Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

 

Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

"Thế hệ trí thức vàng Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo".

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

Hoàng Đạo Thúy sinh năm 1900 tại nhà số nhà 7 phố Hàng Đào (Hoàn Kiếm, Hà Nội).
Năm 1931, Hoàng Đạo Thúy thành lập Ấu đoàn Việt Nam đầu tiên lấy tên là đoàn Lê Lợi.
Năm 1933, Huynh trưởng Hoàng Đạo Thúy đổi lại danh xưng là Hướng đạo sinh.
Ngày 9/9/1945, ông được giao trách nhiệm tổ chức hệ thống thông tin quân sự với cương vị là Trưởng phòng Thông tin liên lạc đầu tiên, đồng thời là Ủy viên Ban Quân sự toàn quốc.
Ngày 25/3/1946, ông được phân công làm Cục trưởng Chính trị, giữ chức vụ này đến ngày 24/4/1946 thì được giao nhiệm vụ phụ trách xây dựng Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.
Năm 1948, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời và bổ nhiệm giữ vai trò Tổng Thư ký đầu tiên của Phong trào thi đua toàn quốc.
Hoàng Đạo Thúy được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng nhất và Huân chương Chiến thắng hạng nhất.

Trong những ngày sục sôi không khí khởi nghĩa ở Hà Nội, thanh niên Hướng đạo sinh hăng hái tiên phong trong các hoạt động ủng hộ Việt Minh. Các cuộc mít tinh ngày 17 và 19/8/1945 trước Nhà hát lớn, thanh niên Hướng đạo sinh đã được tập dượt “mang sức trai gánh vác sơn hà” trong phong trào Hướng đạo của Huynh trưởng Hoàng Đạo Thúy đều phấn khích góp tay.

Vị Huynh trưởng mẫu mực đầy kính trọng và thương yêu

Năm 1929, Hoàng Đạo Thúy giới thiệu phương pháp giáo dục Hướng đạo qua một tập sách mỏng. Ông kể lại: “Tôi đến tuổi 30, vẫn chưa tìm được việc gì làm. Nghề là giáo viên. Tự nhiên mà nghĩ đến giáo dục. Điều lệ hội Eclaireurs có lời hứa: Một là “Trung thành với Tổ Quốc”. Tôi mới dịch chữ “Eclaireurs” và “Scouts” ra chữ “Hướng đạo sinh”, viết một tập sách nhỏ, tên là “Hướng đạo sinh”.

Năm 1931, Hoàng Đạo Thúy thành lập Ấu đoàn Việt Nam đầu tiên lấy tên là đoàn Lê Lợi. Một “đàn em” cũng là bạn đồng chí của ông là bác sĩ Trần Duy Hưng cũng lập Thiếu đoàn Hùng Vương, tổ chức và sinh hoạt theo mô hình của Hướng đạo sinh Pháp. Lúc đầu, các tổ chức hướng đạo Việt Nam đầu tiên dùng danh xưng là Đồng tử quân theo cách gọi từ Trung Quốc. Năm 1933, Huynh trưởng Hoàng Đạo Thúy đổi lại danh xưng là Hướng đạo sinh, chọn áo sơ mi màu nâu, quần sooc màu xanh nước biển là đồng phục. Hội Hướng đạo Việt Nam được thành lập và ban quản trị họp lần đầu ở trụ sở Hội Trí Tri, trên phố Hàng Quạt. Hoàng Đạo Thúy trở thành Huynh trưởng của thế hệ Scout đầu tiên ở Đông Dương. Các thanh niên trí thức thời đó đều kính trọng và yêu quý “Anh Thúy”.

Hoàng Đạo Thúy (ngồi ngoài cùng bên phải) cùng Hội đồng Chính phủ ở Việt Bắc năm 1948.

Hoàng Đạo Thúy (ngồi ngoài cùng bên phải) cùng Hội đồng Chính phủ ở Việt Bắc năm 1948.

“Thời đó (những năm 1920 - 1940), rất nhiều thanh niên theo thời và chơi. Nhưng cũng còn rất nhiều người tìm tòi, hay ngơ ngác. Đoàn Hướng Đạo bắt đầu chỉ là một chuyện mới, rồi các em nhỏ được chơi thỏa thích, được rèn lúc nào không biết, được làm những chuyện đối với các em có thể là phi thường, nói “bí mật” với nhau, được kéo cờ, hô yêu nước… rồi trở thành những em sẵn sàng giúp người, không ngại lao động, không tham lam. Sau đến một số học sinh lớn, các sinh viên, khát khao một lý tưởng, muốn được ai chỉ cho hướng đi. Các anh ấy cũng tìm đến Hướng đạo. Đó là như các anh Phạm Biểu Tâm, Lưu Hữu Phước, Tôn Thất Tùng, Vũ Văn Cẩn, Dương Đức Hiền…  Rồi còn những anh đã biết được nhiều hay ít về cách mạng, thấy Hướng đạo đông cũng vào để rủ người theo cách mạng”
Hồi ký của Hoàng Đạo Thúy

Khoảng từ năm 1935, phong trào Hướng đạo lan ra rất mạnh, đến cả Lào và Cao Miên. Đồng bào đều biết và thương mến anh em Hướng đạo sinh, làm gì cũng được ủng hộ. Nhiều gia đình khuyến khích con em vào Hội Hướng đạo, từ “sói con” thành “sói” rồi thành “tráng” khi đứng trong đội ngũ những người khởi nghĩa giành lại độc lập dân tộc mùa thu năm 1945…

Cũng năm 1935, phong trào Hướng đạo lan đến Huế, Hoàng Đạo Thúy vào Huế gặp và mời Tạ Quang Bửu vào đoàn Hướng đạo. Mối tình thâm giao của hai người bắt đầu từ việc cùng chung lý tưởng phấn đấu.

Khoảng năm 1938, nhiều sinh viên, thanh niên thấy mình cần theo lý tưởng đã tìm đến với Hướng đạo. Tiêu biểu là Nguyễn Thương, Dương Đức Hiền, Huỳnh Hữu Điếu, Huỳnh Văn Diêu, Tôn Thất Hoàng, Phạm Biểu Tâm, Tôn Thất Tùng, Bửu Lư, Nguyễn Sỹ Đình, Vũ Văn Cẩn... Còn cả khối 17 sinh viên trưởng Y củng rủ nhau vào Hướng đạo... Cùng giai đoạn này, Hoàng Đạo Thúy còn tham gia hoạt động trong phong trào Truyền bá Quốc ngữ, phong trào Cứu tế xã hội ở miền bắc, Hội viên Hội Tân Việt Nam...

Năm 1941, tình hình thế giới đã nhiều thay đổi, Hoàng Đạo Thúy điện mời Tạ Quang Bửu ra Hoa Lư, “lên núi Yên Ngựa bàn với nhau về tương lai của phong trào và dự kiến cách làm việc của anh em mỗi xứ”. Từ miền nam, Kha Vạng Cân cũng ra Bạch Mã gặp Hoàng Đạo Thúy để bàn công việc, “ai cũng một ý chung”. Phong trào ca nhạc kêu gọi tự hào dân tộc, kêu gọi tinh thần yêu nước trong Hướng đạo sinh lên cao. Hoàng Quí viết Trên sông Bạch Đằng, Lưu Hữu Phước viết: Bạch Đằng giang, Tiếng gọi thanh niên, rồi Lên đàng, Văn Cao viết Hành quân ca”...

Năm 1943, ở châu Âu, Pháp đã thua phát xít Đức. Ở Đông Dương thì Chính quyền thực dân làm bù nhìn cho Nhật. Trong cuộc diễu hành của Hướng đạo sinh ở sân vận động Cột Cờ (Hà Nội) ngày 1/5/1943 - ngảy hội Jeanne D’arc, một biểu tượng bất khuất của nước Pháp, viên Tổng ủy viên Thể thao và Thanh niên Đông Dương người Pháp Ducoroy muốn bắt thanh niên Hướng đạo phải đập ngực, vung tay chào theo kiểu Quốc xã. Huynh trưởng Hoàng Đạo Thúy dặn tất cả Hướng đạo sinh Việt và Pháp đều chào kiểu Hướng đạo - đặt ba ngón tay, giữ nguyên trên ngực.

Sự “kháng lệnh” này đã khiến Ducoroy rất tức tối. Giới cầm quyền Pháp e ngại ảnh hưởng của Hội Hướng đạo và người “cầm đầu” - Huynh trưởng Hoàng Đạo Thúy, nên tìm cách tách ông ra khỏi phong trào, mời ông làm Phó Tổng ủy Thanh niên Đông Dương lại mời đi làm việc khác, lương cao hơn tới năm lần nhưng ông từ chối.

Năm 1943, Hoàng Đạo Thúy đặt câu hỏi với thanh niên qua cuốn sách mỏng “Trai nước Nam làm gì?”. Và ông đưa ra câu trả lời: “Việc quan trọng của một đời ta không phải là ở chỗ nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn.

Nếu chúng ta tìm được một việc mà làm, một tôn chỉ mà theo, một mục đích mà đi tới, thì cái đời chúng ta có ý nghĩa, cái đời đáng sống. Như thế trên đời này, ngửa không thẹn với giời, cúi không thẹn với đất, mở mắt nhìn người không phải cúi đầu. Chúng ta để hết lòng, hết chí, ta làm việc ta, rồi ngày mai, hay một hôm nào đó, chết, ta có thể chết mà vẫn mỉm cười một cách thỏa mãn, chết không còn nuối tiếc gì nữa.

Sống đã có nghĩa thì rồi chết cũng có nghĩa”.

Năm 1944, Hoàng Đạo Thúy viết tác phẩm “Nghề thầy” gói trọn tâm huyết của ông về việc giáo dục, không chỉ với người đứng trên lớp học mà là cả với các bậc cha mẹ, với cả xã hội. Ông tâm sự với các Tráng sinh: “Chúng ta mà muốn, thì chúng ta có thể đổi hẳn tương lai nòi giống. Chỉ mười năm, phải, mỗi người chỉ tận tụy mười năm, là một thế hệ thanh niên sẽ đổi khác. Huống hồ đời giáo dục của chúng ta ba mươi năm, hay hơn nữa. Đó không phải là mơ mộng. Sự thực ai cũng làm được, mà ai cũng phải làm mới được.

Chúng ta đã không quản gì đồng lương, không nhìn đến chỗ ngồi. Trong trường tiến thủ đã chỉ tranh lấy một địa vị lạnh nhạt nhất, nhưng có ích nhất. Bước vào giáo giới là chúng ta đã có mục đích: không phải đi làm để kiếm ăn thôi, không phải chỉ đi làm công Chúng ta ‘làm thầy”.

Gia đình Hoàng Đạo Thúy ở Việt Bắc.

Gia đình Hoàng Đạo Thúy ở Việt Bắc.

Tháng 6/1945, được tổ chức bố trí, Hoàng Đạo Thúy tìm đường lên chiến Chiến khu Việt Bắc. Ngày 16/8/1945, ông dự Quốc dân đại hội Tân Trào. Ông kể: “Ngày 16/8, tất cả ra họp ở gốc đa để tiễn quân đội đi giải phóng Thái Nguyên. Cờ đỏ sao vàng kéo lên… Nhìn đoàn quân, thấy bao nhiêu anh em Hướng Đạo thân quen. Anh Thao, tráng sinh Bưởi vừa lên, đã nhập đoàn quân. Anh Lê Văn Chánh, bác sĩ, Hướng đạo, đeo bộ đồ mổ đi theo”. Sau đó các đại biểu quốc dân họp ở đình Tân Trào. Huynh trưởng Hoàng Đạo Thúy phát biểu về thanh niên. Ngày 17, sau bữa cơm "liên hoan đoàn kết" bế mạc Đại hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị: “Đồng chí Thúy này. Vui thế này, đồng chí tổ chức một cuộc “chơi nhỏ” cho tất cả chúng tôi chơi đi!”.

Hoàng Đạo Thúy vui vẻ chấp hành ”mệnh lệnh” đó của vị Chủ tịch. Huynh trưởng điều khiển một trò chơi nhẹ nhàng của Hướng Đạo sinh. Các đại biểu không kể tuổi tác, thành phần và cả Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng vui vẻ tham gia.

Cũng những ngày đó, ở Hà Nội, giữa không khí sục sôi khởi nghĩa, thanh niên Hướng đạo sinh hăng hái tiên phong hành động. Các ngày 17 và 19/8/1945, thanh niên Hướng đạo sinh đều nhiệt tình dự mít tinh ở quảng trường Nhà hát lớn. Trưa ngày 19/8, đoàn người đông đảo kéo đến chiếm Bắc Bộ Phủ “thì mấy đợt đi đầu, toàn mũ nhọn” – chiếc mũ đặc trưng trong đồng phục của Hướng đạo sinh.

Ngày 16/11/1945 các ủy viên và huynh trưởng toàn quốc họp, lập Hội Hướng đạo Việt Nam (mới) và tổ chức “Trại Độc lập” mừng nước nhà tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự trại trong hai giờ không như dự định ban đầu chỉ đến 10 phút. Sau này, các ông Tạ Quang Bửu và Trần Duy Hưng mời Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch danh dự của Hội Hướng đạo Việt Nam. Người đã vui vẻ nhận lời bằng công văn phúc đáp ngày 31/5/1946 gửi Chủ tịch Hội.

Ngày 16/11/1945 các ủy viên và huynh trưởng toàn quốc họp, lập Hội Hướng đạo Việt Nam (mới) và tổ chức “Trại Độc lập” mừng nước nhà tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự trại trong hai giờ không như dự định ban đầu chỉ đến 10 phút. Sau này, các ông Tạ Quang Bửu và Trần Duy Hưng mời Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch danh dự của Hội Hướng đạo Việt Nam. Người đã vui vẻ nhận lời bằng công văn phúc đáp ngày 31/5/1946 gửi Chủ tịch Hội.

Người ”anh cả” của bộ đội Thông tin

Ông kể lại trong Hồi ký cảm xúc khi đồng chí Võ Nguyên Giáp gặp và giao nhiệm vụ phải tổ chức thật sớm mạng liên lạc riêng cho quân đội: “Tôi nhận nhiệm vụ ngay, không chần chừ chút nào, cũng quên chẳng hỏi đồ đạc máy móc được trao cho là những gì. Mà thế là phải, vì hồi ấy mà đặt câu hỏi như vậy thì ngớ ngẩn quá đi mất. Chỉ xin đoàn thể cho thêm vài đồng chí để cùng làm”.

Hoàng Đạo Thúy trong một buổi gặp mặt các cán bộ Cục Quân huấn.

Hoàng Đạo Thúy trong một buổi gặp mặt các cán bộ Cục Quân huấn.

Trưởng phòng Hoàng Đạo Thúy vừa phải lo tổ chức lực lượng, vừa phải tìm kiếm phương tiện, máy móc, sử dụng các cơ sở liên lạc ta thu được, cải tiến cho phù hợp để phục vụ ngay cho nhiệm vụ quân sự góp phần bảo đảm thông tin liên lạc cho Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy những năm đầu gian nan.

Ông không chỉ chăm lo đào tạo, tuyển lựa cán bộ, nhân viên mà còn sử dụng một số cựu binh sĩ yêu nước, có tinh thần cách mạng, từng làm hiệu thính viên do Pháp đào tạo. Khi Phòng Thông tin liên lạc được nâng cấp lên Cục, ông vẫn là Cục trưởng đầu tiên. Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày 6/1/1946, Hoàng Đạo Thúy trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa 1 đại diện khu vực tỉnh Thái Bình.

Chân dung Hoàng Đạo Thúy do nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh chụp.

Chân dung Hoàng Đạo Thúy do nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh chụp.

Anh đã dành những năm tháng trong cuộc đời trong sáng và thanh bạch của mình cho sự nghiệp cách mạng của quân đội, của nhân dân, của Đảng. Thương yêu đồng chí và đồng đội, gần gũi bạn bè, hết lòng dìu dắt thế hệ trẻ, anh đã hoàn thành sứ mạng trên mọi cương vị…
Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cờ "Trung với nước, Hiếu với dân" cho trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cờ "Trung với nước, Hiếu với dân" cho trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.

Ngày 25/3/1946, ông được phân công làm Cục trưởng Chính trị, giữ chức vụ này đến ngày 24/4/1946 thì được giao nhiệm vụ phụ trách xây dựng Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn được thành lập ngày 17/4/1946, Giám đốc là Hoàng Đạo Thúy, Phó Giám đốc là Trần Tử Bình. Ngày 26/5/1946, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng khóa đầu tiên tại Sơn Tây. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự khai giảng và có bài nói chuyện với các cán bộ, học viên. Giám đốc Hoàng Đạo Thúy đã chuẩn bị lá cờ thêu 6 chữ “Trung với Nước Hiếu với Dân” để Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng trao cho trường, cũng là trao tâm nguyện nhân dân gửi gắm tới Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ông Hoàng Đạo Thúy đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. (Ảnh tư liệu)

Ông Hoàng Đạo Thúy đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. (Ảnh tư liệu)

Năm 1948, ông được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Giao thông công binh rồi Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu. Cũng trong năm này, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời và bổ nhiệm giữ vai trò Tổng Thư ký đầu tiên của Phong trào thi đua toàn quốc.

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Hoàng Đạo Thúy đề nghị ông làm Tổng thư ký cho Ban Vận động Thi đua ái quốc Trung ương:
“Gửi ông Hoàng Đạo Thúy.
Lão đồng chí,
Nay có một việc rất quan trọng, cần một người có sáng kiến, nhiều kinh nghiệm, và tính xốc vác. Tức là việc làm Tổng Bí thư cho Ban Thi đua Trung ương.
Tôi muốn nhờ đồng chí phụ trách việc ấy. Chắc đồng chí sẽ không từ chối. Vẫn biết bên Quốc phòng và Tổng chỉ huy cũng cần đồng chí giúp. Song nếu đồng chí bằng lòng, thì tôi sẽ tìm cách dàn xếp.
Chào thân ái và quyết thắng. 
Tháng 6/1948

Cuối năm 1949, ông trở lại quân đội là Cục trưởng Cục Thông tin liên lạc. Ông đặc biệt quan tâm đào tạo cán bộ, huấn luyện nhân lực làm kỹ thuật vô tuyến, hữu tuyến. Ông tự viết tài liệu về nguyên tắc tổ chức Thông tin liên lạc trong chiến đấu, đưa ra giảng dạy, thu thập ý kiến từ thực tiễn chiến đấu để chỉnh lý cho phù hợp. Trong Chiến địch Điện Biên Phủ, Hoàng Đạo Thúy giữ trách nhiệm Chủ nhiệm Thông tin. Ngày nay lên thăm Di tích Sở chỉ huy Mường Phăng có thể thấy căn nhà/hầm của Chủ nhiệm Thông tin Hoàng Đạo Thúy gần sát nhà/hầm của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái.

Hoàng Đạo Thúy trong Chiến dịch biên giới.

Hoàng Đạo Thúy trong Chiến dịch biên giới.

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Cục trưởng Hoàng Đạo Thúy tiếp tục chỉ đạo xây dựng hệ thống thông tin liên lạc quân sự chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong quản lý cán bộ, nhân viên, ông luôn lấy tri thức và tình cảm con người để đối đãi, giao việc đúng người, truyền cảm sự tin cậy cho họ. Bằng uy tín và khả năng, Hoàng Đạo Thúy đã xây dựng nền móng cho hệ thống thông tin liên lạc quân sự. Ông là người thầy, người anh cả của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá về Hoàng Đạo Thúy: “Anh đã dành những năm tháng trong cuộc đời trong sáng và thanh bạch của mình cho sự nghiệp cách mạng của quân đội, của nhân dân, của Đảng. Thương yêu đồng chí và đồng đội, gần gũi bạn bè, hết lòng dìu dắt thế hệ trẻ, anh đã hoàn thành sứ mạng trên mọi cương vị…”. Hoàng Đạo Thúy được coi như người “anh cả” của Bộ đội Thông tin.

Không để lại gì ngoài danh thơm

Là cán bộ cao cấp, nhưng khi về nghỉ hưu, Hoàng Đạo Thúy nhất định trả lại biệt thự cho Nhà nước. Ông về lại làng Đại Yên, sống trong ngôi nhà ba gian lợp lá gồi vì thích ở nhà lá nhẹ nhàng mà thoáng mát. Dưới mái lá đó, gần 18 năm ông chăm sóc cụ bà và viết sách. Sợ ngồi ở bàn xa, ông ngồi bên cạnh giường người bệnh, kê một tờ bìa cứng lên đùi để viết. Hầu hết những cuốn sách nổi tiếng về Hà Nội, về đất nước Việt Nam đã được nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy viết ra như thế.

 Nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy là tác giả của nhiều tác phẩm:
· Hướng đạo sinh (1929)
· Bác Hai Bền (1941)
· Trai nước Nam làm gì? (1943)
· Nghề thầy (1944) 
· Những ngày hè vui khỏe
· Thi đua ái quốc (1948)
· Thông tin liên lạc sơ lược (1948)
· Ông cha ta đánh giặc như thế nào? (1959)
· Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội (1969)
·  Phố phường Hà Nội xưa (1974)
·  Đi thăm đất nước (1978)
·  Đất nước ta (1980, cùng viết)
·  Người và cảnh Hà Nội (1982)
·  Lên đường hạnh phúc (1985)
· Hà Nội thanh lịch (1996, xuất bản sau khi ông qua đời).

         

Nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy có cuộc sống đơn sơ. Ông thích ăn cơm với rau, đậu, uống trà nụ, mặc áo quần sợi bông, ghét đồ sợi tổng hộp. Có chiếc thắt lưng da cũ bị đứt, ông tự tay khâu lại bằng chỉ gai. Tiền giải thưởng và nhuận bút, ông để dành cho người nghèo hoặc gửi cho Hội Người mù vì ông vẫn nói: “Trong các người thương tật, người mù là khổ nhất”.

Sáng ngày mùng 5 đầu Xuân Giáp Tuất (1994), ở tuổi 95, Hoàng Đạo Thúy ngồi vào chiếc ghế mây quen thuộc và nhẹ nhàng, thanh thản ra đi vào cõi vĩnh hằng. Ông không làm thơ, nhưng trước đó một năm lại viết mấy câu, như tiên tri về phút ra đi của mình:

“Gió thoảng, trăng trong, buổi mát trời,

Ngủ quên, không dậy, việc thường thôi.

… Cái chính chỉ là một lời dặn:

“Giữ lòng trung hậu ở trên đời”.

Cả cuộc đời Hoàng Đạo Thúy không có gia tài để lại cho con cháu ngoài danh thơm, và lời căn dặn trong bức di thư cuối cùng được tìm thấy gần một tháng sau ngày ông mất: “Cả cuộc đời của bố mẹ là một lời dặn các con và các cháu chữ “trung, hậu”. Trung với nước, với công việc. Hậu với bà con, với đồng bào. Các con, các cháu giữ nếp trung hậu sẽ có được hạnh phúc và thắng lợi…”

 Hoàng Đạo Thúy được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng nhất và Huân chương Chiến thắng hạng nhất. Năm 2005 tên của ông được đặt cho một phố, nay thuộc phường Yên Hòa (Hà Nội). Tên ông còn được đặt cho đường phố ở nhiều nơi: Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Pleiku và đặc biệt, trong dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 - 2024, tên Hoàng Đạo Thúy đã được đặt cho một con đường tại Điện Biên Phủ.

 

Dù đã nêu ý nguyện muốn về quê yên nghỉ, nhưng sau đó ông lại được đưa lên an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch. Trên bia ngôi mộ chỉ ghi: “Hoàng Đạo Thúy 1900 - 1994”. Và như ông nói: “Tên cũng đã bao hàm Sự nghiệp” - hậu thế nhắc đến một cái tên - Hoàng Đạo Thúy, cũng là nhắc/nhớ đến nhân cách và sự nghiệp của con người đã mang tên đó mà ung dung sống giữa đời vạn biến

Ngày xuất bản: 8/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - HỒNG VÂN
Thực hiện: VƯƠNG ANH - TUYẾT LOAN
Trình bày: NGỌC DIỆP - LINH KHÁNH
Ảnh:
Tư liệu gia đình

E-Magazine I nhandan.vn