TS Đoàn Mạnh Cương, Chuyên gia cao cấp Văn phòng Quốc hội

Khai thác hiệu quả, hướng tới phát triển bền vững

Việt Nam được đánh giá là một trong 10 quốc gia có mức tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới. Hiệu quả kinh tế-xã hội của hoạt động du lịch ngày càng rõ nét, góp phần tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác phát triển. Trong đó, việc khai thác giá trị di sản là hướng phát triển du lịch bền vững trong tương lai. Thực tiễn cho thấy, du lịch chính là phương thức, là con đường mà nhiều quốc gia đang lựa chọn nhằm biến các giá trị di sản văn hóa trở thành tài sản, tạo động lực phát triển mạnh mẽ - TS Đoàn Mạnh Cương, Chuyên gia cao cấp Văn phòng Quốc hội khẳng định.

Khi thế giới đã phẳng, sự khác biệt giữa các quốc gia chính là ở văn hóa

Dưới góc nhìn của một chuyên gia đã có nhiều năm nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực du lịch, ông nghĩ sao về vai trò của di sản trong lộ trình phát triển du lịch?

Theo định nghĩa của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), di sản văn hóa là các hiện vật vật thể và các thuộc tính phi vật thể của một nhóm, tổ chức hay xã hội được kế thừa từ các thế hệ trước, đã duy trì đến hiện nay và dành tặng cho các thế hệ mai sau. Di sản văn hóa bao gồm tài sản văn hóa (như các tòa nhà, cảnh quan, di tích, sách, tác phẩm nghệ thuật và các hiện vật), văn hóa phi vật thể (như văn hóa dân gian, truyền thống, ngôn ngữ và kiến thức) và di sản tự nhiên (bao gồm cảnh quan có tính văn hóa quan trọng và đa dạng sinh học).

Di sản nói chung và di sản văn hóa nói riêng là tài sản quý báu mang đậm nét đặc trưng của từng quốc gia, từng dân tộc. Di sản văn hóa ngày càng chứng minh vai trò quan trọng trong phát triển, là nguồn lực, là tài sản “hữu hình” và “vô hình” giúp tăng trưởng kinh tế và là điểm tựa cho đời sống tinh thần của con người.
Loại hình du lịch di sản mà chúng ta đang đề cập tới là hoạt động có từ lâu đời, hấp dẫn và cuốn hút, không chỉ đối với các cá nhân, doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch mà còn là một trong những chiến lược và mục tiêu lâu dài nhằm phát triển kinh tế - xã hội bền vững được nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn.

Việt Nam được đánh giá là quốc gia giàu tài nguyên di sản, có nhiều tiềm năng phát triển du lịch di sản. Nhưng để có được lợi thế cạnh tranh bằng những sản phẩm độc đáo, chúng ta cần phải làm gì?

Xét về bản chất, động cơ và mục đích đi du lịch của du khách đều bắt đầu từ sản phẩm du lịch độc đáo, đặc biệt gắn với giá trị văn hóa bản địa. Khi thế giới đã phẳng, sự khác biệt giữa các quốc gia chính là ở văn hóa. Đặc trưng văn hóa bản địa được xem là giá trị riêng có tạo nên sản phẩm du lịch của điểm đến. Bên cạnh đó, sự tham gia của cộng đồng địa phương - chủ thể của văn hóa bản địa là điều kiện cần để phát triển sản phẩm và là yếu tố quan trọng tạo nên hành trình trải nghiệm của du khách.

Mỗi một địa phương, điểm đến, di tích, lễ hội… đều chứa đựng trong đó những “câu chuyện” gắn liền với những giá trị di sản văn hóa khác biệt, điều quan trọng là cần biết “thổi hồn” cho chúng bằng những trải nghiệm hấp dẫn, thú vị đến với du khách. Nếu chỉ dựa vào tài năng, tâm huyết của những người làm du lịch thì chưa đủ. Bởi lẽ, nếu thuyết minh sai, truyền tải không chính xác thông tin thì “câu chuyện” văn hóa đó rất dễ trở thành sản phẩm lỗi, phản cảm.

Do đó, để có được những sản phẩm du lịch di sản đủ sức lôi cuốn dựa trên khai thác yếu tố văn hóa bản địa, đòi hỏi phải có sự đầu tư, nghiên cứu và vận hành bài bản, với sự vào cuộc của chính quyền, cơ quan quản lý điểm đến, cộng đồng địa phương, các chuyên gia văn hóa lịch sử và đặc biệt là những người làm du lịch. Để từ đó có sự hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan nhằm bảo đảm phát triển sản phẩm du lịch di sản ấn tượng, đặc sắc, hấp dẫn và bền vững.

Trình diễn hát xoan - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại đình Hùng Lô (Phú Thọ). Ảnh: Huyền Nga

Trình diễn hát xoan - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại đình Hùng Lô (Phú Thọ). Ảnh: Huyền Nga

Ứng dụng chuyển đổi số là vô cùng cần thiết

Giai đoạn hiện nay, ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số trong công tác bảo tồn, khai thác và quảng bá di sản là hết sức cần thiết để tạo đà phát triển du lịch di sản. Ông có đồng ý với nhận định này?

Có thể nói, việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số vào hoạt động khai thác giá trị của văn hóa di sản là hết sức cần thiết. Đó chính là cầu nối để đưa các giá trị văn hóa, di sản đến gần hơn với người dân cùng du khách; đóng góp tích cực vào quá trình gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản - văn hóa.

Hiện nay, nhiều địa phương đã bước đầu triển khai thực hiện các giải pháp chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số hóa 3D trong việc quản lý, khai thác, quảng bá và phát huy giá trị di sản. Có thể kể tới Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long đã tổ chức các triển lãm, trưng bày trực tuyến để thu hút khách; Ban Quản lý Di tích Nhà tù Hỏa Lò ra mắt kênh phát thanh HoaLoPrisonRelic trên nền tảng Spotify…

Gần đây nhất, sau một thời gian thử nghiệm, Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã ra mắt Tour đêm trải nghiệm di tích, tìm hiểu về đạo học Việt Nam thông qua các hoạt động ứng dụng công nghệ 3D Mapping độc đáo. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã chính thức ra mắt công nghệ tham quan trực tuyến 3D tour (tiếng Việt và tiếng Anh), được tích hợp trên website vnfam.vn. Đây là thành tựu bước đầu, tạo cơ sở tiền đề cho việc chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo tồn di tích.

Nhưng bên cạnh những thuận lợi và kết quả bước đầu đã đạt được, việc triển khai thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực này cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức, thưa ông?

Khó khăn nhất vẫn là vấn đề kinh phí thực hiện các nội dung số hóa, chuyển đổi số trong lĩnh vực di sản văn hóa. Tiếp đến là việc xây dựng kho dữ liệu chưa thường xuyên, liên tục và bền vững; chưa tính đến việc liên kết dữ liệu để cùng khai thác. Phần mềm dùng chung còn có hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Cơ sở dữ liệu được xây dựng và vận hành độc lập với ứng dụng công nghệ khác nhau, quản lý và khai thác riêng, chưa có liên kết và phân cấp quản lý, khai thác.

Để sử dụng công nghệ khai thác và quảng bá di sản, quá trình thực hiện số hóa di tích, di sản cần được triển khai một cách toàn diện đối với mỗi địa phương, từ khảo sát, tập hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ số hóa, đến xây dựng kho dữ liệu số dùng chung bài bản, theo quy chuẩn phù hợp. Các đơn vị đã số hóa dữ liệu, có cơ sở dữ liệu riêng cần sớm thực hiện tích hợp, chia sẻ dữ liệu với các bên liên quan.

Trước mắt, để triển khai việc số hóa trong lĩnh vực bảo tồn di tích cần xây dựng hệ thống các tiêu chí lựa chọn giải pháp số hóa với các di tích và hệ thống yêu cầu về kỹ thuật đối với từng loại hình dữ liệu. Đồng thời, cần giải bài toán đầu tư kinh phí cho ứng dụng để công nghệ phát triển, cập nhật liên tục. Nhà nước cần đầu tư các nền tảng công nghệ lõi mang tính xương sống, cơ bản để địa phương, doanh nghiệp, tổ chức, cộng đồng có thể dựa trên đó hoàn thiện, đồng bộ và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ; ban hành chính sách đa dạng hóa nguồn vốn, tạo điều kiện xã hội hóa nguồn tài chính cho phát triển công nghệ.

Cân bằng giữa bảo tồn và phát triển

Ông nghĩ gì về sự cần thiết phải xây dựng những mô hình khai thác bền vững để giảm bớt áp lực đối với di sản?

Khai thác giá trị di sản văn hóa gắn với hoạt động du lịch dứt khoát phải theo hướng bền vững, để sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của thế hệ mai sau.
Điều cốt lõi của mô hình khai thác bền vững là sự cân bằng. Cân bằng giữa cung và cầu cả trong hiện tại và tương lai, thể hiện nổi bật là khả năng đáp ứng sức chứa điểm đến di sản. Cân bằng giữa số lượng và chất lượng của sự phát triển, giữa thu hút khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa trong những giai đoạn nhất định. Cân bằng giữa khai thác và phát triển nguồn tài nguyên du lịch lễ hội, giữa yêu cầu phát triển và năng lực quản lý. Cân bằng hoạt động du lịch về mặt thời gian và không gian, giữa chi phí và lợi ích... Đây là những nguyên tắc khi phát triển du lịch văn hóa phải tuân thủ nghiêm ngặt.

Vậy cộng đồng địa phương có vai trò ra sao trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản, theo ông?

Cộng đồng địa phương đóng vai trò vô cùng quan trọng bởi lực lượng tham gia phát triển các sản phẩm du lịch từ di sản chính là những cư dân bản địa. Ngoài việc gìn giữ, bảo tồn di sản, người dân còn trực tiếp tham gia và được chia sẻ lợi ích về phát triển du lịch thông qua các hoạt động dịch vụ phục vụ du khách tham quan. Có nhiều địa phương còn áp dụng cơ chế đầu tư công - quản trị tư đối với một số điểm du lịch, kêu gọi lập dự án đầu tư đối với các di sản. Nhiều dự án phát triển dịch vụ du lịch bằng nguồn xã hội hóa theo cơ chế địa phương thu phí tài nguyên - danh lam thắng cảnh, doanh nghiệp khai thác dịch vụ. Quan trọng là các hoạt động dịch vụ cần dựa vào cộng đồng, gắn với cộng đồng và doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp huy động được nhiều nguồn lực tham gia và có sự chia sẻ lợi ích, thực hiện theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.

Trân trọng cảm ơn ông!

Tổ chức thực hiện :
Ban Nhân Dân hằng tháng
Nội dung :
Huyền Nga-Hiền Trương-Thành Huy-Phương Hồ
Trình bày mỹ thuật :
Duy Thanh
Ảnh :
Nguồn: Sun Group, Oxalis Adventures, Sen Heritage,
Công ty TNHH An Thi, Huyền Nga, internet.