ĐƯA NƯỚC SẠCH ĐẾN VÙNG XA CÁCH TRỞ
Chứng kiến khoảnh khắc nhân viên Công ty Cổ phần Cấp nước Gia Định tháo bỏ chiếc máy bơm cũ để chuyển sang sử dụng hoàn toàn nguồn nước máy, ông Võ Văn Tỵ, ngụ tại 525/84 Huỳnh Văn Bánh, phường Phú Nhuận, bỗng nhớ lại những ngày gian khó cách đây hơn 20 năm. Khi ấy, cứ mỗi đêm ông lại lom khom bên chiếc chậu nhựa, hứng từng giọt nước sạch tí tách rơi xuống từ đường ống. Không riêng gì gia đình ông Tỵ, cả xóm khi ấy đều phải dè sẻn, dành phần nước máy ít ỏi để nấu nướng; còn toàn bộ sinh hoạt hằng ngày buộc phải trông vào nguồn nước giếng khoan.
Ông Võ Văn Tỵ, ngụ đường Huỳnh Văn Bánh, phường Phú Nhuận hỗ trợ nhân viên Công ty Cổ phần Cấp nước Gia Định cắt bỏ hệ thống giếng khoan vì gia đình ông đã dùng nước máy hơn 20 năm qua.
Ông Võ Văn Tỵ, ngụ đường Huỳnh Văn Bánh, phường Phú Nhuận hỗ trợ nhân viên Công ty Cổ phần Cấp nước Gia Định cắt bỏ hệ thống giếng khoan vì gia đình ông đã dùng nước máy hơn 20 năm qua.
Mỗi thời mỗi khác nhưng giờ nước sạch về tận nhà còn tiện hơn đi mua cái sim điện thoại
Cách trung tâm thành phố gần 60km, ông Nguyễn Văn Tới, người dân xã Bình Khánh (thuộc huyện Cần Giờ trước đây), vẫn không quên những ngày phải chở từng can nước từ đầu hẻm về đổ vào bồn tập trung, mệt nhoài mà vẫn thiếu. Từ khi đồng hồ nước được lắp ngay trước sân nhà, ông Tới vẫn giữ thói quen bước ra nhìn dòng nước chảy, như để tự nhắc mình về niềm vui tưởng chừng xa xỉ suốt nhiều năm: chỉ cần mở vòi là có nước sạch.
Ông Nguyễn Văn Tới (78 tuổi), ngụ tổ 4, xã Bình Khánh, huyện Cần Giờ trước đây phấn khởi khi đồng hồ nước được gắn tận nhà không phải đi mua nước sạch từ bồn tập trung.
Ông Nguyễn Văn Tới (78 tuổi), ngụ tổ 4, xã Bình Khánh, huyện Cần Giờ trước đây phấn khởi khi đồng hồ nước được gắn tận nhà không phải đi mua nước sạch từ bồn tập trung.
Những câu chuyện giản dị ấy, từ nội đô đến vùng sâu, như hai đầu sợi dây nay đã được nối liền. Nước sạch không còn là khát vọng mà đã trở thành dịch vụ thiết yếu, được người dân Thành phố Hồ Chí Minh tiếp cận một cách bình đẳng. Ngành cấp nước Thành phố đã kiên trì đầu tư hạ tầng, mở rộng mạng lưới, thu hẹp khoảng cách giữa trung tâm và vùng ven; giữa những khu đô thị phát triển với các xã xa nhất của huyện Cần Giờ trước đây.
Năng lực cấp nước hiện nay
Năng lực sản xuất nước
Mạng lưới đường ống
Đồng hồ nước đang hoạt động
Dân số được cấp nước sạch
Tỷ lệ thất thoát nước
Giảm 28% trong 20 năm – Thành tích xuất sắc
Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn (Sawaco) cho biết, khối lượng công việc mà ngành nước phải thực hiện trong hơn một thập kỷ qua có thể xem như “cuộc đại chỉnh sửa” toàn hệ thống: nâng 200% năng lực sản xuất, mở rộng gần 500% mạng lưới đường ống và hoàn thiện hệ thống quản lý đồng hồ nước cho toàn Thành phố.
Hệ thống nhà máy nước chủ lực của Thành phố Hồ Chí Minh
Vai trò: "Trung tâm điều tiết" áp lực, sản lượng toàn hệ thống
DÂN CƯ ĐẾN ĐÂU, NƯỚC SẠCH THEO ĐẾN ĐÓ
Như cơ thể con người cần một hệ thống mạch máu bền vững, một đô thị hơn 14 triệu dân cũng đòi hỏi mạng lưới cấp nước tương xứng. Suốt hơn 10 năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh xác định ưu tiên lớn nhất là mở rộng hệ thống truyền dẫn đến những khu vực trước đây chưa từng có nước máy; đồng thời thay thế các tuyến ống cũ, đường kính nhỏ, vốn đã quá tải hoặc xuống cấp, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa và các khu dân cư mới hình thành.
Thi công, lắp đặt hệ thống đường ống truyền tải ở phía Nam Thành phố.
Thi công, lắp đặt hệ thống đường ống truyền tải ở phía Nam Thành phố.
Ở phía Nam Thành phố, nhu cầu mở rộng không gian đô thị, sự phát triển nhanh của các khu dân cư mới đòi hỏi hạ tầng cung cấp nước phải đi trước một bước. Thành phố đã tập trung đầu tư hệ thống truyền tải quy mô lớn, trong đó nổi bật là dự án tuyến ống cấp 1 trên trục đường Nguyễn Văn Linh, với tổng mức đầu tư 850 tỷ đồng. Hơn 16 km đường ống các cỡ D800, D1000, D1200 sau khi hoàn thành và đưa vào vận hành đã góp phần bảo đảm nguồn nước sạch an toàn, liên tục, ổn định cho người dân khu đô thị Nam Sài Gòn cùng các quận, huyện như Quận 7, Quận 8, huyện Bình Chánh và Nhà Bè trước đây.
Cần Giờ–vùng đất được ví như “đảo giữa rừng ngập mặn” lại có điều kiện tự nhiên đặc thù: địa bàn rộng, dân cư thưa, hệ thống kênh rạch dày đặc, giao thông còn hạn chế. Theo Ủy ban nhân dân xã Bình Khánh, những yếu tố này từng khiến việc phủ kín mạng lưới cấp nước gặp rất nhiều khó khăn. Thế nhưng chỉ trong vài năm gần đây, hơn 200 km đường ống được lắp đặt tại các xã Bình Khánh, Lý Nhơn, Thạnh An, An Thới Đông cùng ba trạm bơm tăng áp đã được bổ sung giúp bảo đảm áp lực nước. Nhờ đó, cảnh người dân phải mua nước từ sà lan hay tích trữ bằng lu, bằng bồn đã dần lùi vào quá khứ; nước sạch thực sự đã đến tận từng hộ dân vùng sâu.
Học sinh Trường Tiểu học Lý Nhơn, Cần Giờ trong niềm vui có nước sạch để vệ sinh tay sau giờ ăn trưa.
Học sinh Trường Tiểu học Lý Nhơn, Cần Giờ trong niềm vui có nước sạch để vệ sinh tay sau giờ ăn trưa.
Ban giám hiệu Trường mầm non Lý Nhơn (xã Bình Khánh) nhớ rất rõ những ngày phải mua nước với giá 70.000 đồng/m³, một chi phí lớn đối với cơ sở giáo dục vùng xa. Nay, gần 150 cô trò đã có nước máy với áp lực ổn định, chi phí sinh hoạt giảm đáng kể, không còn cảnh thiếu nước sạch cho các hoạt động thường nhật.
Theo Sawaco, đơn vị hiện đang hoàn thiện phương án đầu tư hệ thống cấp nước trực tiếp cho xã đảo Thạnh An, địa bàn cuối cùng của huyện Cần Giờ trước đây chưa có hạ tầng cấp nước đầy đủ. Khi công trình được triển khai, toàn bộ người dân huyện biển sẽ được tiếp cận bình đẳng với nguồn nước sạch, khép lại hành trình dài nỗ lực của Thành phố trong việc bảo đảm an sinh nước sạch cho cộng đồng.
Đưa hệ thống cấp nước về cù lao Mỹ Khánh, xã Bình Khánh, khu vực vùng sâu của Thành phố Hồ Chí Minh.
Đưa hệ thống cấp nước về cù lao Mỹ Khánh, xã Bình Khánh, khu vực vùng sâu của Thành phố Hồ Chí Minh.
Mạng lưới cấp nước tại Cần Giờ (trước đây)
KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG: KHÔNG CHỈ ĐỦ NƯỚC, MÀ PHẢI SẠCH VÀ AN TOÀN
Cấp nước cho hơn 14 triệu người không chỉ là chuyện đường ống, mà là hệ thống kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt từ nguồn tới vòi.
Khu vực bể lắng Nhà máy nước Tân Hiệp, nhà máy khai thác nguồn nước thô từ sông Sài Gòn.
Khu vực bể lắng Nhà máy nước Tân Hiệp, nhà máy khai thác nguồn nước thô từ sông Sài Gòn.
Theo Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Thành phố (HCDC) được giao nhiệm vụ giám sát độc lập chất lượng nước theo Thông tư 52/2024/TT-BYT. Tất cả mẫu nước từ đầu năm 2025 đến nay đều đạt quy chuẩn.
Khi có dấu hiệu bất thường, các đoàn thanh tra sẽ kiểm tra đột xuất, phối hợp với Sawaco xử lý sự cố và thông tin kịp thời đến người dân.
Trên thực tế hơn 14 triệu cư dân Thành phố Hồ Chí Minh đang phụ thuộc vào hai dòng sông Đồng Nai và Sài Gòn, nhưng những dòng sông ấy đang chịu sức ép chưa từng có:
• 50.000 m³/ngày nước thải công nghiệp từ 20 khu công nghiệp, khu công nghệ cao
• 30.000 cơ sở sản xuất nhỏ chưa có hệ thống xử lý đạt chuẩn
• Dấu hiệu ô nhiễm vi sinh, hữu cơ, tảo tăng mạnh
• Xâm nhập mặn ngày càng phức tạp
• Nước ngầm suy giảm nhanh do khai thác kéo dài
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường, riêng sông Sài Gòn đang tiếp nhận tới 76,21% tổng lượng nước thải đô thị và 66,6% tải lượng BOD5, con số cho thấy áp lực khổng lồ lên hệ sinh thái.
Tại Nhà máy nước Thủ Đức, “trái tim” của hệ thống cấp nước Thành phố, cứ vào mùa khô, hạn hán kéo dài, những kỹ sư phải thường xuyên túc trực, “ăn ngủ” cùng máy đo, kiểm tra từng thông số: độ đục, pH, clo dư… bởi chỉ cần sai lệch nhỏ là ảnh hưởng đến chất lượng nước sạch chảy từ các Nhà máy về nhà hộ dân.
Phòng kiểm tra chất lượng nước Nhà máy nước Thủ Đức.
Phòng kiểm tra chất lượng nước Nhà máy nước Thủ Đức.
Theo quy trình, hàng giờ tại Nhà máy cấp nước Thủ Đức, cán bộ sẽ kiểm tra các chỉ tiêu chính (độ đục, pH, hàm lượng chất khử trùng) và hằng tuần sẽ lấy mẫu kiểm tra theo quy định của Bộ Y tế và quy định về chất lượng nước sạch theo QCVN 01-1:2024/BYT.
BIỂU ĐỒ CHẤT LƯỢNG NƯỚC THÔ VÀ NƯỚC SẠCH
Nguồn: Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn
CÔNG NGHỆ – “LÁ CHẮN” MỚI CỦA AN NINH NGUỒN NƯỚC
An ninh nguồn nước không chỉ là bảo đảm đủ nước cho hiện tại, mà còn là bảo đảm nguồn nước đủ chất lượng, đủ khả năng dự phòng và đủ bền vững cho nhiều thế hệ mai sau. Thách thức không dừng lại ở khâu bảo vệ nguồn nước thô, mà còn nằm ở áp lực đô thị hóa nhanh, đòi hỏi mạng lưới cấp nước phải bền vững hơn, ứng dụng công nghệ cao hơn, cùng hệ thống cảnh báo, theo dõi chất lượng nước ngày càng thông minh hơn. Theo ngành nước Thành phố, đơn vị đã đẩy mạnh số hóa toàn diện quá trình quản lý, từ sản xuất đến phân phối, từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung phục vụ phân tích và dự báo.
Nhân việc làm việc tại Hệ thống SCADA, theo dõi và phân tích chất lượng nước sạch.
Nhân việc làm việc tại Hệ thống SCADA, theo dõi và phân tích chất lượng nước sạch.
Hiện nay, hầu hết lượng nước phục vụ sinh hoạt của Thành phố Hồ Chí Minh được lấy từ nguồn nước mặt.
Khu vực xử lý nước thô, Nhà máy nước Thủ Đúc, nhà máy có công suất phát nước nước lớn nhất Thành phố.
Khu vực xử lý nước thô, Nhà máy nước Thủ Đúc, nhà máy có công suất phát nước nước lớn nhất Thành phố.
Để bảo đảm an toàn, các nhà máy nước áp dụng chuỗi công nghệ xử lý hiện đại: tiền oxy hóa, keo tụ–tạo bông, lắng–lọc, và cuối cùng là khử trùng bằng clo trước khi đưa vào mạng lưới cấp nước.
Song song đó, Sawaco đang triển khai số hóa toàn bộ chuỗi vận hành: sản xuất, điều độ, phân phối cho đến giám sát thất thoát nước. Cơ sở dữ liệu dùng chung được xây dựng sẽ cho phép phân tích, dự báo chất lượng nước theo thời gian thực, hướng tới mô hình “hệ thống cấp nước thông minh”, nâng cao mức độ an toàn, chủ động của an ninh nguồn nước trong bối cảnh Thành phố phát triển mạnh mẽ.
Bảo đảm nguồn nước sạch cho người dân hôm nay không chỉ là một dịch vụ công thiết yếu, mà đã trở thành một trong những trụ cột của an ninh đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, ô nhiễm thượng nguồn gia tăng và tốc độ đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ, việc bảo vệ nguồn nước thô, đầu tư công nghệ xử lý tiên tiến, mở rộng mạng lưới cấp nước đến từng hộ dân… là nhiệm vụ cấp thiết, liên tục và lâu dài.
Tuy nhiên, để duy trì “mạch sống” ấy một cách bền vững, Thành phố Hồ Chí Minh cần tăng cường phối hợp liên vùng trong quản lý nguồn nước; yêu cầu sự tuân thủ nghiêm pháp luật về môi trường của các doanh nghiệp; đồng thời tiếp tục đầu tư cho hạ tầng cấp nước với tầm nhìn dài hạn. Quan trọng hơn cả là sự đồng lòng, ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong gìn giữ và sử dụng tiết kiệm nguồn nước.
Một trụ nước uống tại vòi lắp đặt tại Bảo tàng chứng tích chiến tranh phục vụ du khách tham quan.
Một trụ nước uống tại vòi lắp đặt tại Bảo tàng chứng tích chiến tranh phục vụ du khách tham quan.
Mỗi giọt nước sạch đến với từng hộ dân hôm nay chính là nền tảng để Thành phố Hồ Chí Minh phát triển bền vững, hiện đại và nhân văn; xây dựng một đô thị lớn sống trong an toàn nguồn nước, vững bước hướng tới tương lai.
Chỉ đạo sản xuất: Lê Nam Tư
Tổ chức sản xuất: Tùng Quang
Nội dung: Quý Hiền, Tất Đạt
Ảnh: Tùng Anh, Quý Hiền
Trình bày: Tùng Anh