NGOẠI GIAO CÔNG NGHỆ: SỨC MẠNH MỀM CỦA VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ

Từ một đất nước chưa có tên trên bản đồ thế giới, sau 80 năm, Việt Nam đã trở thành 1 trong 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới và được biết đến như một trong những trung tâm công nghệ tiềm năng hàng đầu tại Đông Nam Á. Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hội nhập quốc tế được xem là “quyết sách đột phá”, là động lực quan trọng góp phần đưa đất nước sánh vai các cường quốc năm châu.

Hội nhập quốc tế chuyển từ tiếp nhận sang đóng góp, từ hội nhập sâu rộng sang hội nhập đầy đủ, từ vị thế một quốc gia đi sau sang trạng thái một quốc gia vươn lên, tiên phong vào những lĩnh vực mới, khẳng định vị thế, năng lực trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh đó, ngoại giao công nghệ được xem là "sức mạnh mềm" của Việt Nam trong kỷ nguyên số.

Toàn cầu hóa (Go Global) là xu hướng tất yếu, nhưng để doanh nghiệp Việt vươn ra thế giới không thể chỉ dựa vào nội lực. Với những nghị quyết mang tính đột phá về đổi mới công nghệ, với sự góp sức của các ban, bộ, ngành và đại sứ quán các nước, trên hành trình thực hiện sứ mệnh ngoại giao công nghệ, các doanh nghiệp Việt Nam đang có được “bệ đỡ” vững chắc. Tuy nhiên, để thực hiện chiến lược hợp tác quốc tế về công nghệ, chúng ta còn nhiều việc cần phải làm.

Các doanh nghiệp Việt Nam đang có được “bệ đỡ” vững chắc, tuy nhiên để thực hiện chiến lược hợp tác quốc tế về công nghệ, chúng ta còn nhiều việc cần phải làm.

Những cánh tay nối dài trong ngoại giao công nghệ

Đại sứ quán và Movitel tặng quà cho học sinh nghèo ở Mozambique.

Đại sứ quán và Movitel tặng quà cho học sinh nghèo ở Mozambique.

Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đặt mục tiêu giai đoạn 2025–2035, tầm nhìn đến năm 2045, đưa Việt Nam trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo của khu vực, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao và hình thành hệ sinh thái số hiện đại. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa trong nước và quốc tế. 

Thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, các đại sứ quán không chỉ “đi trước mở đường” mà còn có trách nhiệm thực sự “đồng hành” cùng doanh nghiệp trong từng bước phát triển, gắn lợi ích của doanh nghiệp với hiệu quả quan hệ song phương và uy tín quốc gia. 

Theo Đại sứ Trần Thị Thu Thìn, với tinh thần quán triệt Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong phát triển kinh tế, Đại sứ quán Việt Nam tại Mozambique xác định, việc xây dựng và củng cố sự tin tưởng và tình cảm hữu nghị giữa hai nước trên tất cả các kênh là nhiệm vụ trọng tâm, coi đây là “tài sản chiến lược” của ngoại giao. 

khai-truong-cua-hang-tai-tinh-inhambane.jpg

Khai trương cửa hàng tại tỉnh Inhambane.

Khai trương cửa hàng tại tỉnh Inhambane.

Đại sứ Trần Thị Thu Thìn khuyến cáo, Việt Nam cần xác định việc doanh nghiệp đầu tư tại các địa bàn xa xôi, còn nhiều khó khăn như tại các nước châu Phi đồng nghĩa với khả năng rủi ro lớn và cam kết lâu dài. Do đó, Chính phủ và các bộ, ban ngành cần xây dựng cơ chế hỗ trợ chiến lược, dài hơi. 

“Ngoài việc hoàn thiện quy trình phê duyệt và cấp phép, cần nghiên cứu áp dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro, ưu đãi tín dụng đồng thời tích cực đàm phán, ký kết các hiệp định bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần với các nước châu Phi. Đây là những biện pháp thiết thực nhằm bảo vệ quyền lợi và khuyến khích doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn”, Đại sứ Trần Thị Thu Thìn chia sẻ. 

Thực hiện Nghị quyết 57-NƯ/TW, các đại sứ quán không chỉ “đi trước mở đường” mà còn có trách nhiệm thực sự “đồng hành” cùng doanh nghiệp trong từng bước phát triển, gắn lợi ích của doanh nghiệp với hiệu quả quan hệ song phương và uy tín quốc gia. 

43fpt-software-hd.jpg

Đại diện FPT (hàng trên bên trái) nhận biên bản hợp tác với đại diện Công ty Silvaco (Mỹ) trước sự chứng kiến của Thủ tướng Phạm Minh Chính. (Ảnh: Dương Giang-TTX VN)

Đại diện FPT (hàng trên bên trái) nhận biên bản hợp tác với đại diện Công ty Silvaco (Mỹ) trước sự chứng kiến của Thủ tướng Phạm Minh Chính. (Ảnh: Dương Giang-TTX VN)

Đưa sản phẩm công nghệ cao Việt Nam vào thị trường Mỹ là một mục tiêu chiến lược mà Nghị quyết 57-NQ/TW đặt ra. Tuy nhiên, đây là thị trường có tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt và yêu cầu chất lượng cao. Ông Hoàng Anh Tuấn, Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco cho hay, Lãnh sự đã và đang hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách tổ chức chương trình giới thiệu sản phẩm, hội chợ chuyên ngành và kết nối trực tiếp với các chuỗi phân phối, nhà cung ứng lớn. Các sản phẩm nổi bật bao gồm phần mềm, giải pháp AI, thiết bị IoT và chip bán dẫn. 

Nhờ sự hỗ trợ này, một số doanh nghiệp Việt đã thành công bước đầu trong việc ký kết hợp đồng hợp tác và hiện diện tại thị trường Mỹ. Điều đó không chỉ mở rộng thị trường cho sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam mà còn góp phần nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu “xuất khẩu trí tuệ” của Nghị quyết 57-NQ/TW. 

Trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ toàn cầu gay gắt, Nghị quyết 57-NQ/TW là kim chỉ nam để Việt Nam phát triển kinh tế số và công nghệ cao. Lãnh sự Việt Nam tại San Francisco, Mỹ cho biết, với vai trò trung tâm ngoại giao công nghệ của Việt Nam tại Mỹ, Cơ quan Lãnh sự đã khẳng định vị thế là “cầu nối thông minh” giữa Việt Nam và hệ sinh thái đổi mới toàn cầu.

Nhờ vị trí chiến lược tại trung tâm đổi mới sáng tạo toàn cầu – nơi hội tụ các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới, Tổng Lãnh sự Hoàng Anh Tuấn chia sẻ, để phát triển kinh tế số, Việt Nam cần nắm vững tiêu chuẩn công nghệ, bảo hộ sở hữu trí tuệ và xây dựng thương hiệu quốc tế.

“Tổng Lãnh sự quán luôn đồng hành cùng doanh nghiệp Việt trong quá trình đàm phán, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ giải quyết vướng mắc pháp lý và thương mại, góp phần giảm thiểu rủi ro và nâng cao khả năng cạnh tranh”, Tổng Lãnh sự khẳng định. 

Theo đó, từ việc xúc tiến hợp tác, kết nối doanh nghiệp, hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao, đến huy động trí thức kiều bào và định vị thương hiệu quốc gia, Tổng Lãnh sự quán không chỉ thực hiện nhiệm vụ ngoại giao truyền thống mà còn trở thành tác nhân thúc đẩy chuyển đổi số của đất nước. 

Ông Hoàng Anh Tuấn khẳng định, Nghị quyết 57-NQ/TW xác định rõ nhiệm vụ định vị thương hiệu Việt Nam như một quốc gia công nghệ đổi mới. Những năm qua, thông qua việc tham gia và hỗ trợ các sự kiện công nghệ toàn cầu về AI, kinh tế số, và chuyển đổi số, Tổng Lãnh sự quán đã góp phần khẳng định tầm nhìn công nghệ của Việt Nam, tạo dựng niềm tin với các tập đoàn công nghệ quốc tế. 

“Việc truyền thông thông điệp “Vietnam – A Rising Tech Nation” trên các nền tảng mạng xã hội, trong các hội nghị công nghệ lớn tại Mỹ đã giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn trong bản đồ đầu tư công nghệ toàn cầu. Đây chính là giá trị gia tăng bền vững mà ngoại giao công nghệ mang lại”, ông Hoàng Anh Tuấn chia sẻ. 

Ông cũng khẳng định, với tầm nhìn chiến lược và phương thức linh hoạt, Lãnh sự quán sẽ tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam trong hành trình hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ và đổi mới sáng tạo của khu vực vào năm 2045. 

Tại thị trường khó tính nhất như Nhật Bản, ông Phạm Quang Hiệu, Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản nhận định, “quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được triển khai toàn diện và thực chất trên tất cả mọi lĩnh vực, đặc biệt trong đó có bước tiến triển tạo dấu mốc quan trọng trong quan hệ hợp tác khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số giữa hai nước.

Ngoại giao công nghệ trong giai đoạn hiện hay và những năm tới sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong quan hệ hai nước, khi hai Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính và Thủ tướng Nhật Bản nhất trí đưa hợp tác khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo sẽ trở thành trụ cột mới của quan hệ song phương nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam vào tháng 4/2025. Với một quốc gia có nền khoa học và công nghệ phát triển hàng đầu trên thế giới và một quốc gia đang có nhu cầu đổi mới công nghệ, tiếp nhận các công nghệ hiện đại của thế giới, ngoại giao công nghệ do đó sẽ là cầu nối gắn kết nhu cầu phát triển của cả hai nước, hỗ trợ và bổ trợ cho nhau trong nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ”.

Ngoại giao công nghệ trong giai đoạn hiện nay và những năm tới sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong quan hệ hai nước.

Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Phạm Quang Hiệu

Đại sứ Phạm Quang Hiệu cũng khẳng định, trong 5-10 năm tới, ngoại giao công nghệ sẽ giúp Việt Nam có thể tìm kiếm, thúc đẩy hợp tác, ứng dụng công nghệ của Nhật Bản phù hợp với trình độ tiếp nhận của Việt Nam như các công nghệ trong lĩnh vực chế biến, cơ khí-chế tạo, ứng dụng công nghệ tự động hóa-robot và trí tuệ nhân tạo (AI) để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm trong các nhà máy sản xuất công nghiệp, nâng cao năng lực phát triển và làm chủ, tự chủ công nghệ các ngành công nghiệp nền tảng, đóng góp vào phát triển bền vững kinh tế đất nước. 

Ðồng thời, ngoại giao công nghệ tạo những điều kiện nền tảng để hai nước hỗ trợ, bổ trợ cho nhau trong tiếp cận các công nghệ chiến lược hiện nay và trong tương lai như bán dẫn, lượng tử, năng lượng mới…

FPT Camera thu hút nhiều khách tham quan, trải nghiệm tại gian hàng

FPT dự triển lãm 5G Service Expo, Nhật Bản. 

FPT dự triển lãm 5G Service Expo, Nhật Bản. 

“Việt Nam có nguồn nhân lực trẻ, năng động và đủ khả năng tiếp cận các công nghệ chiến lược, trong đó nhiều nhà khoa học người Việt Nam đã và đang giữ vị trí quan trọng như giáo sư, phó giáo sư, trưởng phòng thí nghiệm nghiên cứu trong cơ sở đào tạo và doanh nghiệp hàng đầu của Nhật Bản. Các nhà khoa học này không chỉ cùng các đồng nghiệp Nhật Bản thúc đẩy nghiên cứu và phát triển công nghệ chiến lược mà còn đóng vai trò cầu nối quan trọng để thúc đẩy ngoại giao công nghệ, thúc đẩy hợp tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các công nghệ chiến lược mà hai nước đang đặt trọng tâm”, Đại sứ Phạm Quang Hiệu nói. 

Tuy nhiên, Đại sứ Hiệu cũng cho rằng, để xâm nhập vào thị trường công nghệ cao tại nước phát triển như thị trường Nhật Bản đã khó và để giữ vững và phát triển sẽ ngày càng gặp nhiều khó khăn và cạnh tranh cao. 

“Ðể đạt được thành công, theo kinh nghiệm thời gian qua cho thấy các doanh nghiệp công nghệ cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết như nguồn nhân lực chất lượng cao, am hiểu văn hóa kinh doanh Nhật và thành thạo tiếng Nhật - điều kiện tiên quyết để mở rộng tại Nhật Bản vì khách hàng Nhật không thường dùng tiếng Anh trong kinh doanh nội địa. Ngoài ra, cần có sự đoàn kết, cùng chí hướng của các doanh nghiệp trong cùng ngành, tránh hoạt động manh mún và cạnh tranh khách hàng theo các hình thức không phù hợp”, Đại sứ nói. 

Bên cạnh đó, việc tổ chức thành Hiệp hội chuyên ngành cũng tạo điều kiện để các cơ quan bộ, ngành và Ðại sứ quán có cơ hội hỗ trợ chính thức đồng loạt và hiệu quả cho Hiệp hội và các thành viên kết nối và thúc đẩy kinh doanh tại Nhật Bản. Trong chiến lược ngoại giao công nghệ, vai trò của các Hiệp hội rất quan trọng.

Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản gặp mặt Doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam tại Nhật Bản.

Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản gặp mặt Doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam tại Nhật Bản.

Toàn cảnh phiên khai mạc Diễn đàn Cấp cao Chuyển đổi số Việt Nam - châu Á 2022

Toàn cảnh phiên khai mạc Diễn đàn Cấp cao Chuyển đổi số Việt Nam - châu Á 2022 do VINASA tổ chức.

Toàn cảnh phiên khai mạc Diễn đàn Cấp cao Chuyển đổi số Việt Nam - châu Á 2022 do VINASA tổ chức.

Trong chiến lược ngoại giao công nghệ, vai trò của các Hiệp hội rất quan trọng.

Trong những năm qua, với vai trò cầu nối, Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc (VKBIA) đã đồng hành, thúc đẩy nhiều chương trình hợp tác thiết thực trong lĩnh vực khoa học-công nghệ giữa hai nước. Có thể kể đến việc kết nối các trường đại học, viện nghiên cứu, khu công nghệ cao của Hàn Quốc với các đối tác Việt Nam, nhằm chia sẻ kinh nghiệm phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ và thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu.

Hiệp hội Doanh nhân & Đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc hợp tác toàn diện với Quỹ đầu tư của UAE

Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc hợp tác toàn diện với Quỹ đầu tư của UAE. (Nguồn: Hiệp hội VKBIA)

Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc hợp tác toàn diện với Quỹ đầu tư của UAE. (Nguồn: Hiệp hội VKBIA)

Tiến sĩ Trần Hải Linh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân và đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc (VKBIA) cho hay, thông qua những hoạt động này, Hiệp hội VKBIA không chỉ góp phần tăng cường hợp tác song phương về khoa học công nghệ, mà còn giúp Việt Nam tiếp cận nhanh hơn với tri thức và công nghệ tiên tiến, platform từ Hàn Quốc, đồng thời khẳng định vai trò của cộng đồng trí thức, doanh nhân kiều bào trong tiến trình phát triển đất nước.

Từ thực tiễn hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, thương mại và đặc biệt là khoa học-công nghệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc thời gian qua, Tiến sĩ Trần Hải Linh đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm quan trọng để các doanh nghiệp Việt Nam có thể khắc phục khó khăn và trở thành đối tác tin cậy, mở rộng hợp tác lâu dài với doanh nghiệp Hàn Quốc. Theo đó, cần phải xây dựng uy tín và chữ tín trong kinh doanh; đầu tư vào năng lực nội tại, đặc biệt là khoa học-công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng ngoại ngữ và hiểu biết văn hóa Hàn Quốc; cần có chiến lược lâu dài, kiên nhẫn gây dựng mối quan hệ, từ đó từng bước khẳng định vị thế.

"Tôi tin rằng, với tinh thần cầu thị, khát vọng vươn lên, cùng sự đồng hành của cộng đồng doanh nhân, chuyên gia – tri thức Việt Nam-Hàn Quốc và sự hỗ trợ từ hai Chính phủ, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành đối tác đáng tin cậy, mở rộng hợp tác thành công với Hàn Quốc, đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững của đất nước và góp phần thịnh vượng về kinh tế-xã hội cho cả 2 quốc gia", Tiến sĩ Trần Hải Linh bày tỏ.

"Hiệp hội VKBIA không chỉ góp phần tăng cường hợp tác song phương về khoa học công nghệ, mà còn giúp Việt Nam tiếp cận nhanh hơn với tri thức và công nghệ tiên tiến, platform từ Hàn Quốc"

Tiến sĩ Trần Hải Linh
Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân và đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc (VKBIA)

Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA) hiện có trên 600 hội viên. Các hội viên này không chỉ đóng góp hơn 70% tổng doanh thu ngành phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam mà còn là cánh tay nối dài trong “ngoại giao công nghệ” của Việt Nam. VINASA chính là cầu nối giữa chính phủ, doanh nghiệp, giữa chính sách với thực thi, giữa phản biện và xây dựng.

VINASA chính là cầu nối giữa chính phủ, doanh nghiệp, giữa chính sách với thực thi, giữa phản biện và xây dựng.

Năm 2024, VINASA tổ chức 4 hội nghị triển lãm trọng điểm, trình diễn 226 giải pháp chuyển đổi số, thu hút gần 9.000 lượt khách gồm chính phủ, doanh nghiệp và đối tác quốc tế, cùng gần 500 buổi kết nối Business Matching 1:1.

Bên cạnh đó, VINASA vẫn tiếp tục mở rộng mạng lưới hợp tác quốc tế, kết nối các doanh nghiệp Việt Nam với thị trường toàn cầu với 16 đoàn doanh nghiệp đi quốc tế, hỗ trợ hơn 400 lượt doanh nghiệp mở rộng hợp tác tại các thị trường trọng điểm như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu, Đài Loan (Trung Quốc), Anh, Singapore....

Cuối tháng 5/2025, VINASA đăng cai Diễn đàn Cấp cao Chuyển đổi số Việt Nam-châu Á, quy tụ hơn 2.500 đại biểu từ 16 quốc gia. Đây là những minh chứng rõ ràng về tầm ảnh hưởng quốc tế và sự chủ động của tổ chức trong hoạt động ngoại giao công nghệ.

Doanh nghiệp cần thêm các “bệ đỡ”

Thủ tướng Phạm Minh Chính làm việc với các tập đoàn vi mạch Nhật Bản.

Thủ tướng Phạm Minh Chính làm việc với các tập đoàn vi mạch Nhật Bản.

Để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, Khoa học và công nghệ được Đảng, Nhà nước xác định là “chìa khóa” quan trọng. Theo ông Nguyễn Văn Khoa, Chủ tịch VINASA, Tổng Giám đốc FPT, với 4 "nghị quyết trụ cột" vừa được Bộ Chính trị ban hành và Quyết định 1131/QĐ-TTg, doanh nghiệp công nghệ đã có đủ đòn bẩy đề tăng tốc. Đây cũng là bước tiến lớn trong tư duy phát triển. 

Tuy nhiên, chính sách muốn trở thành động lực, thì phải chống "rải đinh" – tức là không được tạo thêm rào cản, thủ tục, hay quy định gây cản trở cho đổi mới và sáng tạo. Các nghị quyết đã đầy đủ, rõ ràng và mang tính đột phá. Giờ là lúc cần một sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt và nhanh chóng của cả hệ thống chính trị để hiện thực hóa tinh thần của các nghị quyết thành hành động cụ thể.

Do đó, ông Khoa cho rằng, việc đầu tiên là Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích mạnh mẽ cho hoạt động R&D, cũng như các mô hình hợp tác công-tư trong những lĩnh vực công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, an ninh mạng. Đây là nền tảng để doanh nghiệp Việt có thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.

Thứ hai, nên xây dựng một chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, không chỉ xuất khẩu dịch vụ mà còn phát triển sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, mang thương hiệu Việt Nam.

Thứ ba, cần có cơ chế “một cửa” để kết nối giữa ngoại giao Nhà nước và ngoại giao doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong tham gia các chương trình hợp tác quốc tế, đồng thời đẩy nhanh quá trình tiếp nhận, ứng dụng công nghệ mới từ bên ngoài.

Ngoài ra, cũng rất cần những chính sách cụ thể hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Vai trò của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cũng rất quan trọng, họ chính là “rada quét sóng” tìm kiếm cơ hội hợp tác và kết nối cho doanh nghiệp Việt.

“Chúng ta nên chủ động tổ chức nhiều hơn các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam, để thu hút các nhà khoa học, chuyên gia công nghệ đến làm việc, hợp tác. Bởi chỉ khi thế giới biết nhiều hơn đến Việt Nam, thì doanh nghiệp Việt mới có thêm cơ hội bước ra và khẳng định mình”, ông Khoa nói.

Để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nước hợp tác công nghệ với Nhật Bản, Việt Nam cần quan tâm tới các chính sách như thúc đẩy nhiều hơn nữa cơ chế hợp tác đồng nghiên cứu giữa các viện trường và doanh nghiệp hai nước trong nhiều lĩnh vực trọng tâm và chiến lược của hai nước. 

Đại sứ Phạm Quang Hiệu

Còn đối với Đại sứ Phạm Quang Hiệu, để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nước hợp tác công nghệ với Nhật Bản, Việt Nam cần quan tâm tới các chính sách như thúc đẩy nhiều hơn nữa cơ chế hợp tác đồng nghiên cứu giữa các viện trường và doanh nghiệp hai nước trong nhiều lĩnh vực trọng tâm và chiến lược của hai nước. 

Trong đó cơ chế hợp tác thông qua Quỹ nghiên cứu đã được các nước trên thế giới triển khai hiệu quả và thành chuẩn mực quốc tế. Việt Nam cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cơ chế hợp tác và tăng kinh phí cho các Quỹ khoa học Việt Nam để hợp tác với Nhật Bản (như về số lượng dự án, quy mô, cách thức giải ngân kinh phí). 

Bên cạnh đó, cần rà soát các hợp tác song phương giữa Viện-trường-doanh nghiệp đã ký kết với Nhật Bản, lựa chọn các cặp đối tác ưu tiên, trọng tâm để thúc đẩy phát triển thành đối tác chiến lược, đầu tư kinh phí đủ lớn và trung hạn-dài hạn để các cặp đối tác chiến lượng có thể triển khai hoạt động (ra tấm ra món) có quy mô và mục tiêu dài hạn hơn, không chỉ dừng ở một hai dự án nhỏ, hoặc đào tạo một vài nhân lực trong thời gian ngắn. 

Hợp tác giữa NISSO, MRIV vàFPT hướng tới đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bán dẫn chất lượng cao. Chứng kiến buổi lễ có Thủ tướng Nhật Bản Ishiba Shigeru và Thủ tướng Phạm Minh Chính.

Hợp tác giữa NISSO, MRIV và FPT hướng tới đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bán dẫn chất lượng cao. Chứng kiến buổi lễ có Thủ tướng Nhật Bản Ishiba Shigeru và Thủ tướng Phạm Minh Chính.

Hợp tác giữa NISSO, MRIV và FPT hướng tới đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bán dẫn chất lượng cao. Chứng kiến buổi lễ có Thủ tướng Nhật Bản Ishiba Shigeru và Thủ tướng Phạm Minh Chính.

Cơ chế thử nghiệm sandbox đã được các nước phát triển, trong đó có Nhật Bản triển khai để các doanh nghiệp có thể thử nghiệm công nghệ mới. Việt Nam cũng đã có chủ trương xây dựng và triển khai cơ chế sandbox, cần nhanh chóng hoàn thiện và tham khảo kinh nghiệm của Nhật Bản, để có thể đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp hai nước trong việc thử nghiệm công nghệ mới tại Việt Nam và thậm chí doanh nghiệp Việt Nam có thể thử nghiệm công nghệ mới tại Nhật Bản theo chính sách thu hút phát triển công nghệ từ nước ngoài của Nhật Bản. 

“Các chính sách cơ chế khác cần có như cơ chế hợp tác công-tư trong các dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ chiến lược có sự điều phối, hỗ trợ của Nhà nước song song với việc hoàn thiện các chính sách về sở hữu trí tuệ, bảo đảm bản quyền, an ninh công nghệ khi hợp tác với Nhật Bản và các nước phát triển”, Đại sứ Phạm Quang Hiệu chia sẻ. 

Theo ông Nguyễn Văn Khoa, Tổng Giám đốc FPT, qua nhiều chuyến công tác, ông càng thấy rõ vai trò quan trọng của Bộ Ngoại giao, đặc biệt là Vụ Ngoại giao kinh tế, trong việc đồng hành cùng doanh nghiệp. Không chỉ kết nối, xúc tiến các cuộc gặp gỡ, kết nối doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp các nước mà còn tham gia sâu vào thiết kế chương trình, nội dung các cuộc gặp gỡ cũng như theo dõi sát sao việc hiện thực hóa nội dung của các cuộc trao đổi. 

“Chúng tôi luôn mong muốn Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục tăng cường hơn nữa vai trò đồng hành cùng doanh nghiệp. Thậm chí, chúng tôi cũng từng đề xuất với Bộ Ngoại giao phương án giao nhiệm vụ thúc đẩy phát triển ngoại giao kinh tế cho các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Không chỉ có Bộ Ngoại giao, mà các bộ, ngành khác như Bộ Tài chính (Bộ Kế hoạch và đầu tư trước đây) cũng hỗ trợ tháo gỡ vướng mắc thủ tục đầu tư ra nước ngoài bảo đảm doanh nghiệp tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về quản lý dòng vốn, kiểm soát và phòng chống những rủi ro pháp lý liên quan. Nhờ vậy, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ tự tin mở rộng hoạt động, mà còn có được sự bảo đảm từ phía Nhà nước, tạo nền tảng vững chắc cho hành trình hội nhập toàn cầu”, ông Khoa nói.

Tuy nhiên, theo ông Khoa, không nên xem ngoại giao kinh tế, ngoại giao công nghệ là nhiệm vụ của Nhà nước, của Bộ Ngoại giao mà còn là trách nhiệm của doanh nghiệp. Vai trò của Chính phủ là quan trọng nhưng doanh nghiệp cũng phải nỗ lực tham gia, phải đóng góp gấp đôi. Để ngoại giao công nghệ đi vào chiều sâu, yếu tố ngoại giao nhân dân vẫn rất quan trọng.

Chủ tịch FPT và huyền thoại công nghệ thông tin của Ấn Độ, ông Narayana Murthy đã có cuộc trò chuyện, giao lưu và hé lộ nhiều câu chuyện truyền cảm hứng tới giới công nghệ thông tin Việt Nam.

Chủ tịch FPT và huyền thoại công nghệ thông tin của Ấn Độ, ông Narayana Murthy đã có cuộc trò chuyện, giao lưu và hé lộ nhiều câu chuyện truyền cảm hứng tới giới công nghệ thông tin Việt Nam.

Ra nước ngoài, mỗi doanh nghiệp cần mang theo niềm tự hào dân tộc, tinh thần Việt Nam, đồng thời khắc phục điểm yếu cố hữu: chưa trở thành một cộng đồng mạnh. Khi đoàn kết, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thể tạo nên sức mạnh tập thể, qua đó nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh của mình trên đấu trường quốc tế. 

“Từ lâu chúng tôi đã kiên trì thực hiện nhiệm vụ “ngoại giao công nghệ” bằng cách mời lãnh đạo cấp cao nhất của đối tác, khách hàng tới Việt Nam với mục đích họ sang Việt Nam thăm rồi sẽ thêm yêu con người, đất nước, văn hóa Việt Nam, nhờ thế việc hợp tác diễn ra thuận lợi hơn. Mới đây nhất, chúng tôi vừa tổ chức mời một đoàn 400 khách hàng đối tác từ 20 quốc gia và vùng lãnh thổ tới Đà Nẵng để vừa tìm hiểu về công nghệ của Việt Nam vừa trải nghiệm văn hóa Việt để hiểu hơn về đất nước và con người Việt Nam”, ông Khoa chia sẻ.

Nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực AI trực tiếp chia sẻ và hiến kế cho thành phố Đà Nẵng tại hội thảo. (Ảnh: ANH ĐÀO)

Nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực AI trực tiếp chia sẻ và hiến kế cho thành phố Đà Nẵng tại hội thảo. (Ảnh: ANH ĐÀO)

Nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực AI trực tiếp chia sẻ và hiến kế cho thành phố Đà Nẵng tại hội thảo. (Ảnh: ANH ĐÀO)

Vai trò của Chính phủ là quan trọng nhưng doanh nghiệp cũng phải nỗ lực tham gia, phải đóng góp gấp đôi. Để ngoại giao công nghệ đi vào chiều sâu, yếu tố ngoại giao nhân dân vẫn rất quan trọng.

Với CT Group, định hướng phát triển hệ sinh thái các công nghệ chiến lược của tập đoàn được xác định rõ với 9 ngành công nghệ cao như: Bán dẫn, máy bay không người lái (UAV), trí tuệ nhân tạo, lượng tử, gene và tế bào, ô-tô điện-tàu điện, năng lượng mới, ESG tiền số xanh và 3 ngành truyền thống: đô thị thông minh; phát triển hạ tầng giao thông, kỹ thuật, kinh tế, xã hội và logistics xanh; thực phẩm sạch, chăm sóc sức khỏe.

Ông Trần Kim Chung, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn CT Group, Lãnh sự Danh dự Bồ Đào Nha, Phó Chủ tịch Hiệp hội Hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thành viên Hội đồng khoa học Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh cho biết, hiện CT Group đang tập trung mọi nguồn lực để chuẩn bị thật tốt cho việc sản xuất đơn hàng 5.000 máy bay cho Hàn Quốc. Trong tháng 9, CT Group cùng với đối tác Airbility sẽ thử một mẫu máy bay mới. Bên cạnh đó, doanh nghiệp này cũng đang ráo riết chuẩn bị cho thị trường Indonesia, Phillipines và xa hơn là Hoa Kỳ, Canada.

CÁC NGÀNH CỦA CT UAV

Ngoài xuất khẩu UAV thì CT Group có khá nhiều sản phẩm xuất khẩu khác trong lĩnh vực công nghệ cao. CT Group không chỉ xuất khẩu máy bay mà còn đang xuất khẩu các công nghệ rất hiện đại khác với quy mô rất lớn như LAE (Low Altitude Economy), NDT15 (National Digital Twin 15), CTI (CT Innovation 4.0) và công nghệ sinh học tái tạo. Ngoài ra, doanh nghiệp đang sắp hoàn thành nghiên cứu để triển khai xuất khẩu nhà robot xanh, không phát thải.

Từ thực tiễn "go global" của doanh nghiệp, đưa ra một số đề xuất với Chính phủ trong việc hỗ trợ doanh nghiệp phát triển công nghệ chiến lược, ông Trần Kim Chung cho biết, trong bối cảnh công nghệ đang tiến nhanh như vũ bão trên thế giới, việc “biến thể chế thành lợi thế” là chủ trương rất hay của Nghị quyết 57-NQ/TW mà mọi người cần hiểu và vận dụng cho tốt. Đây chính là “bí kíp” mà chúng ta có thể tiến nhanh hơn các nước khác. 

Trong bối cảnh công nghệ đang tiến nhanh như vũ bão trên thế giới, việc “biến thể chế thành lợi thế” là chủ trương rất hay của Nghị quyết 57-NQ/TW mà mọi người cần hiểu và vận dụng cho tốt.

Riêng về ngành UAV thì trước đây, các cơ quan ban ngành chưa có công cụ kỹ thuật để quản lý UAV nên phải chủ yêu quản lý bằng văn bản hành chính. CT Group đề xuất phối hợp Bộ Quốc phòng và Bộ Công an thành lập tổ liên ngành để rà soát, tháo gỡ các quy định cũ, nhằm khai thác tiềm năng kinh tế không gian tầm thấp, chính là một ngành kinh tế có quy mô dự kiến hàng trăm tỷ USD như mô hình Trung Quốc, đang phát triển cực lớn. "Chúng tôi đề xuất áp dụng SIM định danh cho UAV để quản lý bay bằng công nghệ thay vì thủ tục hành chính, đồng thời tạo nguồn thu từ đăng kiểm định kỳ", ông Chung bày tỏ.

Chủ tịch CT Group cũng mong Chính phủ sớm triển khai nền tảng Công nghệ NDT15 (Bản sao số quốc gia 15 lớp), đây chính là cây đũa thần kỳ để tăng tốc phát triển quốc gia và vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Nền tảng NDT15 có thể đem lại hơn 250 hiệu quả vượt trội cho mọi lĩnh vực, từ mô hình quy hoạch với đầy đủ dữ liệu và AI đến quản lý thành phố số, chính quyền số hay nền nông nghiệp thông minh.

Về nguồn tài chính, ông Kim Chung cho hay, đến nay, CT Group vẫn chưa được bất cứ hỗ trợ nào về nguồn vốn hay đất đai làm công nghệ. Vì thế, ông cho rằng, điều đơn giản nhất có thể làm ngay là hình thành mô hình bảo lãnh tỷ lệ 50/50 cho các công nghệ lõi đã được chọn cho một số doanh nghiệp điển hình.

Cũng như nhiều các doanh nghiệp công nghệ thông tin khác, Chủ tịch CT Group đề xuất cần có những chương trình quốc gia để xây dựng thương hiệu quốc gia, nhất là trong các ngành khoa học-công nghệ mà Việt Nam vẫn còn được xem là một quốc gia mới nổi.

"Làm sản phẩm công nghệ vốn đã khó, bán sản phẩm nông nghiệp còn khó hơn, nhưng với chip lại càng thách thức. Nhiều người chưa từng nghĩ Việt Nam có thể làm được chip, nhưng chúng tôi đã làm được và đã bắt đầu bán ra thị trường. Vì vậy, điều cần thiết trước hết là phải xây dựng thương hiệu quốc gia cho các sản phẩm công nghệ. Chúng tôi rất mong sớm có những chính sách nhằm nâng cao năng lực quốc gia trong việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm công nghệ và trong việc đưa sản phẩm công nghệ cao ra thị trường quốc tế. Bởi khi Việt Nam bước vào kỷ nguyên sản xuất công nghệ cao, nếu không chuẩn bị tốt hệ thống tiêu thụ toàn cầu, việc sản xuất nhiều sản phẩm công nghệ mà không xuất khẩu hiệu quả sẽ trở thành một thách thức lớn", ông Kim Chung giãi bày.

Nhiều người chưa từng nghĩ Việt Nam có thể làm được chip, nhưng chúng tôi đã làm được và đã bắt đầu bán ra thị trường.

Ông Trần Kim Chung
Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn CT Group

CT Group cũng bày tỏ mong muốn có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Công thương, Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan nhằm xây dựng năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ vươn ra thị trường quốc tế. Đây là một định hướng dài hạn, góp phần thực hiện hiệu quả Nghị quyết 57-NQ/TW, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có vị thế cao trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu.

Từ hợp tác quốc tế nâng lên tầm “liên minh kinh tế” về công nghệ

Các thành viên bấm nút ra mắt Liên minh AI Âu Lạc.

Các thành viên bấm nút ra mắt Liên minh AI Âu Lạc.

Theo bà Nguyễn Minh Hằng, Thứ trưởng Ngoại giao, công tác ngoại giao kinh tế đã đạt những bước tiến quan trọng, mang tính đột phá. Thành quả này là sự kết tinh của những yếu tố nền tảng, mang tầm vóc chiến lược. Đó là sự đổi mới tư duy sâu sắc, chỉ đạo quyết liệt của Đảng. Lần đầu tiên ngoại giao kinh tế được đưa thành một chủ trương trong văn kiện Đại hội Đảng. Ngoại giao kinh tế thực sự trở thành nội hàm then chốt trong tất cả các hoạt động đối ngoại, đặc biệt đối ngoại cấp cao. Trong nội hàm nâng cấp, nâng tầm quan hệ với các đối tác, kinh tế là ưu tiên hàng đầu và đạt những kết quả rất cụ thể, thiết thực, tạo ra thời cơ mới cho phát triển đất nước.

Bà Hằng cũng nhấn mạnh, nội hàm của ngoại giao kinh tế cũng sẽ không chỉ là xúc tiến thương mại, đầu tư, mà còn mở rộng sang các nội hàm mới, chuyên biệt hơn như ngoại giao khoa học công nghệ, ngoại giao xanh… Chúng ta có thể thấy vừa qua, trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Hàn Quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm, chúng ta đã có sự chuyển biến chiến lược từ hợp tác kinh tế sang liên kết kinh tế, qua đó mở ra những cơ hội mới trong tạo dựng, thu hút các nguồn lực.

Bà Nguyễn Minh Hằng giữ chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao
Nội hàm của ngoại giao kinh tế cũng sẽ không chỉ là xúc tiến thương mại, đầu tư, mà còn mở rộng sang các nội hàm mới, chuyên biệt hơn như ngoại giao khoa học công nghệ, ngoại giao xanh…
Bà Nguyễn Minh Hằng, Thứ trưởng Ngoại giao

Hợp tác quốc tế về khoa học-công nghệ ngày càng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực, gồm: khoa học tự nhiên (nâng cao trình độ khoa học, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững), khoa học xã hội-nhân văn (cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước), khoa học-công nghệ (nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh, phục vụ mục đích công cộng). 

Nếu như trước đây, các hoạt động hợp tác nghiên cứu dựa trên những lĩnh vực thế mạnh truyền thống của từng nước thì nay trong bối cảnh hợp tác, cạnh tranh phát triển khoa học, công nghệ trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cao. 

Hiện nay, thế giới có khoảng 10 quốc gia có năng lực nổi bật, với thế mạnh, vai trò dẫn dắt trong các lĩnh vực khác nhau: Hoa Kỳ (trí tuệ nhân tạo, công nghệ vũ trụ, sinh học, đám mây/lượng tử, an ninh mạng, bán dẫn); Trung Quốc (trí tuệ nhân tạo, 5G/6G, pin năng lượng sạch, đất hiếm, vũ trụ, bán dẫn); Nhật Bản (5G/6G, robot, vật liệu tiên tiến, thiết bị và hóa chất sản xuất bán dẫn, vũ trụ); Hàn Quốc (5G/6G, chip nhớ bán dẫn, robot, pin năng lượng, trí tuệ nhân tạo); Đức (robot/tự động hóa, vật liệu và pin, hạ tầng đám mây, hàng không - vũ trụ); Anh (trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, công nghệ sinh học); Pháp (hàng không - vũ trụ, hạt nhân, an ninh); Singapore (trí tuệ nhân tạo ứng dụng, trung tâm dữ liệu, đám mây, an ninh mạng, công nghệ tài chính); Israel (trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, y sinh); Canada (lượng tử, trí tuệ nhân tạo học sâu, vật liệu, công nghệ sinh học). 

Ngày 12/6/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 1131/QĐ-TTg ban hành danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược. Theo Quyết định số 1131/QĐ-TTg, Việt Nam có 11 nhóm công nghệ chiến lược và 35 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược. Việt Nam sẽ cần tập trung phát triển theo chiều sâu để tránh phân tán các nguồn lực, bám sát 11 nhóm công nghệ và 35 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược. 

Bộ Khoa học và Công nghệ hiện đang phối hợp với Bộ Ngoại giao xác định rõ danh sách một số quốc gia có thế mạnh đi đầu đối với các lĩnh vực công nghệ này. 

Theo ông Hoàng Hữu Hạnh, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế – Bộ Khoa học và Công nghệ, trong 11 nhóm công nghệ chiến lược, Bộ đặt ra hai mũi nhọn. Mũi nhọn thứ nhất là các công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và kinh tế số, bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây, dữ liệu lớn, mạng di động thế hệ sau (5G/6G), và an ninh mạng. Mũi nhọn thứ hai mà Bộ đang tập trung nghiên cứu là các lĩnh vực mà Việt Nam có tiềm năng, lợi thế cạnh tranh hoặc có ý nghĩa an ninh-kinh tế sống còn, như công nghệ chip bán dẫn, công nghệ y-sinh học tiên tiến, công nghệ năng lượng và vật liệu mới, cùng với công nghệ khai thác các tài nguyên chiến lược như đất hiếm và đại dương.

Từ góc nhìn của một doanh nghiệp có “thâm niên” 25 năm toàn cầu hóa, ông Nguyễn Văn Khoa, Tổng Giám đốc FPT cho biết, ngoại giao công nghệ đã bước lên một tầm cao mới, đó là “liên minh kinh tế”. Khi trở thành “liên minh kinh tế”, các đối tác sẽ sẵn sàng chia sẻ công nghệ, chuyển giao tri thức và đây là cách để chúng ta học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và nâng cao nội lực. Tất nhiên, “liên minh kinh tế” cũng đặt lên vai doanh nghiệp Việt một trách nhiệm lớn hơn, đó là phải có thực lực, có nhân lực, có khả năng tiếp nhận công nghệ, quản trị…. Đây chính là cơ hội vàng để doanh nghiệp công nghệ Việt Nam vươn lên, hội nhập và khẳng định mình trên bản đồ thế giới”. 

Ông Khoa cũng tin tưởng, ngoại giao công nghệ trong 5–10 năm tới sẽ có tác động trực tiếp đến vị thế quốc gia. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ đây phải là một mũi nhọn, một sứ mệnh quốc gia. Nghĩa là phải đầu tư, phải có ngân sách, phải gắn KPI để đo lường hiệu quả. Công nghệ không chỉ là phương tiện mà là nền tảng giúp Việt Nam đi nhanh hơn, xa hơn.

Tương lai của châu Á, Đông Nam Á và Việt Nam chính là trí tuệ nhân tạo và dữ liệu. Muốn tham gia, chúng ta cần nguồn nhân lực trẻ mà đây chính là lợi thế của Việt Nam.

Ông Nguyễn Văn Khoa
Tổng Giám đốc FPT

“Ngày đầu tiên FPT bước ra thế giới, chúng tôi đã chọn phần mềm để khẳng định năng lực Việt Nam và hôm nay chúng tôi tiếp tục mở rộng sang chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, công nghệ ô-tô số. Đó cũng chính là con đường để thúc đẩy kinh tế, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. 

Tương lai của châu Á, Đông Nam Á và Việt Nam chính là trí tuệ nhân tạo và dữ liệu. Muốn tham gia, chúng ta cần nguồn nhân lực trẻ mà đây chính là lợi thế của Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách đi theo hướng này. Năm 2045, khi đất nước tròn 100 năm, thế hệ sinh ra hôm nay sẽ bước vào thị trường lao động. Con đường cho họ phải được thiết kế từ bây giờ. Đó là tầm nhìn mà Tổng Bí thư đã chỉ ra rất đúng thời điểm và chúng ta phải dồn lực để thế hệ ấy trở thành lực lượng lao động công nghệ chất lượng cao cho toàn cầu.

Ngắn hạn, Viettel, FPT và một số doanh nghiệp đang góp sức để hiện thực hóa tầm nhìn này”, ông Khoa chia sẻ.

Theo ông Hoàng Hữu Hạnh, để thực hiện hiệu quả công tác ngoại giao công nghệ trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng các tiêu chí đánh giá, lựa chọn nhân sự cụ thể và kế hoạch đào tạo, tập huấn rõ ràng để xây dựng đội ngũ nguồn lực nhân sự ngoại giao công nghệ chuyên nghiệp, có tính liên ngành, có năng lực và hiểu biết kỹ công nghệ và nắm rõ chiến lược phát triển công nghệ của quốc gia, khả năng thương thuyết và đàm phán. 

Vì thế, về nhân sự cốt lõi, đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, cần phải nâng cao năng lực cán bộ hiểu biết về công nghệ chiến lược (trí tuệ nhân tạo, bán dẫn….), có kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu và triển khai xúc tiến R&D, thu hút trung tâm công nghệ; chuyên gia về xây dựng chính sách và pháp chế am hiểu luật sở hữu trí tuệ, kiểm soát xuất khẩu-nhập khẩu, thẩm định và giám định công nghệ; có kinh nghiệm kết nối hợp tác giữa viện/trường và đối tác nước ngoài để triển khai dự án nghiên cứu chung; có kinh nghiệm quản lý dự án hợp tác công nghệ hoặc nghiên cứu chung với nước ngoài.

Cơ hội để sinh viên ngành công nghệ thực tập tại Viettel

Sinh viên xuất sắc được Viettel mời làm việc tạo tập đoàn.

Sinh viên xuất sắc được Viettel mời làm việc tạo tập đoàn.

Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cần kết hợp tuyển từ ngoại giao truyền thống và tuyển đặc thù từ các đơn vị của Bộ Khoa học và Công nghệ, các trường đại học/viện nghiên cứu; đào tạo cấp tốc về kỹ thuật cơ bản, sở hữu trí tuệ, thương thảo quốc tế, thẩm định, giám định công nghệ, an ninh công nghệ. 

Và để thu hút nhân tài khoa học, công nghệ, cần có chính sách khuyến khích bao gồm mức đãi ngộ cạnh tranh, phụ cấp công tác nước ngoài.

Bộ Khoa học và Công nghệ hiện đang có 23 Văn phòng đại diện Khoa học và Công nghệ của Bộ tại 19 quốc gia, Văn phòng đại diện Khoa học và Công nghệ chính là cánh tay nối dài của Bộ Khoa học và Công nghệ, là cầu nối chiến lược giữa hệ thống nghiên cứu, đổi mới của Việt Nam và hệ sinh thái công nghệ toàn cầu. 

Các Văn phòng đại diện Khoa học và Công nghệ vừa làm nhiệm vụ ngoại giao kỹ thuật, vừa khảo sát và thăm dò thị trường, tìm kiếm và hỗ trợ chuyển giao công nghệ và thu hút nguồn lực, góp phần trực tiếp nâng cao năng lực nội sinh và vị thế quốc gia.

Trương
Gia
Bình

"Đã làm ngoại giao công nghệ, thì chúng ta phải đi học tiếng bản địa".

Chủ tịch FPT

Theo Chủ tịch FPT Trương Gia Bình, nếu xét một quốc gia nào là đối tác công nghệ cùng tạo dựng tương lai thì chúng ta phải bàn rất kỹ về mục tiêu của hai quốc gia, của hệ thống giáo dục, các doanh nghiệp và của cả cộng đồng nhân dân. 

Theo đó, đã làm ngoại giao công nghệ, thì chúng ta phải đi học tiếng bản địa. Hai quốc gia phải đóng vai trò như người “mai mối” để các doanh nghiệp 2 nước kết nối được với nhau. Và một điều rất quan trọng, chúng ta phải chú trọng đào tạo nguồn nhân lực. Vì thế, Chủ tịch FPT nhấn mạnh đến việc phân tích thị trường lao động ở một số quốc gia để có chiến lược đào tạo phù hợp, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao ở quy mô lớn cho thị trường công nghệ thế giới. 

Chủ tịch FPT nhấn mạnh đến việc phân tích thị trường lao động ở một số quốc gia để có chiến lược đào tạo phù hợp, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao ở quy mô lớn cho thị trường công nghệ thế giới. 

Thứ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Minh Hằng nhấn mạnh, một trong những giải pháp thúc đẩy ngoại giao kinh tế tới đây, chính là thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, nhất là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh “Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là đột phá chiến lược, là động lực chủ yếu thúc đẩy hiện đại hóa đất nước, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững”.

“Ưu tiên hàng đầu là triển khai quyết liệt, hiệu quả ngoại giao khoa học công nghệ, với trọng tâm là: Xây dựng và thực hiện chiến lược hợp tác quốc tế về công nghệ chiến lược; thu hút các chuyên gia, tri thức người Việt Nam ở nước ngoài cùng đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước; và xây dựng mạng lưới đối tác khoa học công nghệ toàn cầu”, Thứ trưởng nói.

Ngày xuất bản: 5/9/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG VÂN
Nội dung: THIÊN LAM - KHÁNH LAN - TỪ ANH TUẤN
Trình bày: NGỌC DIỆP
Ảnh: FPT, Viettel, CT Group