Trên chặng đường 80 năm hình thành và phát triển, ngành ngoại giao Việt Nam đã góp phần quan trọng vào tiến trình hiện thực hóa các mục tiêu cách mạng, cũng như khát vọng gìn giữ hòa bình, kiến tạo và phát triển đất nước. Đối mặt những thử thách mới trong bối cảnh thế giới đầy biến động, với bản sắc riêng là sự kết hợp hài hòa giữa tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, linh hoạt, khéo léo, cùng khả năng thích ứng trước biến đổi thời cuộc, ngành ngoại giao Việt Nam được tin tưởng tiếp tục gặt hái nhiều thành công, góp phần đưa đất nước vững bước đi lên tiến vào kỷ nguyên mới.

Nhân dịp này, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, học giả và kiều bào cùng chia sẻ với phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại nước ngoài những đánh giá, nhận định và kỳ vọng đối với ngành ngoại giao Việt Nam.

Một nền ngoại giao bản lĩnh và trí tuệ

Bà Latana Siharaj, Phó Đại sứ Lào tại Việt Nam cho rằng, 80 năm qua, với sự lãnh đạo sáng suốt và quyết tâm đoàn kết toàn dân tộc, cùng đường lối ngoại giao bản lĩnh và trí tuệ, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ và đóng góp tích cực cho cộng đồng quốc tế.

Trả lời phỏng vấn phóng viên Báo Nhân Dân, bà Latana Siharaj, Phó Đại sứ Lào tại Việt Nam nhìn nhận, trải qua 80 năm kể từ ngày lập nước (2/9/1945), Việt Nam đã có bước chuyển mình lịch sử. Từ một quốc gia bị cấm vận, nền kinh tế còn nghèo nàn và cơ sở hạ tầng lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước đang phát triển năng động, hội nhập sâu rộng với thế giới, có uy tín và trách nhiệm cao trên trường quốc tế và khu vực. Trong quá trình đó, ngành ngoại giao Việt Nam đã có những đóng góp hết sức quan trọng, tạo nền tảng vững chắc cho các thành tựu phát triển toàn diện của đất nước.

Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2/9/1945. (Ảnh: TTXVN)

Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2/9/1945. (Ảnh: TTXVN)

Theo bà Latana Siharaj, với tầm nhìn chiến lược, ngành ngoại giao Việt Nam đã kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Sự kiên trì và linh hoạt ấy đã giúp Việt Nam không chỉ thoát khỏi thế bao vây, cấm vận, mà còn chủ động mở rộng quan hệ với hầu hết các quốc gia và tổ chức quốc tế, tham gia tích cực vào các cơ chế đa phương, đóng góp cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.

Từng học tập tại Việt Nam trong giai đoạn 2000-2004, bà Latana Siharaj đã chứng kiến một đất nước tiếp tục đổi mới với những công trình xây dựng dần mọc lên, đời sống người dân từng bước được cải thiện. Khi đó, cơ sở hạ tầng còn khiêm tốn, giao thông chưa thuận tiện như bây giờ, các hoạt động hợp tác quốc tế mới ở giai đoạn mở rộng ban đầu. Thế nhưng, tinh thần hiếu học, nghị lực vượt khó và sự mến khách của người Việt Nam đã để lại trong bà ấn tượng sâu sắc, trở thành hành trang quý giá cho con đường ngoại giao sau này.

Về đối ngoại, giai đoạn 2000–2004, Việt Nam đang trong bước chuyển mình mạnh mẽ, hội nhập sâu hơn vào khu vực và thế giới. Bà Latana Siharaj vẫn nhớ những sự kiện đối ngoại lớn mà báo chí và người dân Việt Nam thời ấy đặc biệt quan tâm, như Việt Nam tham gia tích cực vào các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mekong; ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương, đặc biệt là với Hoa Kỳ; đồng thời chuẩn bị các bước quan trọng cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Theo bà, những thành tựu này không chỉ khẳng định vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn thể hiện rõ nét triết lý đối ngoại hòa hiếu, hợp tác và phát triển.

Bà Latana Siharaj cho biết, trong hơn 20 năm qua, bà thường xuyên có cơ hội quay trở lại Việt Nam công tác. Cứ mỗi lần đặt chân tới đất nước Việt Nam, bà đều thật sự ấn tượng trước sự thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ của đất nước. Những tòa nhà cao tầng hiện đại, hệ thống giao thông đồng bộ, các khu công nghiệp, trung tâm thương mại sầm uất… đã phản ánh sự phát triển vượt bậc. Nhưng điều khiến bà xúc động hơn cả trong sự đổi thay đó, là Việt Nam vẫn giữ được những giá trị truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết, nhân ái và sự thân thiện vốn là bản sắc của dân tộc. Điều này cũng phản ánh phần nào hiệu quả của công tác ngoại giao, khi Việt Nam vừa mở cửa hội nhập, vừa bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong hai năm vừa qua khi thực hiện nhiệm vụ nhiệm kỳ tại Việt Nam, Phó Đại sứ Lào tại Việt Nam Latana Siharaj cho biết càng cảm nhận rõ hơn sự chuyên nghiệp, linh hoạt và sáng tạo của các nhà ngoại giao Việt Nam. Họ không chỉ khéo léo xử lý các vấn đề song phương và đa phương, mà còn luôn giữ được tinh thần chân thành, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau, qua đó tạo dựng niềm tin và sự ủng hộ rộng rãi từ cộng đồng quốc tế.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu tại Phiên thảo luận chung cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 79, ngày 24/9/2024. (Ảnh: TTXVN)

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu tại Phiên thảo luận chung cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 79, ngày 24/9/2024. (Ảnh: TTXVN)

Theo bà Latana Siharaj, ngành ngoại giao Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc đưa hình ảnh đất nước, con người và văn hóa Việt Nam đến gần hơn với thế giới, để cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về một Việt Nam đổi mới, hội nhập nhưng vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc. Hoạt động ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, ngoại giao nhân dân đã được triển khai đồng bộ, góp phần trực tiếp vào thu hút đầu tư, mở rộng thương mại, quảng bá du lịch, đồng thời thắt chặt tình hữu nghị giữa Việt Nam và các quốc gia, vùng lãnh thổ.

Về đường lối đối ngoại của Việt Nam hiện nay, bà Latana Siharaj nhìn nhận, Việt Nam tiếp tục kiên định nguyên tắc độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đường lối này thể hiện tầm nhìn chiến lược, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, đồng thời bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc. Trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Việt Nam vẫn giữ được thế chủ động, linh hoạt trong xử lý các vấn đề đối ngoại, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Trong quan hệ với Lào, bà Latana Siharaj khẳng định, Việt Nam luôn coi trọng và đặt ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước. Quan hệ Lào-Việt Nam, Việt Nam-Lào không chỉ là quan hệ đặc biệt, mà còn là tình anh em keo sơn, gắn bó, được vun đắp bằng máu xương và công sức của nhiều thế hệ.

Chủ tịch nước Tô Lâm hội kiến Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone tại Vientiane, ngày 11/7/2024. (Ảnh: TTXVN)

Chủ tịch nước Tô Lâm hội kiến Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone tại Vientiane, ngày 11/7/2024. (Ảnh: TTXVN)

Hai bên đã duy trì các cơ chế hợp tác song phương chặt chẽ, thường xuyên trao đổi đoàn cấp cao, tăng cường hợp tác trong mọi lĩnh vực từ chính trị, quốc phòng-an ninh, kinh tế, giáo dục, văn hóa, đến hợp tác địa phương. Đồng thời, Lào và Việt Nam luôn phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn khu vực và quốc tế như ASEAN, Liên hợp quốc, các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mekong… nhằm bảo vệ lợi ích chung và đóng góp cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực.

Phó Đại sứ Lào tại Việt Nam cho rằng thành công của Việt Nam trong công tác đối ngoại không chỉ thể hiện ở việc nâng cao vị thế đất nước, mà còn ở chỗ luôn duy trì và phát triển các mối quan hệ truyền thống quý báu, trong đó nổi bật là quan hệ giữa Việt Nam và Lào. Đây là tài sản vô giá của hai dân tộc, được xây dựng và vun đắp qua nhiều thập kỷ, cần tiếp tục gìn giữ, phát huy và truyền lại cho các thế hệ mai sau.

Thành công của Việt Nam trong công tác đối ngoại không chỉ thể hiện ở việc nâng cao vị thế đất nước, mà còn ở chỗ luôn duy trì và phát triển các mối quan hệ truyền thống quý báu, trong đó nổi bật là quan hệ giữa Việt Nam và Lào.

Bà Latana Siharaj

Bà Latana Siharaj

Nhìn lại chặng đường 80 năm xây dựng và phát triển, Việt Nam đã chứng minh rằng một quốc gia dù xuất phát điểm thấp nhưng nếu có đường lối đúng đắn, sự lãnh đạo sáng suốt và quyết tâm đoàn kết toàn dân tộc, cùng với một nền ngoại giao bản lĩnh và trí tuệ, hoàn toàn có thể vươn lên mạnh mẽ và đóng góp tích cực cho cộng đồng quốc tế.

Tiết mục hát múa ca ngợi tình đoàn kết Việt Nam-Lào trong Chương trình nghệ thuật “Màu hoa Đỏ”, tại thủ đô Viêng Chăn, ngày 19/12/2024. (Ảnh: TTXVN)

Tiết mục hát múa ca ngợi tình đoàn kết Việt Nam-Lào trong Chương trình nghệ thuật “Màu hoa Đỏ”, tại thủ đô Viêng Chăn, ngày 19/12/2024. (Ảnh: TTXVN)

Việt Nam - người bạn và đối tác đáng tin cậy trong cộng đồng quốc tế

Ông Uch Leang, quyền Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu châu Á, châu Phi và Trung Đông thuộc Viện Quan hệ quốc tế Campuchia, Viện Hàn lâm Hoàng gia Campuchia, kiêm Chủ tịch Hội Cựu lưu học sinh Campuchia tại Việt Nam khẳng định, Việt Nam đã và đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả, đạt được nhiều thành tựu quan trọng mang tầm chiến lược, tạo nên một diện mạo mới trong chính sách đối ngoại cởi mở, góp phần vào hòa bình và phát triển. Điều đó đã nâng cao hơn nữa vị thế và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, thể hiện vai trò quan trọng của Việt Nam trong việc góp phần tạo dựng và duy trì môi trường hòa bình, ổn định, thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước.

Việt Nam đã và đang thể hiện vai trò một cách xuất sắc với tư cách là một người bạn và đối tác đáng tin cậy trong cộng đồng quốc tế.

Ông Uch Leang

Ông Uch Leang

Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước có mối quan hệ đặc biệt là Campuchia, Lào, và Cuba. Việt Nam hiện có 13 đối tác chiến lược toàn diện, 10 đối tác chiến lược và 15 đối tác toàn diện. Việt Nam đã và đang thể hiện vai trò một cách xuất sắc với tư cách là một người bạn và đối tác đáng tin cậy trong cộng đồng quốc tế. Nhiều sáng kiến và đề xuất quan trọng đã được Việt Nam tích cực tham gia, đặc biệt trong các hoạt động của ASEAN, Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác.

Chủ tịch nước Lương Cường và Quốc vương Campuchia Norodom Sihamoni đến tham quan Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu-Quốc Tử Giám và thưởng thức các loại trà quý của Việt Nam, trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, ngày 29/11/2024. (Ảnh: Nhandan.vn)

Chủ tịch nước Lương Cường và Quốc vương Campuchia Norodom Sihamoni đến tham quan Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu-Quốc Tử Giám và thưởng thức các loại trà quý của Việt Nam, trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, ngày 29/11/2024. (Ảnh: Nhandan.vn)

Việt Nam và Campuchia đã trải qua 58 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, hai nước cùng nhau vượt qua thử thách, rèn luyện qua mọi giai đoạn chính trị, sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và cùng xây dựng nền tảng quan hệ vững chắc. Bên cạnh đó, chính sách đối ngoại của hai nước có nhiều điểm tương đồng, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời giữa Campuchia và Việt Nam ngày càng phát triển vững chắc.

Từ năm 2005 đến nay, hai bên tiếp tục thúc đẩy và nâng tầm quan hệ, tăng cường sự gắn bó mật thiết hơn nữa. Hai nước đã thống nhất phát triển quan hệ song phương trên cơ sở phương châm: “Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Trên nền tảng đó, quan hệ Việt Nam-Campuchia không ngừng mở rộng trong tất cả các lĩnh vực, từng bước đi vào chiều sâu, hướng tới các thỏa thuận chiến lược dài hạn cấp quốc gia và đạt đến tầm cao mới rõ rệt hơn, sâu sắc hơn, hiệu quả hơn trên mọi phương diện.

Quan hệ Việt Nam-Campuchia đã trở thành tài sản chung vô giá của hai dân tộc, đóng vai trò bảo đảm cho sự ổn định lâu dài, không gì có thể thay thế được, bất chấp những biến động phức tạp của tình hình chính trị khu vực và thế giới hiện nay. Hai nước chúng ta sẽ tiếp tục sát cánh bên nhau, gắn bó mật thiết hơn nữa để hiện thực hóa tầm nhìn trở thành quốc gia phát triển vào năm 2050 của Campuchia và tầm nhìn trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045 của Việt Nam.

Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone và Thủ tướng Campuchia Hun Manet ăn sáng và làm việc trong chuyến tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 44, 45 và các hội nghị cấp cao liên quan tại Vientiane (Lào), ngày 9/10/2024. (Ảnh: TTXVN)

Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone và Thủ tướng Campuchia Hun Manet ăn sáng và làm việc trong chuyến tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 44, 45 và các hội nghị cấp cao liên quan tại Vientiane (Lào), ngày 9/10/2024. (Ảnh: TTXVN)

Ngoại giao góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam

Là học giả kỳ cựu có nhiều năm nghiên cứu về Việt Nam và quan hệ Trung Quốc-Việt Nam, bà Phan Kim Nga, Giáo sư, Tiến sĩ Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, gửi lời chúc mừng nồng nhiệt nhân kỷ niệm 80 năm thành lập ngành ngoại giao Việt Nam; nhấn mạnh, trong 80 năm qua, ngành ngoại giao Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.

Chính nhờ đường lối ngoại giao đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt thời kỳ cách mạng, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ của các nước trên toàn thế giới, đạt được thành công trong cách mạng và sự nghiệp thống nhất đất nước.

Ngành ngoại giao Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.

Bà Phan Kim Nga

Bà Phan Kim Nga

Trong thời kỳ Đổi mới, Việt Nam đã kiên định đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Điều này đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam và không ngừng nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.

Từ ngày 5-10/11/1991, Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt sang thăm Trung Quốc theo lời mời của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và đồng chí Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, và chứng kiến Lễ ký hiệp định giữa hai nước. (Ảnh: TTXVN)

Từ ngày 5-10/11/1991, Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt sang thăm Trung Quốc theo lời mời của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và đồng chí Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, và chứng kiến Lễ ký hiệp định giữa hai nước. (Ảnh: TTXVN)

Giáo sư Phan Kim Nga cho biết, ngày 18/1/1950 là ngày Trung Quốc và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, đồng thời cũng là một trong những “thắng lợi về ngoại giao” đầu tiên của Việt Nam; bày tỏ hy vọng, ngành ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy truyền thống quan hệ hữu nghị giữa hai nước, bám sát dòng chảy chính của việc tích cực thúc đẩy sự phát triển của quan hệ song phương, tiếp tục có những đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy quan hệ Trung Quốc-Việt Nam trong thời kỳ mới, mang lại lợi ích cho nhân dân hai nước và hòa bình, ổn định trên thế giới.

Dẫn câu nói của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình về việc quan hệ Trung Quốc-Việt Nam đã vượt lên trên quan hệ song phương theo nghĩa thông thường và là Cộng đồng chia sẻ tương lai có ý nghĩa chiến lược, bà Phan Kim Nga nhấn mạnh, ngành ngoại giao đã có những đóng góp to lớn trong việc xây dựng và không ngừng nâng tầm quan hệ song phương trong suốt 75 năm qua kể từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao; làm nổi bật 4 đặc trưng riêng của quan hệ hai nước là “sơn thủy tương liên, văn hóa tương thông, lý tưởng tương đồng, vận mệnh tương quan”, cũng như nguồn “gene đỏ” có một không hai, xuyên suốt trong dòng chảy lịch sử quan hệ hai nước.

Việc hiểu biết sâu sắc về đặc thù của mối quan hệ giữa hai nước và nắm bắt được những đặc điểm cốt lõi cũng như quy luật vận hành của mối quan hệ này chắc chắn sẽ có ý nghĩa chiến lược to lớn trong việc thúc đẩy và duy trì đường hướng phát triển đúng đắn của quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.

Chiều 14/4/2025, tại Trụ sở Trung ương Đảng, ngay sau Lễ đón chính thức, Tổng Bí thư Tô Lâm hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. (Ảnh: Nhandan.vn)

Chiều 14/4/2025, tại Trụ sở Trung ương Đảng, ngay sau Lễ đón chính thức, Tổng Bí thư Tô Lâm hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. (Ảnh: Nhandan.vn)

Nhìn lại 75 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, bất chấp tình hình thế giới luôn biến động, hai Đảng, hai nước vẫn luôn ủng hộ lẫn nhau, cùng nhau bảo vệ sự an toàn của chế độ xã hội chủ nghĩa, kiên trì cải cách và đổi mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa, và đã chuyển đổi thành công mô hình phát triển xã hội chủ nghĩa của mỗi nước. Điều này không chỉ phục vụ lợi ích cơ bản của hai Đảng và nhân dân hai nước, mà còn thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới, đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới.

Nhìn về tương lai, trước những biến đổi toàn cầu sâu sắc chưa từng thấy trong một thế kỷ, học giả Phan Kim Nga bày tỏ tin tưởng, các nhà lãnh đạo của hai Đảng và hai nước có đủ trí tuệ để giữ vững khát vọng ban đầu và tiếp tục nắm bắt những đặc điểm cốt lõi và quy luật phát triển của quan hệ song phương; bám sát định hướng “6 hơn” nêu trong Tuyên bố chung, cụ thể là “tin cậy chính trị cao hơn; hợp tác quốc phòng-an ninh thực chất hơn; hợp tác thực chất sâu sắc hơn; nền tảng xã hội vững chắc hơn; phối hợp đa phương chặt chẽ hơn; bất đồng được kiểm soát, giải quyết tốt hơn”, để không ngừng làm sâu sắc hơn việc xây dựng một Cộng đồng chia sẻ tương lai Trung Quốc-Việt Nam có ý nghĩa chiến lược, đóng góp trí tuệ và sức lực vào công cuộc phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa vào giữa thế kỷ này và kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Thiếu nhi Việt-Trung giao lưu với Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, ngày 6/8/2025. (Ảnh: TTXVN)

Thiếu nhi Việt-Trung giao lưu với Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, ngày 6/8/2025. (Ảnh: TTXVN)

Ngoại giao Việt Nam tiếp tục thể hiện bản lĩnh trong kỷ nguyên mới

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập ngành ngoại giao Việt Nam (28/8/1945 - 28/8/2025), chuyên gia Grigory Trofimchuk, Chủ tịch Hội đồng chuyên gia Quỹ hỗ trợ nghiên cứu khoa học “Ý tưởng Á-Âu” đã có những chia sẻ với phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Nga về những dấu ấn và thành tựu của ngành ngoại giao Việt Nam trong suốt 8 thập kỷ qua.

Cả thế giới biết đến một Việt Nam đang phát triển, mới mẻ. Một Việt Nam với chính sách dân làm gốc, chú trọng phát triển kinh tế…

Ông Grigory Trofimchuk

Ông Grigory Trofimchuk

Chuyên gia Grigory Trofimchuk cho rằng, hoạt động ngoại giao tồn tại ở tất cả các quốc gia trên thế giới, nhưng ở mỗi quốc gia đều có một nền ngoại giao với những đặc tính riêng biệt, phản ánh bản chất nhà nước và thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao phó. Theo chuyên gia, những nét đặc trưng của ngoại giao Việt Nam có thể được mô tả qua một số điểm chính như sau:

Thứ nhất, nền ngoại giao Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng. Tư tưởng ngoại giao mang tên Người được xem là di sản vô giá đối với nền ngoại giao Việt Nam. Đây là chìa khóa giúp thực hiện thắng lợi, hiệu quả đường lối, và chính sách đối ngoại của Việt Nam, từ thuở đầu cách mạng tới thời kỳ Đổi mới, hội nhập quốc tế. Đó là hệ thống phong phú, đặc sắc các nguyên tắc, quan điểm, phương châm chỉ đạo về các vấn đề thế giới, thời đại và đường lối, chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam trong quan hệ quốc tế.

Thứ hai, nền ngoại giao Việt Nam được chính thức hình thành từ năm 1945 trong điều kiện chính trị và quốc tế rất khó khăn. Nhân dân Việt Nam đã phải trải qua nhiều thập kỷ đấu tranh giành độc lập, chống lại nhiều kẻ thù xâm lược. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, ngành ngoại giao Việt Nam góp phần không nhỏ, củng cố hình ảnh chính thức và toàn quyền của nước Việt Nam độc lập. Những phát ngôn chính xác có giá trị mạnh mẽ hơn cả vũ khí trong chiến tranh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân thủ đô Hà Nội đón chào Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô Kliment Voroshilov sang thăm Việt Nam, ngày 20/5/1957. (Ảnh: TTXVN)

Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân thủ đô Hà Nội đón chào Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô Kliment Voroshilov sang thăm Việt Nam, ngày 20/5/1957. (Ảnh: TTXVN)

Thứ ba, ngoại giao Việt Nam đã trụ vững và trở thành một trong những nền ngoại giao hàng đầu châu Á, liên tiếp giành được thắng lợi. Điều này khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của một dân tộc, một đất nước biết cân bằng chính sách đối ngoại, mở rộng danh sách bạn bè và đối tác trên mọi phương diện.

Thứ tư, công tác đối ngoại của Việt Nam đạt được những kết quả và dấu ấn to lớn trong thời đại hiện nay. Việt Nam đã và đang tham gia tích cực, hiệu quả vào các tổ chức hội nhập hàng đầu như ASEAN, APEC, WTO và một số tổ chức khác…

Ông Grigory Trofimchuk khẳng định, vị thế và uy tín ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế ngày nay đã tự nói lên tất cả. Gần đây, trên các phương tiện truyền thông thường nhắc tới cụm từ: “Ngoại giao đóng vai trò chủ đạo trong hội nhập quốc tế của Việt Nam”. Cả thế giới biết đến một Việt Nam đang phát triển, mới mẻ. Một Việt Nam với chính sách dân làm gốc, chú trọng phát triển kinh tế… Bên cạnh đó, việc Đông Nam Á hiện trở thành một trung tâm chính trị và kinh tế lớn của thế giới là minh chứng rõ ràng nhất cho sự thành công của ngành ngoại giao các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.

Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ bước vào kỷ nguyên mới, ngành ngoại giao Việt Nam đang đứng trước nhiều nhiệm vụ, đòi hỏi sự nỗ lực, chủ động và sáng tạo để thích ứng với tình hình mới. Chủ tịch Hội đồng chuyên gia Quỹ hỗ trợ nghiên cứu khoa học “Ý tưởng Á-Âu” bày tỏ tin tưởng, với thế và lực hiện nay, ngành ngoại giao Việt Nam tiếp tục thể hiện bản lĩnh, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn hội kiến Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, chiều 20/6/2024. (Ảnh: TTXVN)

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn hội kiến Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, chiều 20/6/2024. (Ảnh: TTXVN)

Việt Nam sẽ tiếp tục giành được sự tín nhiệm cao

Học giả Thái Lan, kiều bào, sinh viên Việt Nam tại Thái Lan đánh giá cao vai trò của ngành ngoại giao trong việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Thananan Boonwanna, nhà nghiên cứu lịch sử người Thái Lan khẳng định, ngành ngoại giao Việt Nam đã có đóng góp rất lớn từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập ngày 2/9/1945. Bà Thananan Boonwanna nhấn mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của ngành ngoại giao Việt Nam. Thời kỳ này, công tác ngoại giao đã góp phần đưa đất nước Việt Nam vượt qua những khó khăn, thách thức không hề nhỏ, khẳng định một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập, tự chủ.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Thananan Boonwanna, hiện nay, Việt Nam tiếp tục triển khai chính sách ngoại giao mang đậm bản sắc ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Việt Nam theo đuổi chính sách ngoại giao chủ động, linh hoạt, thiện chí và thống nhất. Ngành ngoại giao Việt Nam có nhiều đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam từ trước đến nay.

Ngành ngoại giao Việt Nam có nhiều đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam từ trước đến nay.

Bà Thananan Boonwanna

Bà Thananan Boonwanna

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Thananan Boonwanna, đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam, kiên định với các nguyên tắc độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa và mở rộng quan hệ quốc tế đa phương, khẳng định Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Điều này góp phần nâng cao uy tín, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Lễ kéo cờ Việt Nam tại trụ sở Liên hợp quốc ngày 20/9/1977, đánh dấu sự kiện Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức lớn nhất hành tinh này. (Ảnh: TTXVN)

Lễ kéo cờ Việt Nam tại trụ sở Liên hợp quốc ngày 20/9/1977, đánh dấu sự kiện Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức lớn nhất hành tinh này. (Ảnh: TTXVN)

Trong số sinh viên, học sinh Việt Nam đang nghiên cứu, học tập tại Thái Lan, chúng tôi đã tìm gặp bạn Phạm Nguyễn Như Quỳnh, Chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam tại Thái Lan. Theo Quỳnh, ngoại giao Việt Nam từ lâu đã là “mặt trận mềm” hòa quyện cùng mặt trận đấu tranh quân sự và chính trị của dân tộc Việt Nam.

Việc Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng đã mở ra nhiều cơ hội việc làm, hợp tác kinh doanh và phát triển công nghệ. Đây chính là nguồn động lực vững chắc giúp thế hệ trẻ an tâm học tập, nỗ lực cống hiến và đồng hành bền bỉ cùng đất nước trên con đường phát triển thịnh vượng.

Phạm Nguyễn Như Quỳnh

Phạm Nguyễn Như Quỳnh

Phạm Nguyễn Như Quỳnh khẳng định, đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng và Nhà nước ta với tinh thần “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại” không chỉ là kim chỉ nam cho chính sách ngoại giao mà còn là nền tảng kiên cố giúp Việt Nam khẳng định vị thế một cách rõ nét và bền vững trên bản đồ quốc tế. Trước hết, sự kiên định với chủ trương độc lập, tự chủ đã giúp đất nước giữ vững chủ quyền thiêng liêng và toàn vẹn lãnh thổ trong mọi hoàn cảnh, đồng thời xây dựng quan hệ hữu nghị dựa trên nguyên tắc tôn trọng và bình đẳng lẫn nhau. Hòa bình và hợp tác trở thành nền móng vững chắc để Việt Nam mở rộng vòng tay kết nối với bạn bè khắp bốn phương, không chỉ trong khu vực mà còn trên phạm vi toàn cầu, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa và giáo dục.

Hội nghị Gặp gỡ Thái Lan 2024 tại Việt Nam.

Hội nghị Gặp gỡ Thái Lan 2024 tại Việt Nam.

Dưới góc nhìn của một lưu học sinh, Quỳnh cho biết, rất thấm thía ý nghĩa to lớn của đường lối đối ngoại đúng đắn khi chứng kiến môi trường học tập và nghiên cứu quốc tế dành cho sinh viên Việt Nam ngày càng rộng mở. Các chương trình trao đổi sinh viên, hợp tác giáo dục và nghiên cứu liên tục được đẩy mạnh, tạo ra cơ hội quý báu để thế hệ trẻ tiếp thu tri thức tiên tiến, trải nghiệm đa dạng và góp phần xây dựng đất nước bằng những hiểu biết, kinh nghiệm sâu sắc. Trong bối cảnh toàn cầu, các quốc gia luôn tìm kiếm đối tác ổn định, hòa bình và đáng tin cậy để cùng phát triển bền vững. Việt Nam đã khéo léo xây dựng hình ảnh một đất nước thân thiện, hòa bình và hợp tác, từ đó dễ dàng thu hút đầu tư, thúc đẩy hợp tác giáo dục và nghiên cứu khoa học.

Thuộc thế hệ trẻ, Phạm Nguyễn Như Quỳnh cho biết bản thân nhận thức rõ việc Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng đã mở ra nhiều cơ hội việc làm, hợp tác kinh doanh và phát triển công nghệ. Đây chính là nguồn động lực vững chắc giúp thế hệ trẻ an tâm học tập, nỗ lực cống hiến và đồng hành bền bỉ cùng đất nước trên con đường phát triển thịnh vượng.

Ông Nguyễn Phi Hà, Giám đốc điều hành Công ty trách nhiệm hữu hạn Siam Thai Son (CEO Siam Thai Son Co.,Ltd), một kiều bào trẻ ở Thái Lan cho biết, ông rất ngưỡng mộ và thán phục những “nhà ngoại giao” kỳ cựu, có nhiều đóng góp cho đất nước. Thế hệ trẻ cũng như giới doanh nghiệp hiện nay đã may mắn được kế thừa thành quả to lớn mà các thế hệ đi trước đã dày công xây dựng, bảo vệ và phát triển. Tại nước ngoài, mỗi doanh nghiệp đều có thể trở thành một “đại sứ” của đất nước, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam, một quốc gia thân thiện, giàu bản sắc văn hóa, có lịch sử hào hùng, con người hiếu khách và đáng tin cậy.

Thế hệ trẻ cũng như giới doanh nghiệp hiện nay đã may mắn được kế thừa thành quả to lớn mà các thế hệ đi trước đã dày công xây dựng, bảo vệ và phát triển.

Anh Nguyễn Phi Hà

Anh Nguyễn Phi Hà

Chặng đường vẻ vang, tự hào của nền ngoại giao Việt Nam

Các nhà nghiên cứu, tri thức người Pháp và Việt kiều cho rằng, trong chặng đường 80 năm đấu tranh giành độc lập và gìn giữ chủ quyền dân tộc, ngoại giao Việt Nam đã góp phần quan trọng vào hành trình hiện thực hóa các mục tiêu cách mạng, cũng như khát vọng gìn giữ hòa bình, kiến tạo và phát triển đất nước.

Theo ông Baptiste Belmondo, nhà nghiên cứu Pháp về lịch sử và văn hóa châu Á, những bước đi và dấu ấn của ngoại giao Việt Nam luôn gắn liền với tư tưởng và vai trò chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946), Tạm ước (14/9/1946), Hiệp định Geneva (năm 1954) và Hiệp định Paris (năm 1973) dẫn tới chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975 để đất nước Việt Nam được thống nhất.

Nhân dân Pháp diễu hành phản đối cuộc chiến do Mỹ tiến hành ở Việt Nam năm 1972. (Ảnh: Lê Xuân Tấn)

Nhân dân Pháp diễu hành phản đối cuộc chiến do Mỹ tiến hành ở Việt Nam năm 1972. (Ảnh: Lê Xuân Tấn)

Ông Baptiste Belmondo nhấn mạnh: Lịch sử đã chứng minh hòa bình và phát triển luôn là yêu cầu tiên quyết đối với sự tồn vong của mỗi quốc gia. Khi xảy ra xung đột hay biến động chính trị với nước khác, ngoại giao luôn là "vũ khí" có vai trò vô cùng quan trọng. Với Việt Nam, theo các tài liệu lịch sử, ngay từ ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò quan trọng của ngoại giao như mặt trận quan trọng trong đấu tranh cho khát vọng hòa bình và phát triển. Điều đó cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xác định đúng đắn con đường đấu tranh ngoại giao cho Nhà nước Việt Nam non trẻ để đối phó với thù trong, giặc ngoài.

Việc ký Tạm ước có thể xem là bước nhân nhượng nhưng khó có thể tốt hơn vì khi đó lực lượng của Việt Nam yếu hơn hẳn so với quân Pháp và nhân nhượng là để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, vãn hồi hòa bình. Hơn nữa, khi đó còn có các lực lượng nước ngoài khác chiếm đóng. Đó có thể được coi là "nước cờ ngoại giao xuất sắc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hòa hoãn để tránh chiến tranh, tranh thủ thời gian để phát triển lực lượng kháng chiến.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Việt Nam tiến hành  đấu tranh cùng lúc trên cả mặt trận quân sự và ngoại giao hay còn gọi là “vừa đánh, vừa đàm”, nhằm tranh thủ đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới với cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc. Dấu ấn nổi bật nhất là giai đoạn đàm phán Hiệp định Paris.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, tại Pháp, ngày 27/1/1973. (Ảnh: TTXVN)

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, tại Pháp, ngày 27/1/1973. (Ảnh: TTXVN)

Nhà nghiên cứu Baptiste Belmondo nhấn mạnh: Cuộc đàm phán để đi đến ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là một dấu ấn ngoại giao được cả thế giới quan tâm và coi là một trong những thành công lớn nhất trong lịch sử đấu tranh ngoại giao thế giới. Thành công trên bàn đàm phán phải có lợi thế từ chiến trường. Việt Nam đã có điều kiện thuận lợi đó cùng với kết quả rất tích cực từ hoạt động ngoại giao nhân dân quốc tế. Sự ủng hộ rộng rãi từ nhân dân tiến bộ ở Pháp và nhiều nước trên khắp thế giới là nguồn động viên rất lớn đối với Việt Nam, đồng thời tạo ra áp lực mạnh mẽ đối với đoàn đàm phán của phía đối phương tại đàm phán Hiệp định Paris. Có thể nói, việc ký kết Hiệp định Paris là thắng lợi của sức mạnh tổng hợp của Việt Nam, trong đó có thắng lợi về mặt quân sự, thắng lợi từ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế và thắng lợi từ chiến dịch ngoại giao nhân dân.

Thành công tại đàm phán Hiệp định Paris là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiến tới giải phóng miền nam vào ngày 30/4/1975, nếu không chiến tranh có thể kéo dài hơn. Ngoại giao đã góp phần đưa đất nước Việt Nam tới hòa bình và thống nhất đất nước và đưa Việt Nam từ chỗ không có tên trên bản đồ chính trị thế giới đến vai trò, vị trí ngày càng tăng trong nền chính trị thế giới, kinh tế và cả văn hóa toàn cầu.

Xe tăng quân Giải phóng đánh chiếm Dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. (Ảnh: TTXVN)

Xe tăng quân Giải phóng đánh chiếm Dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. (Ảnh: TTXVN)

Theo Tiến sĩ, bác sĩ Võ Toàn Trung, điểm nổi bật trong ngoại giao Việt Nam là tinh thần hòa hiếu, nhân ái.  

Khi đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với thế giới rằng dân tộc Việt Nam có quyền độc lập tự do và nguyện đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và tài sản để bảo vệ quyền độc lập và tự do ấy. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Bác Hồ đã nhấn mạnh một điểm rất đặc biệt thể hiện một tinh thần nhân đạo xuyên suốt của người Việt Nam. Bản tính nhân từ, bác ái của dân tộc Việt Nam cũng là sợi chỉ xuyên suốt cho phương châm ngoại giao của Việt Nam. Tinh thần ngoại giao ấy đã có từ rất lâu trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Trên tinh thần xuyên suốt ấy, 80 năm trước, Bác Hồ đã luôn có ý nguyện về xây dựng mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Mỹ mà chúng ta có thể thấy trong bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi vào tháng 2/1946 đến Tổng thống Mỹ Harry Truman. Đó là sự mong muốn Việt Nam có quan hệ hợp tác đầy đủ với Mỹ.

Tuy vậy, khi đất nước lâm nguy thì mọi người Việt Nam sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc và kiên quyết đấu tranh trên trường quốc tế để bảo vệ quyền tự do độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Chúng ta đấu tranh vừa kiên quyết nhưng cũng hết sức mềm dẻo và vị tha khi chúng ta đã giành được độc lập, sẵn sàng giảng hoà để cùng phát triển lâu dài.

Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch phát biểu trong buổi dạ hội nhân dịp Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam, tối 4/2/1994, tại khách sạn Thắng Lợi (Hà Nội). (Ảnh: TTXVN)

Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch phát biểu trong buổi dạ hội nhân dịp Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam, tối 4/2/1994, tại khách sạn Thắng Lợi (Hà Nội). (Ảnh: TTXVN)

Đấu tranh ngoại giao để giữ vững chủ quyền dân tộc là mục tiêu bất di bất dịch nhưng phương thức áp dụng thì uyển chuyển tùy theo tình huống và tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các nước trên thế giới. Tinh thần ngoại giao ấy của Bác Hồ cũng là sợi dây dẫn đường xuyên suốt hành trình giành độc lập tự do của dân tộc ta và cũng là kim chỉ nam cho đường lối đối ngoại của Việt Nam sau khi giành độc lập, xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Là một đất nước nghèo nàn và chậm phát triển trong những năm Pháp đô hộ và phải trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt sau khi tuyên bố độc lập năm 1945, dân tộc Việt Nam đã trải qua bao khó khăn, mất mát để giành lại toàn vẹn giang sơn. Sau chiến tranh, từ đất nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, Việt Nam đã lột xác để ngày hôm nay bước vào nhóm các nước thu nhập trung bình cao và phấn đấu trở thành nước phát triển trong những thập kỷ tới. Nền ngoại giao Việt Nam đã góp phần to lớn vào kỳ tích ấy.

Mong muốn và sẵn sàng là người bạn chân thành với các nước trên thế giới đã giúp Việt Nam thành công trong việc giữ gìn hòa bình và xây dựng đất nước, tranh thủ được sự giúp đỡ của cả thế giới. Việt Nam tạo được niềm tin và uy tín trên trường quốc tế cũng chính từ chính sách ngoại giao chung thủy với bè bạn đã giúp đỡ, ủng hộ mình và sẵn sàng xây dựng quan hệ đối tác tin cậy với các nước khác.

Người dân Việt Nam hưởng ứng Chương trình vận động hỗ trợ nhân dân Cuba, từ ngày 13/8-16/10/2025. (Ảnh: TTXVN)

Người dân Việt Nam hưởng ứng Chương trình vận động hỗ trợ nhân dân Cuba, từ ngày 13/8-16/10/2025. (Ảnh: TTXVN)

Trong giai đoạn phát triển mới, để trở thành đất nước phát triển, hơn bao giờ hết, Việt Nam càng cần sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước phát triển trên thế giới. Sự thành công của nền ngoại giao Việt Nam sẽ đóng vai trò quyết định cho sự ổn định và phồn thịnh của đất nước.

80 năm kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đến nay là một chặng đường ghi dấu nhiều cột mốc lịch sử của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu lịch sử ấy kết đọng lại thành hành trang để dân tộc ta tiến bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

Theo PGS. TS. Trần Lê Hưng - Giảng viên Đại học Gustave Eiffel (Pháp), ngoại giao Việt Nam đã tạo ra “mã ID” có bản sắc riêng và đáng tự hào, được định hình từ sự kết hợp giữa tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, sự linh hoạt, khéo léo trong ngoại giao, và khả năng thích ứng với những biến đổi của thời cuộc. Thế giới nhìn nhận Việt Nam như một quốc gia có lịch sử hào hùng, có nền văn hóa đa dạng, có khả năng vượt qua khó khăn, và có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Sự kết hợp giữa đấu tranh và ngoại giao đã tạo nên hình ảnh một Việt Nam độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác vì tương lai tốt đẹp.

Ngoại giao Việt Nam đã tạo ra “mã ID” có bản sắc riêng và đáng tự hào, được định hình từ sự kết hợp giữa tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, sự linh hoạt, khéo léo trong ngoại giao, và khả năng thích ứng với những biến đổi của thời cuộc.

Đó là tinh thần bất khuất, kiên cường và đoàn kết để giữ gìn độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là tinh thần giữ gìn và phát huy truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc, không ngừng học hỏi, phát triển, hài hòa, trân trọng sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế hướng tới mục đích cùng chung sống và cùng phát triển.

Dấu ấn nổi bật nhất của "ngoại giao cây tre Việt Nam" là luôn mềm mại, khôn khéo, linh hoạt, sáng tạo nhưng cũng kiên cường, quyết liệt, dẻo dai và vững chắc. Chiến lược lâu dài không thay đổi, sách lược tùy từng thời kì có thể thay đổi nhưng cuối cùng đều vì mục tiêu chiến lược chung: hòa bình và phát triển.    

Ngày 26/5/2025, trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Phu nhân Brigitte Macron đã cùng Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân Ngô Phương Ly tới thăm Văn Miếu-Quốc Tử Giám, ngôi trường quốc học đầu tiên của Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)

Ngày 26/5/2025, trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Phu nhân Brigitte Macron đã cùng Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân Ngô Phương Ly tới thăm Văn Miếu-Quốc Tử Giám, ngôi trường quốc học đầu tiên của Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)

PGS. TS. Trần Lê Hưng nhấn mạnh, với truyền thống văn hóa sâu sắc và bản sắc dân tộc riêng, Việt Nam luôn xây dựng hình ảnh trong mắt bạn bè quốc tế là một quốc gia mạnh mẽ, hòa hiếu và hiện đại. Đất nước chúng ta luôn bảo vệ và giữ gìn sâu sắc những giá trị truyền thống dân tộc như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc đúng như câu nói "giữ gốc, vươn xa".

PGS. TS. Trần Lê Hưng nhận định: Trong bối cảnh thế giới nhiều biến động như hiện nay, vai trò ngoại giao đa phương đối với an ninh quốc gia và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đóng vai trò chiến lược và toàn diện. Việt Nam tiếp tục khai thác hiệu quả sức mạnh tổng hợp, trong đó chú trọng tới sức mạnh mềm, sức mạnh của luật pháp quốc tế, của liên kết và hợp tác đa phương để làm cơ sở hội nhập vững chắc, giữ vững chủ quyền và khẳng định vai trò trên trường quốc tế.

Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Do vậy, ngoại giao tiếp tục có vai trò rất quan trọng. Trong đó, ngoại giao khoa học giúp tận dụng tối đa lực lượng học giả và trí thức Việt Nam ở nước ngoài.

Ngày xuất bản: 26/8/2025

Tổ chức thực hiện: Chu Hồng Thắng - Phạm Trường Sơn

Tác giả: Nhóm phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại nước ngoài

Trình bày: Thanh Thể - Nhã Nam