
Trong khuôn khổ Hội thảo khoa học “Thực trạng và giải pháp xử lý các vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ môi trường Thủ đô Hà Nội”, hai đại diện đến từ Bắc Kinh (Trung Quốc) và Kitakyushu (Nhật Bản) đã chia sẻ những kinh nghiệm trong việc cải thiện chất lượng không khí tại Bắc Kinh và quản lý, bảo vệ môi trường đô thị tại Kitakyushu.
Bài học từ Bắc Kinh:
Chống ô nhiễm không khí cần hợp tác xuyên biên giới
Chia sẻ về thành công trong xử lý ô nhiễm không khí tại Bắc Kinh (Trung Quốc), Tiến sĩ Zbigniew Klimont, Trưởng nhóm nghiên cứu về Quản lý ô nhiễm, Chương trình Năng lượng, Khí hậu và Môi trường, Tổ chức Viện Phân tích Hệ thống ứng dụng quốc tế đề cập đến nhiệm vụ “bất khả thi” đặt ra năm 2008 từ Thế vận hội Mùa hè với yêu cầu môi trường không khí được bảo đảm.
Theo đó, Bắc Kinh đã đưa ra biện pháp mang tính chất thử nghiệm như: Đóng cửa vận hành hàng trăm nhà máy, lò đốt quanh Bắc Kinh, các phương tiện giao thông phải dừng hoạt động... Điều này cũng nhằm thử nghiệm tầm quan trọng cấp vùng trong giảm ô nhiễm môi trường không khí.
Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp ngắn hạn, Bắc Kinh nhận thức được rằng, "Cuộc chiến chống ô nhiễm không khí" cần nhận được sự hỗ trợ của chính quyền trung ương và địa phương, với hợp tác liên vùng.
Trước hết cần hiểu rõ nguồn ô nhiễm PM2.5 (kích thước hạt bụi); phối hợp chính sách địa phương và cùng thực hiện các biện pháp chính như: giảm tiêu thụ than; đối với hộ gia đình, chuyển từ than sang khí đốt và điện; đóng cửa các doanh nghiệp cũ, gây ô nhiễm và thực thi nghiêm ngặt các giá trị giới hạn khí thải; cảnh báo phối hợp giữa các tỉnh lân cận; Vận tải công cộng (đến năm 2022, >70% giao thông xanh trong khu vực đô thị); giám sát mô hình không gian-không khí-đất để thiết lập phân bổ nguồn và đo lường tiến độ thực hiện chính sách và tác động của nó…
Tiến sĩ Zbigniew Klimont, Trưởng nhóm nghiên cứu về Quản lý ô nhiễm, Chương trình Năng lượng, Khí hậu và Môi trường, Tổ chức Viện Phân tích Hệ thống ứng dụng quốc tế. Ảnh: THẾ DUONG
Tiến sĩ Zbigniew Klimont, Trưởng nhóm nghiên cứu về Quản lý ô nhiễm, Chương trình Năng lượng, Khí hậu và Môi trường, Tổ chức Viện Phân tích Hệ thống ứng dụng quốc tế. Ảnh: THẾ DƯƠNG
Tiến sĩ Zbigniew Klimont cho hay: Nhờ thực hiện đầu tư đáng kể về thời gian, nguồn lực và ý chí chính trị, cùng với đó là hàng loạt các giải pháp, hành động phối hợp đi kèm: Luật Chất lượng không khí được cải tổ; Phát triển mạng lưới giám sát chất lượng không khí; từ 35 trạm năm 2013 lên hơn 1.000 trạm tại Bắc Kinh; nhiều trạm đo nhiều chất ô nhiễm; đổi mới và sáng kiến riêng của Thành phố Bắc Kinh; các khoản đầu tư về ô nhiễm không khí trong Kế hoạch hành động về không khí sạch Bắc Kinh 2013-2017 đã tăng từ khoảng 0,5 tỷ USD lên 2,5 tỷ USD, trong giai đoạn 2013-2017, nồng độ PM2.5 đã giảm 35% ở Bắc Kinh và 25% ở khu vực Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc. Giai đoạn 2013-2022 đã giảm đáng kể số ngày ô nhiễm cao, giảm mạnh các đợt ô nhiễm nặng và cường độ của chúng vào mùa đông.
Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Zbigniew Klimont, mặc dù mức PM2.5 hiện tại ở Bắc Kinh đang tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng không khí của Trung Quốc, nhưng chúng vẫn cao hơn nhiều so với mức "an toàn" được WHO khuyến nghị, tức là Hướng dẫn chất lượng không khí của WHO (5 ug/m3; trong hướng dẫn năm 2005 là 10 ug/m3).
Bên cạnh đó, ô nhiễm ozon không giảm; kiểm soát kém một số khí thải tiền thân (đặc biệt là NMVOC) và sự gia tăng metan toàn cầu; các đợt ô nhiễm nặng vẫn xảy ra vào các tháng mùa đông.
"Cuộc chiến" xử lý ô nhiễm không khí tại Bắc Kinh vẫn tiếp tục, và được hỗ trợ bởi kinh nghiệm từ các hành động trước đây, sự hợp tác của khu vực và khoa học kỹ thuật.
Bầu không khí Bắc Kinh trong lành trở lại nhờ loạt biện pháp quyết liệt của chính quyền thành phố.
Bầu không khí Bắc Kinh trong lành trở lại nhờ loạt biện pháp quyết liệt của chính quyền thành phố.
“Có những nguồn dự trữ sâu rộng về kiến thức khoa học và kinh nghiệm quản lý chất lượng không khí trên toàn thế giới, và chúng có sẵn cho bất cứ ai muốn sử dụng chúng”.
--Tiến sĩ Zbigniew Klimont--
Đề cập đến bài học từ cuộc chiến chống ô nhiễm không khí của Bắc Kinh, Tiến sĩ Zbigniew Klimont chỉ ra: Công nghiệp hóa nặng để lại di sản lâu dài về nước, đất và không khí bị ô nhiễm.
Theo đó, đa dạng hóa nền kinh tế trong nước là một động thái khôn ngoan ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào. Kiểm soát khí thải của phương tiện là rất quan trọng đối với không khí sạch. Đặc biệt, ô-tô và xe tải cũ góp phần không cân xứng vào ô nhiễm không khí đô thị.
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp tư nhân ít có động lực để lắp đặt thiết bị kiểm soát khí thải cho đến khi họ bị yêu cầu phải làm như vậy. Do đó, Chính phủ nên xem xét các cách khác để khuyến khích các công ty làm điều đúng đắn.


Cũng theo Tiến sĩ Zbigniew Klimont, ô nhiễm không khí vượt qua mọi ranh giới hành chính: quốc tế, quốc gia, khu vực và địa phương. Vì vậy, hợp tác xuyên biên giới là rất quan trọng để tạo ra các giải pháp hiệu quả và lâu dài.
Mặt khác, sự minh bạch về dữ liệu cho phép tất cả các thành phần của xã hội tham gia vào việc đạt được các mục tiêu môi trường.
“Có những nguồn dự trữ sâu rộng về kiến thức khoa học và kinh nghiệm quản lý chất lượng không khí trên toàn thế giới, và chúng có sẵn cho bất cứ ai muốn sử dụng chúng”, Tiến sĩ Zbigniew Klimont chia sẻ.
Phương pháp Kitakyushu
trong khắc phục ô nhiễm
Giáo sư, Tiến sĩ Kiwao Kadokami, Khoa Kỹ thuật Hóa học và Môi trường, Trường Đại học Kitakyushu, Nhật Bản cho biết: Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, Kitakyushu từng là một trong 4 khu công nghiệp lớn của Nhật Bản.
Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, Kitakyushu từng là một trong 4 khu công nghiệp lớn của Nhật Bản.
Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, Kitakyushu từng là một trong 4 khu công nghiệp lớn của Nhật Bản.
Sự tồn tại các mỏ than lớn ở khu vực phía bắc Kyushu, hoạt động cảng biển phát triển và nguồn quặng sắt nhập khẩu từ Trung Quốc đại lục, nhà máy thép quốc doanh đầu tiên của Nhật Bản bắt đầu hoạt động vào năm 1901. Kể từ đó, khu vực Kitakyushu đã phát triển thành một khu công nghiệp nặng và hóa chất ở Nhật Bản, dẫn đến ô nhiễm không khí và nước.
Vào năm 1901, khu vực Kitakyushu đã phát triển thành một khu công nghiệp nặng và hóa chất ở Nhật Bản, dẫn đến ô nhiễm không khí và nước.
Vào năm 1901, khu vực Kitakyushu đã phát triển thành một khu công nghiệp nặng và hóa chất ở Nhật Bản, dẫn đến ô nhiễm không khí và nước.
Vào những năm 1960, ô nhiễm môi trường trở nên trầm trọng do sự phát triển kinh tế làm gia tăng việc sử dụng và sản xuất nhiên liệu (chủ yếu là than đá). Vịnh Dokai (vùng vịnh kín) cũng bị ô nhiễm nặng do việc xả thải nước thải chưa qua xử lý từ các nhà máy quanh Vịnh. Hậu quả là nước biển trong Vịnh bị ô nhiễm tới mức không còn sinh vật sống và Vịnh Dokai khi đó được gọi là “Biển chết”.
Trước thực trạng này, thành phố Kitakyushu đã sử dụng “phương pháp Kitakyushu” để khắc phục ô nhiễm. Đây là phương pháp phối hợp giữa chính phủ và doanh nghiệp trong khắc phục ô nhiễm; đồng thời là nền tảng cho con đường tích hợp của phát triển kinh tế và môi trường.
Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, Kitakyushu từng là một trong 4 khu công nghiệp lớn của Nhật Bản. Sự tồn tại các mỏ than lớn ở khu vực phía bắc Kyushu, hoạt động cảng biển phát triển và nguồn quặng sắt nhập khẩu từ Trung Quốc đại lục, nhà máy thép quốc doanh đầu tiên của Nhật Bản bắt đầu hoạt động vào năm 1901. Kể từ đó, khu vực Kitakyushu đã phát triển thành một khu công nghiệp nặng và hóa chất ở Nhật Bản, dẫn đến ô nhiễm không khí và nước.
--Giáo sư, Tiến sĩ Kiwao Kadokami--


Giáo sư, Tiến sĩ Kiwao Kadokami cho biết, các biện pháp kiểm soát ô nhiễm do các doanh nghiệp thực hiện không chỉ dừng lại ở việc xử lý khí thải trước khi thoát ra khỏi ống khói (biện pháp "xử lý cuối đường ống"), mà còn tập trung cải tiến quy trình sản xuất bằng cách áp dụng công nghệ sản xuất ít ô nhiễm hơn (công nghệ sản xuất sạch hơn). Công nghệ này không chỉ giúp cải thiện môi trường mà còn mang lại lợi ích kinh tế bằng cách nâng cao năng suất.
Về phía chính quyền, các biện pháp ứng phó hiệu quả đã được thực hiện với sự hợp tác của các doanh nghiệp như ký kết “Thỏa thuận phòng ngừa ô nhiễm” với các công ty để bổ sung cho các quy định pháp luật hiện có, và thành lập “Hội đồng liên lạc phòng ngừa ô nhiễm không khí” bao gồm các doanh nghiệp lớn và chính phủ. Công nghệ do các doanh nghiệp phát triển cùng với kinh nghiệm điều phối của chính quyền cũng đã được áp dụng để đóng góp vào các sáng kiến môi trường quốc tế.
Nhờ vậy, chất lượng không khí đã dần thay đổi. Nồng độ SO₂ giảm xuống mức gần như ổn định vào năm 1980, khoảng 15 năm sau khi các quy định bắt đầu được áp dụng. Chất lượng nước của vịnh Dokai đã phục hồi về trạng thái trước khi bị ô nhiễm trong khoảng 15 năm. Các cuộc khảo sát được thực hiện từ năm 1989 đến 1992 xác nhận rằng có hơn 100 loài cá sinh sống trong Vịnh, và một số loài trong đó đang sinh sản tại đây. Bầu trời và biển ở thành phố Kitakyushu đã phục hồi về trạng thái trước khi bị ô nhiễm trong khoảng 15 năm.
Sau thành công tại địa phương, Kitakyushu đã nhận được nhiều giải thưởng từ các cơ quan liên quan của Liên hợp quốc và là thành phố đầu tiên ở châu Á được OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế) công nhận là “Thành phố Tương lai về Môi trường” vào năm 2011. Đồng thời, Kitakyushu đã hỗ trợ kỹ thuật và biện pháp bảo vệ môi trường ở nhiều quốc gia đang phát triển, đặc biệt là tại các nước Đông Nam Á.
Giáo sư, Tiến sĩ Kiwao Kadokami chia sẻ, từ kinh nghiệm của thành phố Kitakyushu cho thấy, sự hợp tác giữa người dân, doanh nghiệp, chính quyền và nhà khoa học là chính chìa khóa để giải quyết các vấn đề môi trường. Việc kiểm soát ô nhiễm thông qua đổi mới công nghệ có thể song hành với phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, để phát triển sự vững chắc, điều quan trọng là truyền lại kinh nghiệm, công nghệ và tri thức đã đạt được cho các thế hệ tiếp theo.
Sự hợp tác giữa người dân, doanh nghiệp, chính quyền và nhà khoa học là chính chìa khóa để giải quyết các vấn đề môi trường. Việc kiểm soát ô nhiễm thông qua đổi mới công nghệ có thể song hành với phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, để phát triển sự vững chắc, điều quan trọng là truyền lại kinh nghiệm, công nghệ và tri thức đã đạt được cho các thế hệ tiếp theo.
Ngày xuất bản: 17/3/2025
Nội dung: THU HẰNG - VƯƠNG HÀ
Ảnh: THẾ DƯƠNG, Ban tổ chức Hội thảo
Biên tập, trình bày: PHI NGUYÊN - HOÀNG LINH