiêng liêng và cổ truyền của trường đại học là đào tạo những người có văn hóa và có học thức, nghĩa là những cán bộ kỹ thuật và những con người tự do.
--------

Hiệu trưởng Hồ Đắc Di

Giáo sư Hồ Dắc Di (bên phải) tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên tới thăm Trường đại học Y. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Hồ Dắc Di (bên phải) tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên tới thăm Trường đại học Y. (Ảnh tư liệu)

"Tất cả chúng ta hãy để cho mình được cuốn theo làn gió lớn vĩ đại, làn gió ấy đang dựng dậy cả một dân tộc".

(Bài phát biểu của Hiệu trưởng Hồ Đắc Di tại Lễ khai giảng Trường đại học Y, 6/10/1947.)

Hơn ai hết, trên tư cách là người đứng đầu một trường đại học lớn, Giáo sư Hồ Đắc Di lường trước được những hiểm nguy, tổn thất, hy sinh của cuộc kháng chiến, nhưng vẫn luôn lạc quan. Ông đã biến buổi khai giảng thành một buổi diễn thuyết, nhắc lại những giá trị truyền thống, lòng yêu nước, lịch sử chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc Việt Nam. Những tội ác của kẻ thù được nhắc lại, những tiến bộ khoa học của loài người được nêu lên là sự phủ nhận cho một cuộc chiến tranh phi nghĩa mà thực dân Pháp đang gieo rắc ở Việt Nam.

Bởi vậy, ông nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi sinh viên y khoa: “Trong phút giây lịch sử mà sự bất trắc còn đè nặng lên vận mệnh của Tổ quốc, chúng ta hãy hướng lòng mình về những anh hùng dân tộc… Tất cả chúng ta hãy để cho mình được cuốn theo làn gió lớn vĩ đại, làn gió ấy đang dựng dậy cả một dân tộc. Hãy đưa những âm thanh cao vút vào lòng say mê lý tưởng của chúng ta. Hãy nhấn chìm mọi lợi ích cá nhân”[2].

Việc ghi danh vào trường Đại học Y khoa của các thanh niên cũng là một nhiệm vụ. Theo sự mô tả của GS Hồ Đắc Di thì sinh viên trường Y phải lắng nghe lời kêu gọi cầm vũ khí mà cha ông đã phát ra từ chiều sâu lịch sử. Ông nhấn mạnh: “Kìa, cha ông chúng ta đang từ trong mộ đứng thẳng dậy, ra hiệu cho chúng ta làm tròn nhiệm vụ. Và dường như để thuyết phục những người còn lưỡng lự, bên tai chúng ta bỗng nghe văng vẳng từng tiếng rồi rền vang thành lời kêu gọi mênh mang tiếng giục giã “Tiến lên” mà đời sau sẽ còn nhắc mãi. Giờ giải phóng trên đồng hồ lịch sử đã điểm. Nó thúc kèn tập hợp mọi lực lượng, động viên mọi cố gắng cao nhất và quyết định nhất chắc chắn sẽ đưa ta tới độc lập và tự do, vĩnh viễn giải phóng mảnh đất thiêng liêng này – mảnh đất ngày hôm qua là cái nôi của tuổi thơ ấu và ngày mai sẽ là nơi an nghỉ cuối cùng của chúng ta – thoát khỏi xiềng xích nô lệ”[3].

Giáo sư Tôn Thất Tùng, Thứ trưởng Y tế (trái) và Giáo sư Hồ Đắc Di, Hiệu trưởng Trường đại học Y trong rừng Chiêm Hoá, Tuyên Quang (1947-1954). (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Tôn Thất Tùng, Thứ trưởng Y tế (trái) và Giáo sư Hồ Đắc Di, Hiệu trưởng Trường đại học Y trong rừng Chiêm Hoá, Tuyên Quang (1947-1954). (Ảnh tư liệu)

Sự đồng cảm và thấu hiểu là điều dễ nhận thấy trong những lời lẽ mượt mà, sâu sắc của Giáo sư Hồ Đắc Di. Ở đó, chúng ta cảm nhận được một quyết tâm lớn lao của người đứng đầu trường Y, một ý chí lớn lao trong việc chiếm lĩnh chuyên môn khoa học và hơn hết là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân.

Ông bày tỏ: “Tôi tin tưởng rằng ý định của tôi cũng tìm được sự đồng cảm đặc biệt với những nguyện vọng sâu xa nhất của các bạn bởi vì tôi đã đọc được trên nét mặt của các bạn bầu nhiệt huyết hăng say ấy và đã thấy trong ánh mắt của các bạn sáng lên ngọn lửa mãnh liệt ấy. Những cái đó chứng tỏ sự xúc động cũng như quyết tâm không lay chuyển của các bạn đi theo con đường vừa mới vạch ra, một con đường có sự ủng hộ của lương tâm, sự ưng thuận của lý trí và sự đồng tình của trái tim”[4].

Vinh-lụy nghề y

Là người Việt Nam đầu tiên được Pháp cho phép thực hiện các ca phẫu thuật, bác sĩ Hồ Đắc Di đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học công bố trên các tạp chí y khoa. Không chỉ có chuyên môn giỏi, GS Hồ Đắc Di cũng là người có những quan điểm về vai trò của nghề y, của các thầy thuốc rất tinh tế, sâu sắc phù hợp với thực tiễn. Những quan điểm đó cho đến nay vẫn khiến giới y học phải suy ngẫm vì giá trị, tinh thần nhân văn.

Trong bài diễn văn tại lễ khai mạc hội nghị y tế toàn quốc, năm 1949, GS Hồ Đắc Di đã nhắc lại những yêu cầu của nghề y, người thầy thuốc trong lịch sử loài người, đồng thời nhấn mạnh những quan điểm cá nhân về các vấn đề này. Tình thương được coi là hơi thở của cuộc đời người thầy thuốc. Ông nhấn mạnh: “Sự khô cằn của trái tim không thể dung hòa được với tiếng nói của y học. Đó là vinh dự đặc biệt nhưng cũng lại là nghĩa vụ cao quý, thiêng liêng”.

  

Để hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm, người thầy thuốc phải luôn thuộc lòng hai nguyên tắc là khoa học và lương tâm. Người thầy thuốc phải lấy việc nghiên cứu và xoa dịu nỗi khổ đau của mọi người làm mục đích chính. Đi vào phân tích sâu hơn các nguyên tắc này, Giáo sư Hồ Đắc Di cho rằng: “Khoa học nghĩa là nghệ thuật và văn hoá cũng cần thiết cho nghề nghiệp như lương tâm, nghĩa là việc coi nhiệm vụ trên lợi lộc, danh dự trên tiền tài cũng cần thiết cho sự nghiệp của người thầy thuốc.

Bất cứ nền Y học nào nếu muốn được tôn trọng đều phải cung cúc phục vụ dù điều đó là cái luỵ cho người thầy thuốc: nếu như họ có thể thề nguyền giữ thanh bạch được thì ngược lại họ cũng cần phải thề nguyền giữ phẩm cách. Họ cũng cần hiểu rằng kho tàng khoa học trong y học được phong phú thêm, bao giờ cũng bắt đầu từ cảnh nghèo nàn của họ”. (Trích từ Diễn văn của GS Hồ Đắc Di tại lễ khai mạc hội nghị y tế toàn quốc, năm 1949)

Trường Đại học Y vừa khai giảng được một ngày thì quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn, mở cuộc tấn công Việt Bắc. Một thời gian sau thì chúng đánh vào khu vực mà trường Y đóng ở Chiêm Hóa, thầy trò trường Y lại sơ tán vào núi rừng. Có lần, giặc Pháp còn đến tận trường Y, nơi ở của gia đình bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Hồ Đắc Di…, giặc Pháp đã dùng máy bay bà già, gọi loa để mời những trí thức như bác sĩ Hồ Đắc Di, bác sĩ Tôn Thất Tùng, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên về Hà Nội để làm việc nhưng họ đều quyết tâm thà chết chứ không chịu theo Pháp.

Nhưng chỉ có lương tâm thì chưa đủ, nghề nghiệp của người thầy thuốc phải theo sát mọi phát minh mới, những tiến bộ mới nhằm bảo đảm việc chẩn đoán chính xác và bảo đảm kiểm tra được những ấn tượng của giác quan. Thiếu khoa học, thầy thuốc không thể sử dụng những trang thiết bị hoàn hảo. Do vậy, muốn thông thạo những kỹ thuật tinh vi và phức tạp, thầy thuốc cần phải có học vấn sâu rộng, có giác quan tinh tế và đôi tay khéo léo. Bởi vậy, họ cần phải rèn luyện, trau dồi liên tục kiến thức để đáp ứng yêu cầu chuyên môn từ thực tiễn đặt ra. GS Hồ Đắc Di khái quát: “Nghệ thuật trong y học là óc tinh tế được gọi là năng khiếu lâm sàng, là do sự tổng hợp của logic, phương pháp và lẽ phải mà hình thành”[6].

Không chỉ cần chuyên môn giỏi, luôn cập nhật với tiến bộ mới, người thầy thuốc buộc phải có một trình độ văn hóa cao để làm cho họ khác với một người thợ thủ công khéo léo. Giáo sư Hồ Đắc Di cho rằng để làm được việc đó cần phải phát triển mọi năng lực tinh thần và đạo đức, khoa học và nghệ thuật; biết kết hợp khoa học với văn hóa.

Ông nhấn mạnh: “Nếu nghề nghiệp gây ra cô lập thì trái lại văn hóa làm xích tới vì cơ sở của văn hóa là chủ nghĩa nhân đạo mà thuyết tân Hippocrate lấy làm cứu cánh có cơ sở”.

Giáo sư Hồ Đắc Di, Giáo sư Tôn Thất Tùng và Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch sau ngày Hà Nội giải phóng. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Hồ Đắc Di, Giáo sư Tôn Thất Tùng và Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch sau ngày Hà Nội giải phóng. (Ảnh tư liệu)

Theo Giáo sư Hồ Đắc Di, nếu người thầy thuốc là một nghệ sĩ vì khoa học của họ là một nghệ thuật thì họ phải là một “người hiền” bởi vì tâm hồn họ là niềm tin và nghề của họ là sứ mệnh. Lòng trắc ẩn, tình thương bệnh nhân thúc đẩy họ làm việc liên tục để rèn luyện, đáp ứng lòng tin của người bệnh.

Giáo sư vẫn được các thế hệ y bác sĩ Việt Nam nhắc lại như một biểu tượng lớn của ngành y Việt Nam hiện đại. Những cống hiến hết mình của Giáo sư trên tư cách một người trí thức và những đóng góp cho nền y học nước nhà trên khía cạnh một thầy thuốc, một nhà khoa học sẽ mãi mãi còn được nhắc nhớ về sau.

Ngày xuất bản: 8/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - HỒNG VÂN
Thực hiện: NGUYỄN THANH HÓA - NHÓM PHÓNG VIÊN
Trình bày: NGỌC DIỆP
Ảnh:
Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam

E-Magazine I nhandan.vn