Kinh tế Việt Nam

và con đường
phục hồi, phát triển

Một góc TP Hồ Chí Minh. (Ảnh: TRẦN MINH DŨNG)

Một góc TP Hồ Chí Minh. (Ảnh: TRẦN MINH DŨNG)

Kết thúc năm 2021 cũng là lúc nền kinh tế đã bước qua thời điểm được đánh giá là khó khăn chưa từng có trong 35 năm Đổi mới. Chặng đường phía trước tuy còn rất nhiều khó khăn, bất định do diễn biến khó lường của đại dịch Covid-19 nhưng quan trọng là khả năng ứng phó của nền kinh tế đã tốt hơn, giúp Việt Nam nỗ lực bắt nhịp với dòng chảy phục hồi của kinh tế thế giới.

Năm 2021: Chao đảo vì biến chủng Delta

và phản ứng chính sách linh hoạt

Bất chấp tác động của đại dịch Covid-19 với sự bùng phát tại một số địa phương trên cả nước từ tháng 4, tăng trưởng GDP vẫn có đà phục hồi tốt với mức tăng 5,64% trong sáu tháng đầu năm, cao hơn tốc độ tăng 1,82% của cùng kỳ năm 2020. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đảo chiều rất nhanh khi biến chủng Delta hoành hành trên thế giới và xuất hiện ở trong nước không lâu sau đó.

Cú sốc thực sự xảy ra với nền kinh tế khi làn sóng bùng phát đại dịch Covid-19 lần thứ tư tấn công trực diện vào các trung tâm kinh tế phía nam. GDP quý III quay đầu giảm 6,02% so cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và công bố GDP quý đến nay.

Trong hoàn cảnh khó khăn nhất, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc cùng với việc kiên định thực hiện giải pháp 5K và sự điều hành linh hoạt, sáng tạo của Chính phủ trong chiến lược vaccine là chìa khoá giúp kinh tế Việt Nam cơ bản trở lại trạng thái bình thường mới.

Năm 2021 là một năm đầy biến động, nền kinh tế đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 để phục hồi mạnh mẽ trong quý IV và đạt mức tăng trưởng cả năm 2,58%. Đây là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phục hồi nhưng có dấu hiệu chậm lại do sự xuất hiện các biến chủng mới; lạm phát toàn cầu tăng cao; đại dịch đã gây tắc nghẽn trong chuỗi giá trị toàn cầu làm tăng giá nguyên liệu sản xuất.
Bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê.

Cuối tháng 9, Chính phủ quyết định chuyển hướng chiến lược trong công tác phòng, chống dịch từ mục tiêu “Không Covid” sang thích ứng an toàn với đại dịch.

Nghị quyết 128/NQ-CP của Chính phủ về quy định tạm thời thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 được ban hành ngày 11/10/2021, là cơ sở để các địa phương trong cả nước thống nhất mở cửa trở lại kinh tế, chuyển sang trạng thái bình thường mới để phục hồi sản xuất kinh doanh.

Cùng với đó, các chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn do tác động của dịch Covid-19 tiếp tục được ban hành mới và đẩy mạnh thực thi một cách có hiệu quả.

Sự chuyển hướng chính sách linh hoạt, kịp thời đã góp phần củng cố niềm tin của toàn xã hội vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và Chính phủ. Kinh tế tăng trưởng dương trở lại sau khi “rơi thẳng đứng” trong quý III.

Kết thúc năm 2021, tăng trưởng GDP dừng ở con số 2,58%, thấp nhất trong vòng 10 năm.

Sản xuất hàng xuất khẩu tại Công ty TNHH giày Ching Luh Việt Nam (KCN Thuận Đạo, Long An). Ảnh: ĐĂNG ANH

Sản xuất hàng xuất khẩu tại Công ty TNHH giày Ching Luh Việt Nam (KCN Thuận Đạo, Long An). Ảnh: ĐĂNG ANH

Tiêm vaccine phòng Covid-19 cho công nhân. (Ảnh: TRỊNH BÌNH)

Tiêm vaccine phòng Covid-19 cho công nhân. (Ảnh: TRỊNH BÌNH)

Những chuyến xe miễn phí đưa công nhân từ vùng dịch về quê an toàn. (Ảnh: TRÌNH KẾ)

Những chuyến xe miễn phí đưa công nhân từ vùng dịch về quê an toàn. (Ảnh: TRÌNH KẾ)

1. Những điểm sáng

Mặc dù tăng trưởng GDP cả năm thấp hơn nhiều so mục tiêu đề ra nhưng một số lĩnh vực của nền kinh tế vẫn đạt mức tăng trưởng ấn tượng, thể hiện sự nỗ lực vượt khó của người dân, cộng đồng doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác.

Xuất khẩu

Đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP là hoạt động xuất khẩu, trong bối cảnh các động lực tăng trưởng khác gặp nhiều khó khăn. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2021 của cả nước tiếp tục chinh phục kỷ lục mới khi đạt mức 668,5 tỷ USD.

Vượt lên những khó khăn do đứt gãy chuỗi sản xuất, lưu thông, thiếu nguyên vật liệu, biến động về nguồn nhân lực… , các doanh nghiệp đã không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để nối lại sản xuất, đặc biệt là khu vực sản xuất để xuất khẩu.

Nhờ đó, cán cân thương mại đã đảo chiều ngoạn mục trong những tháng cuối năm và kết thúc ở mức thặng dư thương mại 4 tỷ USD, giữ vững vị thế xuất siêu năm thứ 6 liên tiếp, đưa Việt Nam lọt vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế.

Thu hút FDI

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng trở lại là một chỉ dấu cho thấy mức tín nhiệm của các nhà đầu tư quốc tế vào môi trường kinh doanh Việt Nam. Bất chấp những khó khăn do tác động của đại dịch Covid-19, nhiều dự án lớn vẫn được thực hiện đúng tiến độ cam kết.

Đó là dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II của nhà đầu tư Singapore tại Long An với tổng vốn đăng ký hơn 3,1 tỷ USD trong lĩnh vực truyền tải và phân phối, sản xuất điện; Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II của nhà đầu tư Nhật Bản, tổng vốn đăng ký hơn 1,31 tỷ USD tại Cần Thơ.

Không chỉ thu hút vốn đăng ký mới, nhiều địa phương còn đón dòng vốn tăng thêm tại các dự án lớn để mở rộng quy mô đầu tư. Cụ thể, dự án LG Display Hải Phòng của nhà đầu tư Hàn Quốc đã hai lần điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 2,15 tỷ USD; Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan, Trung Quốc) tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD…

Chất lượng vốn FDI được nâng lên, thể hiện ở số dự án có quy mô nhỏ, mang lại ít giá trị gia tăng giảm dần; lĩnh vực bất động sản cũng không còn giữ ngôi đầu mà nhường chỗ cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và phân phối điện.

Tỷ lệ doanh nghiệp quay lại thị trường rất cao

Doanh nghiệp Việt Nam có đà phục hồi rất nhanh sau ba tháng triển khai thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP của Chính phủ.

Những tháng cuối năm, tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay lại sản xuất bật tăng cao, thể hiện niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào khả năng phục hồi của nền kinh tế.

Đáng mừng là triển vọng phục hồi của khu vực doanh nghiệp rất lạc quan khi kết quả khảo sát của Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân trong tháng 11 ghi nhận 22% doanh nghiệp ở diện “đang hoạt động” cho biết đã phục hồi về mức như trước dịch; 45% doanh nghiệp cho biết có thể phục hồi trong khoảng thời gian 1 tháng đến dưới 6 tháng nếu các địa phương thực hiện đúng Nghị quyết 128 của Chính phủ.

Bốc xếp hàng hóa tại Cảng container quốc tế Tân Cảng Hải Phòng. (Ảnh: DUY LINH)
Chế biến sản phẩm thủy hải sản. (Ảnh: QUANG QUÝ)
Sản xuất tại công ty Đại Dũng. (Ảnh: Công ty cung cấp)

Tiếp tục giữ ổn định kinh tế vĩ mô

Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định chính là điểm sáng nổi bật của bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2021. Thành công trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ là lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn chỉ tiêu Quốc hội giao; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm.

Thu ngân sách nhà nước 11 tháng đã hoàn thành chỉ tiêu cả năm. Số thu của các tháng cuối năm càng khả quan là do việc thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch Covid-19 theo tinh thần Nghị quyết số 128/NQ-CP giúp hoạt động sản xuất kinh doanh dần phục hồi. Bội chi ngân sách trong phạm vi dự toán.

Mặt bằng lãi suất giảm; tỷ giá, thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tiếp tục được củng cố. Việc phối hợp hài hòa trong điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ là yếu tố quan trọng giúp lạm phát được kiểm soát tốt, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.

Phun khử khuẩn vùng có dịch Covid-19. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Công nhân ở Đồng Nai về quê trong bối cảnh Covid-19. (Ảnh: THIÊN VƯƠNG)

Hàng nghìn tấn nông sản bị ùn ứ tại cửa khẩu Tân Thanh. (Ảnh: TTXVN)

Phun khử khuẩn vùng có dịch Covid-19. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Công nhân ở Đồng Nai về quê trong bối cảnh Covid-19. (Ảnh: THIÊN VƯƠNG)

Hàng nghìn tấn nông sản bị ùn ứ tại cửa khẩu Tân Thanh. (Ảnh: TTXVN)

2. Nhiều khó khăn chưa từng phải đối mặt

Bên cạnh những điểm sáng, kinh tế Việt Nam năm 2021 không thể tránh khỏi những tổn thất nặng nề khi “ngấm đòn” Covid-19. Chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung gọi năm 2021 là một năm mất mát. Nền kinh tế phải đối mặt với những khó khăn chưa từng có tiền lệ.

Đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng

Để phòng, chống dịch, nhiều địa phương áp dụng các biện pháp giãn cách cực đoan kéo dài hơn 4 tháng khiến hàng loạt nhà máy bị đóng cửa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hóa.

Hệ quả là sản xuất kinh doanh đình trệ, tỷ lệ doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động, đóng cửa tăng đột biến, vượt qua con số doanh nghiệp thành lập mới. Ngành nghề bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là dệt may, da giày, xây dựng, du lịch, vận tải, kho bãi, lưu trú, ăn uống, dịch vụ bán lẻ, giáo dục-đào tạo… Doanh nghiệp, hộ kinh doanh, người lao động lâm vào tình cảnh khó khăn vì không thể giữ được sinh kế.

Đứt gãy chuỗi cung ứng lao động

Sự đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng đẩy tỷ lệ thất nghiệp trong lực lượng lao động tăng lên mức 3,98% trong quý III, vượt xa con số 2% như thông lệ và là mức cao chưa từng thấy. Thu nhập giảm, cơ hội tìm kiếm được việc làm của người lao động trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Thị trường lao động đối mặt với tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng khi hàng loạt kỷ lục tiêu cực được xác lập.

Đứt gãy chuỗi lao động xảy ra khi hàng triệu người bỏ phố về quê tránh dịch trong những cuộc hồi hương “bão táp”, để lại những “vết sẹo” tinh thần cần rất nhiều thời gian mới có thể chữa lành.

Không chỉ thiệt hại về vật chất, nền kinh tế còn thiệt hại cả về nhân lực, tinh thần, năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ…. Cơ cấu kinh tế, lao động, phân bổ nguồn lực bị đảo lộn sau làn sóng dịch Covid-19 bùng phát lần thứ tư. Đặc biệt là vùng động lực tăng trưởng kinh tế phía nam vốn đã bị xói mòn động lực, nay lại thiệt hại nghiêm trọng.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung, Nguyên Viện trưởng Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương

Suy giảm các động lực tăng trưởng

Vượt ra khỏi dự báo, tăng trưởng GDP quý III giảm với tốc độ “rơi thẳng đứng” 6,02%. Chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung cảnh báo, đằng sau mức sụt giảm bất ngờ đó là những vấn đề lớn cần nhận diện.

Đại dịch Covid-19 khiến các động lực tăng trưởng của nền kinh tế đang suy giảm: Sản xuất công nghiệp tăng trưởng chậm lại, doanh số bán lẻ có những tháng tăng trưởng âm; đầu tư công suy giảm, đầu tư tư nhân tăng chậm.

Đáng lo ngại là các vùng động lực phía nam đang yếu dần, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng của các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam thấp hơn phía Bắc và tỷ trọng trong GDP cả nước giảm dần trong 10 năm qua.

Sự suy giảm đã bắt đầu trong vài năm trở lại đây và bộc lộ rõ hơn trong tác động của đại dịch Covid-19. Tỷ trọng của Vùng kinh tế trọng điểm phía nam trong GDP cả nước đã giảm dần từ 39,7% năm 2010 xuống còn 37,7% năm 2020. Thành phố Hồ Chí Minh vẫn có vai đầu tàu rõ nét, Bình Dương và Đồng Nai có xu hướng tăng nhẹ, còn các địa phương khác đi ngang hoặc trồi sụt theo hướng đi xuống.

Năm 2022: Phục hồi và phát triển bền vững

Năm 2022, dự báo tình hình quốc tế, trong nước có những thuận lợi nhưng về cơ bản là nhiều khó khăn, thách thức do đại dịch Covid-19 có thể còn diễn biến phức tạp, nguy hiểm, đòi hỏi cơ quan điều hành phải chủ động thích ứng để tận dụng những cơ hội và hạn chế rủi ro.

Trọng tâm chính sách là chương trình phục hồi kinh tế

Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội là rất nặng nề nhưng chúng ta hoàn toàn có niềm tin mạnh mẽ vào sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

Nguồn: Nghị quyết số: 32/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022

Nguồn: Nghị quyết số: 32/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022

Cơ sở cho sự phục hồi, trước hết là sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cùng với sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc hội, sự điều hành quyết liệt, thống nhất của Chính phủ kết hợp với tinh thần đoàn kết, đồng lòng của nhân dân cả nước và sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế trong nỗ lực kiểm soát dịch bệnh, phát triển kinh tế-xã hội.

Sự triển khai đồng bộ, kịp thời và hiệu quả các cơ chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp sớm ổn định đời sống và phục hồi sản xuất, kinh doanh. Cùng với đó là ý chí, sức sáng tạo, tinh thần kinh doanh mãnh liệt và bản lĩnh của doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trong đại dịch.

Việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế tốt lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế là nền tảng quan trọng để Việt Nam có dư địa chính sách xây dựng chương trình phục hồi kinh tế ở quy mô đủ lớn, thời gian đủ dài.

Các gói phục hồi và kích thích kinh tế sau đại dịch đã được Chính phủ chuẩn bị nhằm bảo đảm có nguồn lực tài chính đủ lớn, đáp ứng các nhu cầu đủ rộng đối với các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế - xã hội, triển khai trong hai năm 2022 và 2023. Quy mô chương trình phục hồi kinh tế được các tổ chức nghiên cứu, chuyên gia kinh tế đề xuất lên đến khoảng 10% GDP.

Tiến sĩ Cấn Văn Lực. (Ảnh: TTXVN)

Tiến sĩ Cấn Văn Lực. (Ảnh: TTXVN)

Theo Tiến sĩ Cấn Văn Lực và Nhóm nghiên cứu Thường trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội, chương trình hỗ trợ cần có quy mô 445.760 tỷ đồng, tương đương 5,41% GDP với nguồn lực từ công cụ chính sách tài khóa và tiền tệ, trong đó chính sách tài khóa là chủ lực.

Trong đó, gói chính sách tài khóa là 383.200 tỷ đồng (4,71% GDP); gói chính sách tiền tệ khoảng 6.100 tỷ đồng (0,08% GDP); các gói hỗ trợ an sinh xã hội, giảm tiền điện, nước, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số...

Đây là giá trị thực chi, còn nếu tính tất cả các nguồn lực tổng thể, quy mô của chính sách phục hồi kinh tế lên đến khoảng 844.000 tỷ đồng, tương đương 10,38% GDP.

Việt Nam đang ở vùng trũng của tăng trưởng nên cần thiết phải có chính sách hỗ trợ đủ lớn, đủ cấp thiết để nhanh chóng đi thẳng vào nền kinh tế. Gói hỗ trợ cần có quy mô 666.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 8% GDP. Nguồn lực này hỗ trợ cho lĩnh vực y tế 76.000 tỷ đồng; củng cố an sinh xã hội 58.000 tỷ đồng. Riêng gói hỗ trợ cho doanh nghiệp cần 244.000 tỷ đồng giải ngân trong 2 năm cùng với chính sách hạ mặt bằng lãi suất để “tiếp máu” cho doanh nghiệp hoạt động trong khu vực phi tài chính. Đồng thời, chi riêng cho đầu tư công 288.000 tỷ đồng đi cùng với thúc đẩy cải cách thể chế, giải quyết những điểm nghẽn trong giải ngân đầu tư công.

PGS, TS Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Kinh tế Việt Nam và Nhóm nghiên cứu Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ Chương trình phục hồi kinh tế gồm 5 nhóm chính sách liên quan đến lĩnh vực y tế, an sinh xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công và cải cách hành chính.

1. Nguồn lực tài chính sẽ dành trọng tâm cho hoạt động y tế phòng chống dịch bệnh, vì sinh mệnh người dân là mục tiêu cao nhất, trước nhất trong mọi chính sách xã hội. Nhóm chính sách về phòng, chống dịch bệnh và y tế được đặt ra trong cả tầm nhìn ngắn hạn và dài hạn.
2. Nhóm chính sách an sinh xã hội mở rộng đến đội ngũ lao động với các giải pháp tạo điều kiện về chỗ ở cho công nhân tại các khu công nghiệp, trung tâm kinh tế để thu hút người lao động trở lại làm việc và gắn bó lâu dài với doanh nghiệp.
3. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong chương trình phục hồi kinh tế 2 năm tới sẽ tập trung vào các giải pháp tài khoá như giãn, hoãn, giảm thuế, phí, lệ phí. Ngoài ra, các chính chính sách tiền tệ như cho vay ưu đãi thông qua công cụ hỗ trợ lãi suất cũng được triển khai để có thêm nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh.
4. Nhóm chính sách kích thích đầu tư công, một nguồn lực lớn sẽ được phân bổ tập trung cho các dự án hạ tầng trọng điểm của đất nước như dự án xây dựng đường bộ cao tốc bắc-nam giai đoạn 2, các dự án liên quan đến thích ứng về biến đổi khí hậu, tập trung ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long… Tác động của chính sách này vừa kích thích chi tiêu đầu tư công để kích thích tăng trưởng trong ngắn hạn, vừa có tác động hỗ trợ tăng trưởng cho cả giai đoạn 2026-2030.
5. Nhóm giải pháp về quản lý điều hành, bảo đảm cân đối vĩ mô, kiểm soát lạm phát, duy trì ổn định và kiểm soát rủi ro. Trong đó có nội hàm cải cách thủ tục hành chính cần phải thúc đẩy triển khai mạnh mẽ, hiệu quả hơn.

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Thanh toán không dùng tiền mặt. (Ảnh: DUY LINH)

Các đại biểu thảo luận tại Hội nghị COP26.

Thanh toán không dùng tiền mặt. (Ảnh: DUY LINH)

Các đại biểu thảo luận tại Hội nghị COP26.

Các trụ cột tăng trưởng

Nhận định về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022, các chuyên gia kinh tế nhấn mạnh đến động lực tăng trưởng đến từ hoạt động xuất khẩu, đầu tư công, đầu tư nước ngoài, cầu tiêu dùng và những ngành nghề đang được thúc đẩy bởi đại dịch Covid-19 như kinh tế số, đổi mới sáng tạo.

Nhiều dự báo cho thấy, sự phục hồi mạnh mẽ của các nền kinh tế lớn là đối tác của Việt Nam sẽ khiến cầu hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam tiếp tục ở mức cao, giúp kim ngạch xuất nhập khẩu có thể cải thiện tốt hơn so với năm 2021. Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022 sẽ có tác động và cơ hội lớn tới nền kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh đó, tăng trưởng xuất khẩu được dự báo tiếp tục là động lực tăng trưởng, phục hồi kinh tế.

 Kinh tế số của Việt Nam đã có bước tăng trưởng ấn tượng nhờ sự tăng trưởng 35% của thương mại điện tử trong năm 2021. Từ khi bắt đầu đại dịch đến nửa đầu năm 2021, Việt Nam đã có thêm 8 triệu người tiêu dùng số mới với hơn một nửa đến từ các khu vực không phải thành phố lớn, đưa quy mô nền kinh tế số Việt Nam ước đạt 21 tỷ USD (tăng trưởng 31%) và có thể đạt 57 tỷ USD vào năm 2025, theo số liệu công bố tại báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á - Tiếng gầm thập kỷ 20”.

Đổi mới sáng tạo đang trở thành động lực tăng trưởng mới của kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam liên tục được cải thiện trong những năm gần đây. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Việt Nam đã qua giai đoạn phát triển về số lượng, hiện đã bước vào giai đoạn trọng yếu, cần nhiều sự đầu tư theo chiều sâu để có thể tạo ra các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có chất lượng cao và mang tầm quốc tế.

Trong chính sách phát triển doanh nghiệp, Chính phủ đã và đang từng bước đưa khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào doanh nghiệp, hướng tới phát triển bền vững doanh nghiệp và đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.

Bên cạnh đó, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ kinh tế xanh. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Tại Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu được tổ chức trong khuôn khổ Hội nghị COP26, Thủ tướng đã công bố những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu để đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Điều này cho thấy, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu nhưng cũng có thể tận dụng chính cơ hội này để phát triển bền vững trong tương lai.

Song quá trình phục hồi kinh tế được dự báo phải đối mặt với nhiều trắc trở. Theo dự báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), chủng virus Omicron đang lây lan với tốc độ chưa từng thấy sẽ là một nguy cơ lớn đối với Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Không chỉ dốc sức phòng, chống dịch, Việt Nam cũng phải đối mặt với nguy cơ lạm phát cao khi “bóng ma” lạm phát đe doạ quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu.

Tiến sĩ Trần Toàn Thắng, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia nhận định, rủi ro nhập khẩu lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam là rất lớn, có thể ảnh hưởng đến 1 điểm phần trăm lạm phát trong năm 2022. Các yếu tố khiến lạm phát toàn cầu leo thang là xu hướng tăng cao của giá dầu, chi phí vận chuyển logistics, giá kim loại, giá lương thực, thực phẩm.

Giá vận chuyển logistics toàn cầu đã tăng hơn 20 lần trên các tuyến đường, là thành tố tác động rất lớn đến lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam năm 2022 và có ảnh hưởng tương đối dài vì dự kiến năm 2023 có thể chưa trở về mặt bằng giá thiết lập trước đại dịch.

“Thời điểm này, vấn đề kiểm soát lạm phát ở Việt Nam là cực kỳ quan trọng. Nếu chỉ nhìn vào khả năng kiềm chế được lạm phát năm 2021 ở mức dưới mục tiêu đề ra sẽ không đánh giá hết được tình hình. Đặc điểm hiện nay là lạm phát thấp chủ yếu do cầu tiêu dùng thấp, không phải do giá thấp. Nếu không đánh giá đầy đủ về tình hình lạm phát, chúng ta sẽ phải đối mặt với vấn đề lạm phát cao ngay trong quý II, quý III/2022 do ảnh hưởng từ giá nhập khẩu sang giá sản xuất, từ đó đẩy vào giá tiêu dùng”, Tiến sĩ Trần Toàn Thắng phân tích.

Viện trưởng Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh Võ Trí Thành nhận định, quá trình phục hồi kinh tế Việt Nam trong năm 2022 khó có khả năng mạnh mẽ theo hình chữ V, được dẫn dắt bởi các nền kinh tế mạnh là đối tác nằm trong các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết.
Triển vọng kinh tế năm 2022 còn nhiều thách thức, rủi ro nhưng dòng chảy chính vẫn là xu hướng phục hồi nên Việt Nam cần có những đột phá táo bạo, quyết liệt, tốc độ để tận dụng cơ hội, bắt nhịp với đà phục hồi của thế giới, gắn với thúc đẩy chuyển đổi số và các xu hướng kinh tế mới để phát triển bao trùm, bền vững.
 
“Tôi vẫn luôn có một niềm tin tích cực vào cơ hội và triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Năm 2021 đã sắp khép lại, tình huống tệ nhất đã ở lại sau lưng chúng ta. Việt Nam sẽ vượt qua mọi thách thức trong năm 2022 và trở lại lộ trình phục hồi thực sự”, Tổng giám đốc HSBC Việt Nam Tim Evans
 

Phú Quốc đón du khách quốc tế trở lại sau một thời gian dài đóng cửa vì Covid-19. (Ảnh: ĐĂNG ANH)

Phú Quốc đón du khách quốc tế trở lại sau một thời gian dài đóng cửa vì Covid-19. (Ảnh: ĐĂNG ANH)

Chỉ đạo thực hiện: THU HÀ
Tổ chức thực hiện: XUÂN BÁCH
Nội dung: TÔ HÀ, VIỆT HẢI
Trình bày: ĐĂNG PHI, BIỆN DIỆU
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN