MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM  GIÁ TRỊ CỐT LÕI LÀM NÊN NHỮNG THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

                                                            PGS, TS Nguyễn Danh Tiên
Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trải qua 95 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng  ta đã lãnh đạo Nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để giành độc lập, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng đã để lại những bài học kinh nghiệm quý – giá trị cốt lõi làm nên thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.

Thứ nhất là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Đây là bài học cơ bản, xuyên suốt các thời kỳ lịch sử. Tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam[1], Chính cương vắn tắt của Đảng xác định: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2]; tiếp đó, Luận cương Chính trị tháng 10 năm 1930 chỉ rõ con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là “… bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã xác định con đường cách mạng Việt Nam là: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã xác định con đường cách mạng Việt Nam là: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Trong những năm 1930-1945, đấu tranh giành độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, CNXH là phương hướng tiến lên. Kiên định với con đường, mục tiêu đã lựa chọn, Chính cương Đảng Lao động Việt Nam được thông qua tại Đại hội lần thứ II của Đảng (năm 1951) xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “…đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội”[4].

Thực hiện đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù,với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Gieneva (21/7/1954) về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và Đông Dương.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã quyết định: “đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam”[5]. Chủ trương kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong những năm 1954-1975 là sự thành công của Đảng khi “đã kết hợp thành công hai loại quy luật: quy luật của chiến tranh cách mạng với quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa, do đó đã phát huy được sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm phục vụ chiến tranh cứu nước và giữ nước, đồng thời vẫn tiếp tục phát triển công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên một số mặt”[6]. Thành công đó đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã kiên định độc lập dân tộc trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và bảo đảm sự độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đồng thời, không ngừng bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trên cơ sở xác định rõ: nội hàm, mục tiêu, phương hướng của thời kỳ quá độ; những đặc trưng và trụ cột của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhờ đó, sau gần 40 năm đổi mới, từ một nước nghèo, kém phát triển, Việt Nam trở thành một nước có thu nhập trung bình. Hết năm 2024, quy mô nền kinh tế xếp thứ 34 trên thế giới, bình quân đầu người đạt 4.700 USD; lần đầu tiên thu ngân sách đạt trên 2 triệu tỷ đồng, xuất khẩu trên 400 tỷ USD[7].

Thứ hai là phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lấy dân là gốc.

Đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng xác định là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình vận động cách mạng tháng Tám năm 1945, nhằm tranh thủ mọi lực lượng yêu nước chống thực dân, phát xít, Trung ương Đảng quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn “…liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”[8]. Nhờ vậy, Đảng đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, triệu người như một làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc – kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng xác định là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với sự đồng lòng của toàn dân tộc và tinh thần: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”[9],toàn thể dân tộc Việt Nam một lần nữa đứng lên đấu tranh giành lại nền độc lập, giải phóng dân tộc.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra đã trở thành lẽ sống, phương châm hành động của các thế hệ người Việt Nam. Sự đồng lòng của cả dân tộc đã làm nên thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới, trên quan điểm: “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[10] và với phương châm “đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”[11], Đảng đã chỉ đạo Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đẩy mạnh các cuộc vận động, các phong trào thi đua nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc để đóng góp công sức, trí tuệ xây dựng đất nước Việt Nam phát triển nhanh, bền vững.

Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”; “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”, Đảng ta luôn coi nhân dân là đối tượng phục vụ, tin tưởng, tôn trọng nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ảnh tư liệu.

Ảnh tư liệu.

Ảnh: Báo QĐND

Ảnh: Báo QĐND

Thứ ba là kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: sức mạnh dân tộc đóng vai trò quyết định thì sức mạnh thời đại giữ vai trò tạo điều kiện thuận lợi. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ đường lối đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”[12]. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng chủ trương tăng cường nguồn nội lực (sức người, sức của) của toàn quân, toàn dân đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ về vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân loại tiến bộ để tiếp thêm sức mạnh cho sự nghiệp cách mạng, đem lại những thắng lợi to lớn cho dân tộc.

Qua thực tiễn lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhờ chú trọng khơi dậy, phát huy nội lực và nguồn ngoại lực nên đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; vị thế và uy tín của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng khẳng định: “Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[13]. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhằm đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người quan trọng nhất”[14].

Qua thực tiễn lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhờ chú trọng khơi dậy, phát huy nội lực và nguồn ngoại lực nên đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; vị thế và uy tín của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.

Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Thứ tư là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Từ khi ra đời đến nay, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành những thắng lợi vĩ đại trong thế kỷ XX: Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kết thúc 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử trong thời kỳ đổi mới.

95 năm qua, trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng, Đảng đã đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế của thời đại trên nguyên tắc kiên định với mục tiêu đã chọn, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; chính trị - xã hội ổn định; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố vững chắc; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Công cuộc đổi mới đã đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết của tình hình, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù hợp với thực tiễn của đất nước và xu thế phát triển của thời đại. 

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam 95 năm qua đã minh chứng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, tạo nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam; đồng thời, thông qua thực tiễn, Đảng được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[15].

Ngày xuất bản: 3/2/2025
Trình bày: NGỌC DIỆP
Ảnh: TTXVN, Báo QĐND