Kinh nghiệm bảo đảm
kỹ thuật trong chiến tranh
giải phóng dân tộc với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Ngành Kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam được hình thành từ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, theo sự phát triển của Quân đội, các chuyên ngành kỹ thuật, cơ quan hậu cần - kỹ thuật, cơ sở kỹ thuật, trang bị kỹ thuật liên tục được củng cố, phát triển để đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, ngành kỹ thuật Quân đội đã đạt được nhiều thành tựu vẻ vang, trong đó công tác bảo đảm kỹ thuật đã để lại những bài học quý, đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong xây dựng Quân đội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tàu ngầm Kilo của Hải quân Việt Nam.
Tàu ngầm Kilo của Hải quân Việt Nam.
Vận dụng những kinh nghiệm về bảo đảm kỹ thuật trong chiến tranh giải phóng dân tộc vào xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, đường lối quân sự của Đảng vào chỉ đạo thực hiện công tác bảo đảm kỹ thuật
Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, công tác kỹ thuật đã quán triệt đường lối chính trị, đường lối chiến tranh nhân dân, đường lối quân sự của Đảng; nắm vững nhiệm vụ chiến lược cách mạng, giữa kinh tế hậu phương với bảo đảm kỹ thuật; nhất là bảo đảm một khối lượng lớn về trang bị kỹ thuật cho các quân, binh chủng tham gia tác chiến… Xác định đúng vị trí, vai trò quan trọng của công tác bảo đảm kỹ thuật, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã thường xuyên quan tâm, có nhiều chủ trương, giải pháp thiết thực chăm lo đầu tư xây dựng lực lượng kỹ thuật về mọi mặt, chú trọng chuẩn bị vật chất kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm cho lực lượng vũ trang xây dựng và chiến đấu thắng lợi.
Trong suốt cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, công tác bảo đảm kỹ thuật tập trung đẩy mạnh tiếp tế vật chất, lực lượng kỹ thuật trên chiến trường, trong đó ưu tiên cho bộ đội chủ lực, xác định đúng mục tiêu cao nhất của công tác kỹ thuật là “Tất cả để phục vụ chiến đấu thắng lợi”. Đây là quan điểm cơ bản của Đảng ta trong chỉ đạo công tác kỹ thuật, đồng thời vừa là khẩu hiệu hành động trong suốt cuộc chiến tranh. Quán triệt quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng, ngành kỹ thuật thường xuyên quan tâm giáo dục cán bộ, nhân viên, chiến sĩ luôn nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, bảo đảm tốt công tác kỹ thuật cho các đơn vị, các chiến trường; trong hoạt động phải luôn hướng ra tiền tuyến, bám sát thực tiễn trong xây dựng và chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước đã, đang và sẽ tạo ra thế và lực mới, làm cho nền kinh tế đất nước phát triển mạnh, sản xuất nhiều vật chất kỹ thuật. Công tác kỹ thuật có điều kiện tăng cường nguồn lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cần quán triệt sâu sắc đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân của Đảng để xây dựng thế trận và tiềm lực kỹ thuật quân sự vững mạnh trong tình hình mới. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 382-NQ/ĐUQSTW, ngày 29/11/2007 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) “Về lãnh đạo công tác kỹ thuật” và Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/8/2017 của Bộ Chính trị “Về bảo đảm vũ khí trang bị cho Quân đội đến năm 2025”; thực hiện nội dung về kỹ thuật theo Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 2/4/2022 của Quân ủy Trung ương; Nghị quyết số 1656-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương “Về lãnh đạo công tác kỹ thuật đến năm 2030 và những năm tiếp theo”... Nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Quân đội “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.
Đội tàu ngầm Kilo của Hải quân Việt Nam.
Đội tàu ngầm Kilo của Hải quân Việt Nam.
Hai là, tự lực, tự cường xây dựng ngành kỹ thuật, chủ động tạo nguồn trang bị kỹ thuật cho Quân đội
Giai đoạn 1945 - 1954, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Mặt trận Việt Minh phát triển mạnh mẽ, đã không ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân đáp ứng yêu cầu mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, động viên nhân dân thực hiện chủ trương vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang bao gồm các đơn vị giải phóng quân và tự vệ chiến đấu. Trang bị kỹ thuật của Quân đội lúc này chủ yếu là giáo mác và súng trường, súng máy nhưng rất thiếu đạn dược. Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử và bầu cử hội đồng nhân dân các cấp đầu năm 1946 đã củng cố vững chắc thêm niềm tin của Nhân dân vào chính quyền cách mạng, lúc này ta đang gấp rút tranh thủ xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang, bộ đội chủ lực được phát triển nhanh chóng, Bắc Bộ và Trung Bộ có 30 trung đoàn, Nam Bộ có 25 chi đội, tổng quân số chủ lực lên tới 8 vạn người, du kích và tự vệ phát triển khoảng 1 triệu người 1. Đồng thời, một số binh chủng kỹ thuật như Thông tin, Pháo binh, Công binh... đang hình thành; thành lập, phát triển các đơn vị sửa chữa và sản xuất vũ khí đặt dưới sự chỉ đạo của Cục Quân giới, Bộ Quốc phòng.
Trưng bày và giới thiệu vũ khí hiện đại.
Trưng bày và giới thiệu vũ khí hiện đại.
Giai đoạn 1954 - 1975, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ Quốc phòng triển khai củng cố tổ chức Quân đội, đồng thời kiện toàn cơ quan hậu cần - kỹ thuật các cấp và bố trí lực lượng, cơ sở kỹ thuật theo thế bố trí chiến lược mới; chỉ đạo ngành kỹ thuật bảo đảm cho xây dựng Quân đội tiến lên chính quy, tương đối hiện đại ở miền Bắc; tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học kỹ thuật 2; tổ chức chi viện lực lượng, trang bị kỹ thuật cho miền Nam, góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo công tác bảo đảm kỹ thuật đã bước đầu tiến hành sửa chữa, sản xuất vũ khí và đã thành công trong việc nghiên cứu, sản xuất một số vũ khí cơ bản như lựu đạn, mìn, góp phần quan trọng tạo nguồn trang bị kỹ thuật cho Quân đội.
Nhà máy Z111 nỗ lực làm chủ công nghệ sản xuất vũ khí.
Nhà máy Z111 nỗ lực làm chủ công nghệ sản xuất vũ khí.

Ba là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức ngành kỹ thuật từ cấp chiến lược đến cấp chiến thuật phù hợp với yêu cầu phát triển vũ khí trang bị kỹ thuật
Trong chiến tranh giải phóng dân tộc công tác kỹ thuật vừa tổ chức bảo đảm cho lực lượng vũ trang, vừa xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức ngành kỹ thuật Quân đội vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến. Các cơ quan, cơ sở kỹ thuật được hình thành, củng cố, phát triển và từng bước hoàn thiện: Tháng 7 năm 1950, Tổng cục Cung cấp được thành lập (sau đổi tên là Tổng cục Hậu cần). Tháng 9 năm 1974, thành lập Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng có các cục chuyên ngành Quân giới, Quân khí, Xe - Máy. Tháng 2 năm 1979, thành lập Cục Kỹ thuật ở các quân khu, quân đoàn, binh chủng; Phòng Kỹ thuật cấp sư đoàn, lữ đoàn và tương đương; Ban Kỹ thuật cấp trung đoàn và tương đương... Các cơ sở kỹ thuật cấp Bộ gồm các nhà máy, xưởng, trạm sản xuất và sửa chữa, kho vũ khí trang bị, trường kỹ thuật, viện nghiên cứu. Ở quân khu, quân đoàn, quân binh chủng, cơ quan kỹ thuật có các kho, xưởng, trạm vũ khí trang bị. Cùng với sự phát triển của Quân đội và vũ khí trang bị, hệ thống tổ chức kỹ thuật được xây dựng, phát triển hợp lý, đồng bộ từ Bộ Quốc phòng xuống đến các đơn vị trong toàn quân.
Sự phát triển của các cơ quan, cơ sở kỹ thuật đã tạo sức mạnh, có điều kiện cần thiết bảo đảm trang bị, kỹ thuật cho Quân đội. Các cơ quan, cơ sở kỹ thuật được quan tâm xây dựng vững mạnh về chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, góp phần thực hiện thắng lợi công tác kỹ thuật. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng cơ quan, cơ sở kỹ thuật vững mạnh đã phát huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Vận dụng kinh nghiệm xây dựng hệ thống tổ chức Ngành Kỹ thuật trong chiến tranh giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay cần phải đổi mới, hoàn thiện theo hướng tinh, gọn, mạnh, thống nhất, phù hợp với cơ chế hoạt động “Quản lý, chỉ huy kỹ thuật theo cấp; quản lý, chỉ đạo, bảo đảm theo chuyên ngành kỹ thuật”. Đồng thời, quán triệt, triển khai thực hiện Kế hoạch số 1228/KH-BQP, ngày 25/4/2022 của Bộ Quốc phòng “Về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam, giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo”, nhằm đáp ứng yêu cầu bảo đảm kỹ thuật trong mọi tình huống, đặc biệt khi đất nước phải đối phó với chiến tranh xâm lược hoặc xung đột có sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Tổ chức việc xây dựng hệ thống ngành, gồm: Hoàn thiện phân định chuyên ngành kỹ thuật bảo đảm gắn kết công tác bảo đảm kỹ thuật với công tác chỉ huy, tham mưu ở cấp đầu chuyên ngành. Tổ chức lại cơ quan kỹ thuật ở cả ba cấp chiến lược, chiến dịch, chiến thuật. Các cơ quan chuyên ngành trong cơ quan kỹ thuật ba cấp được tổ chức theo đặc điểm nhóm chủng loại vũ khí trang bị có cùng công nghệ chế tạo. Hoàn thiện hệ thống cơ sở bảo đảm kỹ thuật tổ chức tập trung theo từng chủng loại vũ khí trang bị có cùng công nghệ chế tạo. Trong quá trình thực hiện đổi mới, hoàn thiện, cần chú trọng cấp chiến dịch và chiến thuật; phát huy vai trò của chủ nhiệm kỹ thuật và cơ quan kỹ thuật đáp ứng yêu cầu chiến tranh tương lai. Thực hiện nghiêm các quyết định về tổ chức lực lượng, giải thể, sáp nhập, tổ chức lại các cơ quan, đơn vị. Chủ động xây dựng biểu biên chế, chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ công tác của các cơ quan, đơn vị sau khi điều chỉnh, sáp nhập tổ chức. Làm tốt công tác tuyển dụng, chuyển chế độ, nâng ngạch lương... cho các đối tượng. Quản lý chặt chẽ và ưu tiên quân số cho các đơn vị vùng sâu, vùng xa.
Tàu cứu nạn, cứu hộ.
Tàu cứu nạn, cứu hộ.
Bốn là, không ngừng nghiên cứu nâng cấp, cải tiến, hiện đại hóa trang bị kỹ thuật hiện có; nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất, khai thác, làm chủ trang bị kỹ thuật mới
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, khi ta liên tiếp mở các chiến dịch tiến công và phản công thì chủng loại trang bị kỹ thuật được bảo đảm cho bộ đội chiến đấu lúc đó đến từ nhiều nguồn khác nhau, chủ yếu bao gồm chiến lợi phẩm thu được của địch, viện trợ quốc tế và có nguồn gốc từ nhiều nước sản xuất. Vì vậy, đòi hỏi phải tổ chức khai thác tốt, hướng dẫn kỹ lưỡng cho bộ đội sử dụng, đồng thời cần phải tiến hành cải biên, cải tiến để phù hợp với điều kiện chiến đấu và đặc điểm trên chiến trường Việt Nam. Trong điều kiện đó, các đơn vị kỹ thuật tiền thân của các binh chủng kỹ thuật ngày nay đã ra đời và phát triển nhanh chóng để thực hiện thành công hàng loạt các nhiệm vụ bảo đảm trang bị kỹ thuật trong các chiến dịch lớn, đặc biệt là tổ chức khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật đạt hiệu quả cao. Các chuyên ngành kỹ thuật tích cực nghiên cứu và triển khai thành công nhiều đề tài nhằm phục hồi, cải biên, cải tiến một số vũ khí, đạn chiến lợi phẩm và sản xuất nhiều loại vũ khí, bom, mìn. Trong những năm 1956 - 1957, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Pháo binh, Sư đoàn Pháo binh 351 tổ chức nghiên cứu thành công thiết bị thay pháo để huấn luyện sĩ quan pháo binh; Trường Sĩ quan Pháo binh tổ chức hội nghị sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, có 35 sáng kiến được công nhận, trong đó có nhiều sáng kiến có giá trị như bắn đạn chiếu sáng 100mm...; Cục Công binh có 184 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật; Cục Quản lý xe máy đã chế tạo và thử thành công nhiều chi tiết, phụ tùng ô tô…3.
Kế thừa và phát huy kinh nghiệm về không ngừng nghiên cứu nâng cấp, cải tiến, hiện đại hóa trang bị kỹ thuật hiện có; nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất, khai thác, làm chủ trang bị kỹ thuật mới, hiện nay để hiện thực hóa chủ trương xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, ngành kỹ thuật cần nghiên cứu tham mưu với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng các vấn đề về giữ gìn, bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, nâng cấp, cải tiến trang bị kỹ thuật hiện có; nghiên cứu khai thác, làm chủ trang bị kỹ thuật mới mua sắm; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học kỹ thuật quân sự phục vụ huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác. Đây là nội dung quan trọng, góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của các đơn vị, không để bị động trong mọi tình huống. Theo đó, toàn quân, nòng cốt là hoạt động khoa học và công nghệ quân sự cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 1652-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương “Về lãnh đạo công tác khoa học quân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo”; thực hiện có hiệu quả các đề án, dự án về nâng cấp, cải tiến, hiện đại hóa trang bị kỹ thuật.
Tập trung nguồn lực đầu tư, trang bị cho Quân đội một số chủng loại trang bị kỹ thuật thế hệ mới, tiếp tục khai thác, sử dụng các loại trang bị kỹ thuật hiện có. Do đó, cần nâng cao năng lực sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa trang bị kỹ thuật còn trong quy hoạch, vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm về khai thác, làm chủ trang bị kỹ thuật, ngành kỹ thuật cần đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp, nhằm phát triển, thu hút nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng cao phục vụ công tác nghiên cứu, chế tạo, sản xuất trang bị kỹ thuật công nghệ cao; đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cả trong và ngoài nước, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học, công tác kỹ thuật có đủ trình độ, năng lực quản lý, khai thác, làm chủ trang bị kỹ thuật trong tình hình mới.
Máy bay tiêm kích SU-30MK2.
Máy bay tiêm kích SU-30MK2.

Năm là, đào tạo, huấn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật có trình độ chuyên môn giỏi, làm chủ vũ khí trang bị
Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cơ quan cán bộ, quân lực tuyển chọn ở các đơn vị để đưa đi đào tạo ở các trường kỹ thuật trong và ngoài nước. Đây là lực lượng được tuyển chọn và đào tạo chính quy, có trình độ kỹ thuật cơ bản, lực lượng nòng cốt của ngành kỹ thuật. Công tác tạo nguồn được tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt chiến tranh giải phóng dân tộc. Động viên từ các cơ quan, cơ sở kỹ thuật Nhà nước để bổ sung cho Quân đội, nhất là Quân chủng Phòng không - Không quân; số cán bộ, nhân viên này được phân loại, biên chế về các chuyên ngành kỹ thuật. Bên cạnh đó, các cơ quan, cơ sở kỹ thuật tuyển chọn cán bộ, nhân viên kỹ thuật gửi đi đào tạo, huấn luyện nâng cao trình độ, đây là nguồn bổ sung cho những vị trí chủ chốt của các cơ quan, cơ sở kỹ thuật. Với chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, ngành kỹ thuật đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật có trình độ chuyên môn giỏi, góp phần thực hiện tốt công tác kỹ thuật.
Hiện nay, để đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật trong tình hình mới, cần tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 765-NQ/QUTW, ngày 20/12/2012 của Quân ủy Trung ương và Nghị quyết số 964-NQ/ĐU, ngày 14/8/2013 của Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật “Về nâng cao chất lượng huấn luyện”. Đồng thời, thực hiện tốt đề án đổi mới quy trình, chương trình đào tạo, huấn luyện cán bộ, nhân viên kỹ thuật các cấp trong Quân đội. Phát huy cao độ tiềm năng, trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học, tập trung đào tạo, huấn luyện trên ba tiêu chí kiến thức nền, ngoại ngữ và tin học, làm cơ sở để nghiên cứu, khai thác, làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại thế hệ mới.
Từ kinh nghiệm trong chiến tranh giải phóng dân tộc, một vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu chính sách cho phù hợp để duy trì và phát triển đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật có trình độ cao, có kinh nghiệm phục vụ lâu dài trong Quân đội. Có đầy đủ tài liệu, giáo trình giảng dạy, huấn luyện kỹ thuật cho các đối tượng, loại hình tác chiến, loại hình đơn vị; tài liệu huấn luyện khai thác, làm chủ vũ khí trang bị thế hệ mới, công nghệ cao. Chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ tổ chức, chỉ huy, chỉ đạo công tác kỹ thuật. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Đề án xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật quân sự trong tình hình mới; ưu tiên phát triển đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật trực tiếp thực hiện công tác bảo đảm kỹ thuật với vũ khí trang bị mới, công nghệ cao.
Trận địa pháo phòng thủ của lực lượng Hải quân.
Trận địa pháo phòng thủ của lực lượng Hải quân.
Sáu là, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế về vũ khí trang bị kỹ thuật, đồng thời phát huy nội lực không ngừng nâng cao hiệu quả công tác kỹ thuật quân sự
Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ về vũ khí trang bị kỹ thuật của các nước bạn bè là vấn đề chiến lược, góp phần tạo nên sức mạnh của lực lượng vũ trang, đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Trong suốt cuộc chiến tranh, ngành kỹ thuật luôn tranh thủ sự giúp đỡ của các nước bạn trong xây dựng, củng cố và phát triển các cơ sở kỹ thuật, tạo nguồn vũ khí trang bị; tổ chức tiếp nhận chu đáo, quản lý, khai thác có hiệu quả và nghiên cứu cải tiến phù hợp với chiến trường, cách đánh của Quân đội ta.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ, các thành tựu khoa học nhanh chóng được áp dụng vào sản xuất vũ khí trang bị. Để chống lại vũ khí trang bị ngày càng hiện đại của đối phương, ngay từ thời bình Quân đội cần được trang bị và khai thác, sử dụng thành thạo mọi chủng loại vũ khí hiện đại: Máy bay, tàu ngầm, hệ thống ra đa, các thiết bị tác chiến điện tử... nhất là các đơn vị đang làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biển, đảo, vùng trời... bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng những đòn tiến công xâm lược.
Đặc biệt, tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nhiều vấn đề căng thẳng nảy sinh chưa từng có tiền lệ, vượt khả năng kiểm soát, dự báo của các nước, các tổ chức quốc tế; nguy cơ chạy đua vũ trang, kể cả chiến tranh hạt nhân ngày càng lớn. Các nước lớn đẩy mạnh lôi kéo, tập hợp lực lượng, gia tăng đối đầu, cạnh tranh quyết liệt. Xung đột vũ trang, nhất là xung đột quân sự ở Ukraine, xung đột Israel với Palestine, Hamas; chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố, ly khai, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên… diễn ra ở nhiều nơi, tác động sâu sắc, toàn diện đến mọi quốc gia. Trong tương lai, nếu chiến tranh xảy ra sẽ xuất hiện nhiều loại hình tác chiến mới, địch chủ yếu sử dụng vũ khí công nghệ cao, phương tiện không người lái, hệ thống tác chiến điện tử kết hợp chiến tranh thông tin, tác chiến không gian mạng... tiến công từ xa ở cả trên không, trên bộ, trên biển và đặc biệt là trên không gian mạng. Do đó, ngành kỹ thuật phải thường xuyên tiến hành nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận bảo đảm kỹ thuật, đổi mới phương thức bảo đảm kỹ thuật, đổi mới cơ chế chỉ huy, chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật phù hợp với phương thức, hình thái tác chiến mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Làm chủ công nghệ sản xuất vũ khí hiện đại.
Làm chủ công nghệ sản xuất vũ khí hiện đại.

Những kinh nghiệm bảo đảm kỹ thuật trong chiến tranh giải phóng dân tộc là những bài học quý, cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong công tác bảo đảm kỹ thuật hiện nay. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo những kinh nghiệm bảo đảm kỹ thuật trong điều kiện mới góp phần xây dựng ngành kỹ thuật vững mạnh, nâng cao hiệu quả công tác kỹ thuật, xây dựng Quân đội hiện đại, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Hiện thống thông tin liên lạc hiện đại.
Hiện thống thông tin liên lạc hiện đại.
Hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề: “Quân đội nhân dân Việt Nam - Truyền thống hào hùng, sự nghiệp vẻ vang, lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh”
SÁCH LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM - TẬP 14
Trình bày: Vũ Anh Tuấn
Ảnh: Báo Quân đội Nhân Dân