
Cách đây 30 năm, vào những ngày đầu tháng 5 lịch sử, nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam đã giành được một thắng lợi vang dội, làm nức lòng cả nước và bè bạn khắp năm châu: Chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Thắng lợi quân sự tiêu biểu đó đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam, giải phóng miền Bắc, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc Việt Nam như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa của thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ trên toàn thế giới.
Về mặt quân sự, chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ đánh dấu một bước phát triển sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó là một mẫu mực về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến đứng đầu, tổ chức thành công một cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương, kết thúc kháng chiến thắng lợi. Đó cũng là thành công điển hình của nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam trong một chiến dịch tiến công trên chiến trường rừng núi, đánh tiêu diệt lớn đập tan một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất trong hình thức tổ chức phòng ngự cao nhất của quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương lúc đó.

Chiến thắng Điện Biên Phủ buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva (7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ kéo dài 9 năm (1945-1954). (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Chiến thắng Điện Biên Phủ buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva (7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ kéo dài 9 năm (1945-1954). (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Chiến lược Đông Xuân 1953 - 1945, mấy vấn đề chỉ đạo chiến lược
Thu Đông 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam bước vào năm thứ tám. Từ sau thắng lợi của chiến dịch Biên Giới (tháng 9-10 năm 1950), quân đội nhân dân Việt Nam đã chiến thắng liên tiếp trong nhiều chiến dịch tiến công và một số chiến dịch phản công trên quy mô ngày càng lớn(!), nắm quyền chủ động chiến lược ngày càng vững và phát huy mạnh mẽ quyền chủ động tiến công trên chiến trường Bắc Bộ là chiến trường chính trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ, rộng khắp trên các chiến trường sau lưng địch ở đồng bằng Bắc Bộ, ở Bình Trị Thiên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ, kết hợp ngày càng chặt chẽ với các chiến dịch của bộ đội chủ lực. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trải qua nhiều năm liên tục chiến đấu và rèn luyện đã lớn mạnh vượt bậc. Quân đội nhân dân lúc đó, về bộ đội chủ lực, đã có sáu đại đoàn bộ binh, một đại đoàn công pháo, nhiều trung đoàn độc lập với những đơn vị thiện chiến; về bộ đội địa phương, đã có nhiều tiểu đoàn và trung đoàn ở các tỉnh. Đồng thời, lại có lực lượng dân quân du kích hùng hậu hàng triệu người phát triển rộng rãi ở các địa phương, là lực lượng chiến đấu tại chỗ rất lợi hại và là nguồn bổ sung liên tục cho Quân đội nhân dân. Cả ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) đã hình thành và lớn mạnh, là một ưu thế đặc biệt của Việt Nam so với Pháp. Đến cuối năm 1953, tổng số quân tập trung của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam chưa đến 30 vạn, so với khoảng 48 vạn quân địch, cả Pháp và quân ngụy tay sai. Ở Bắc Bộ, số lượng các tiểu đoàn chủ lực của Việt Nam chỉ mới xấp xỉ bằng 2/3 của địch(!). Nhưng lực lượng của địch bị phân tán khắp nơi, cán cân so sánh về lực lượng quân sự vẫn nghiêng ngày càng có lợi về phía Việt Nam; các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vẫn giữ được thế chủ động tiến công về chiến lược trên chiến trường chính.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam đã đứng trước thời cơ có thể tiến lên giành thắng lợi quyết định: và yêu cầu khách quan lúc này cũng đòi hỏi phải giải quyết được vấn đề đó.
Trước thế tiến công dồn dập của quân và dân Việt Nam, thế của thực dân Pháp ở Việt Nam ngày càng nguy khốn, bị động, mặc dù đế quốc Mỹ đã can thiệp ngày càng trắng trợn vào cuộc chiến ở Đông Dương, tăng viện trợ về trang bị, vũ khí và chiến phí cho thực dân Pháp.
Sau bảy năm tiến hành chiến tranh xâm lược, thực dân Pháp đã bị thiệt hại trên 30 vạn binh lính và sĩ quan. Các kế hoạch chiến lược của Đácgiăngliơ, Pinhông(!), rồi đến Rơve và Tátxinhi(!)nối tiếp nhau phá sản. Pháp dần dần buộc phải chuyển từ chiến lược tiến công sang chiến lược phòng ngự.
Càng thua đau ở Đông Dương, thực dân phản động Pháp càng bị phong trào chống chiến tranh xâm lược trong lòng nước Pháp tiến công dồn dập. Chính phủ Pháp dựng lên, đổ xuống 19 lần trong thời gian “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” của Pháp ở Đông Dương. Cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều thấy rõ, muốn cứu vãn tình thế thì phải đổi tướng, tăng quân, thay kế hoạch. Lúc bấy giờ, chiến tranh Triều Tiên vừa chấm dứt, Mỹ càng dấn sâu vào âm mưu kéo dài và mở rộng cuộc chiến tranh Đông Dương. Kế hoạch Nava(!)đã ra đời trong bối cảnh đó.
Kế hoạch Nava là một kế hoạch chiến lược quy mô rộng lớn, một âm mưu chính trị và quân sự của cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chống lại cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương. Mục đích quân sự của kế hoạch đó là nhằm tiêu diệt phần lớn quân chủ lực của Việt Nam lấy lại quyền chủ động đã mất, giành một thắng lợi chiến lược hòng chuyển bại thành thắng. Kế hoạch đó đại thể chia làm hai bước:
1. Trong Thu Đông 1953 và mùa xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc và thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam; đồng thời ra sức mở rộng quân ngụy, tập trung binh lực xây dựng một lực lượng cơ động lớn(!).
2. Vào Thu Đông 1954, với khối chủ lực cơ động xây dựng xong, tập trung toàn bộ lực lượng chuyển sang phản công chiến lược trên chiến trường miền Bắc, giành thắng lợi quyết định, buộc phía Việt Nam phải điều đình trong tình thế có lợi cho Pháp.
Chính phủ Pháp gấp rút điều quân tăng viện cho chiến trường Đông Dương. Còn chính phủ Mỹ thì dùng ngay 400 triệu đôla để tổ chức quân ngụy ở Việt Nam, quyết định tăng gấp rưỡi viện trợ quân sự cho Pháp (năm 1953 là 650 triệu đôla; năm 1954 là 1.264 triệu, chiếm 80% chi phí chiến tranh ở Đông Dương), cung cấp trang bị cho Pháp xây dựng thêm 6 tiểu đoàn pháo, 2 trung đoàn thiết giáp, 6 tiểu đoàn vận tải cùng 123 máy bay, 212 tàu chiến.
Từ tháng 5-1953 đến tháng 3-1954, Pháp tăng quân ngụy thêm 95.000, tổ chức thành 107 tiểu đoàn, đưa số quân ngụy lên cao nhất từ trước đến lúc bấy giờ. Về lực lượng cơ động chiến lược, Pháp tập trung được 84 tiểu đoàn (trong đó có 12 tiểu đoàn được tăng viện từ Pháp, Bắc Phi và Triều Tiên sang). Đến mùa xuân 1954, khối chủ lực cơ động của Pháp lên đến 100 tiểu đoàn bộ binh và 10 tiểu đoàn dù. Tổng số quân địch lên đến 480.000 tên, trong đó quân ngụy là 334.000 tên.
Mùa thu 1953, tướng Nava bắt đầu thực hiện kế hoạch chiến lược trên đây. Bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tập trung một lực lượng cơ động gồm 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ, mở những cuộc càn quét dữ dội ở vùng đồng bằng sông Đuống; đồng thời tăng cường biệt kích, tập kích, đánh phá vùng tự do của ta. Chúng thả hàng nghìn thổ phỉ xuống Lào Cai, Lai Châu, Sơn La thuộc tây bắc Bắc Bộ. Tháng 7-1953, chúng cho quân nhảy dù tập kích thị xã Lạng Sơn. Tháng 8-1953 chúng rút toàn bộ lực lượng ở Nà Sản (Tây Bắc Bắc Bộ) và tập trung cho đồng bằng Bắc Bộ. Giữa tháng 10 năm 1953, địch mở chiến dịch Hải Âu huy động 6 binh đoàn cơ động, 9 tiểu đoàn pháo, 3 tiểu đoàn thiết giáp đánh vào khu vực tây nam Ninh Bình, đồng thời hoạt động nghi binh vùng ven biển Thanh Hóa. Đồng bằng Bắc Bộ trở thành nơi tập trung quân thứ nhất của Pháp. Mục đích mấy cuộc hành binh này của địch là nhằm chủ động phá trước kế hoạch chuẩn bị hoạt động Thu Đông của Việt Nam. Chúng đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, huênh hoang tuyên truyền cho việc “giành quyền chủ động của chúng”.
Đến tháng 11-1953, trong lúc Pháp tưởng rằng chúng đã đạt được một phần mục đích nói trên của chúng, thì chúng phát hiện sự di chuyển của quân chủ lực Việt Nam lên hướng tây bắc. Để bảo vệ Lai Châu, che chở cho Thượng Lào, ngày 20-11, tướng Nava cho 6 tiểu đoàn nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ.
Đây là một cuộc hành binh mới vốn không nằm trong kế hoạch dự kiến của Nava. Sau đó Nava lại quyết định tăng cường Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, quyết “giữ Điện Biên Phủ bằng mọi giá” và buộc chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam chấp nhận cuộc chiến đấu với một lực lượng mạnh của quân viễn chinh Pháp ở chiến trường này, hòng tiêu diệt các đại đoàn chủ lực tinh nhuệ của đối phương, gây cho chúng ta những tổn thất nặng nề, để từ đó, Pháp giành lại được quyền chủ động về chiến lược, đưa cuộc chiến tranh xâm lược phát triển thuận lợi cho phía thực dân Pháp. Đây là một quyết định có tính chất chiến lược cực kỳ quan trọng. Nava chủ quan không hề nghĩ rằng, việc ném 6 tiểu đoàn xuống lòng chảo Mường Thanh ở Điện Biên Phủ và sau đó, quyết tâm đọ sức với quân đội nhân dân Việt Nam ở đây - lại là sự bắt đầu của một chương bi thảm nhất trong lịch sử xâm lược của quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương.
Về phía quân dân Việt Nam, trên mặt trận tây nam Ninh Bình, Đại đoàn 320 cùng bộ đội địa phương đã thực hành thắng lợi một chiến dịch phản công tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đập tan chiến dịch Hải Âu của quân Pháp. Tiếp đó, các đơn vị chủ lực tiếp tục chủ động thực hiện kế hoạch tác chiến Đông Xuân của mình nhằm phá tan kế hoạch Nava của Pháp và Mỹ.
Chủ trương chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 của Việt Nam là: sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch trong vận động ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch và tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ. Mục đích là nhằm tạo thế lợi, chọn hướng đúng, tập trung chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực của địch, tạo chuyển biến căn bản trong cục diện chiến tranh ở Đông Dương.
Để thực hiện chủ trương chiến lược đó, một kế hoạch tác chiến chiến lược đã được đề ra lúc đầu đại thể như sau:
1. Sử dụng một bộ phận chủ lực mở một chiến dịch tiến công quy mô vừa ở hướng tây bắc Bắc Bộ, tiêu diệt quân địch còn đóng ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu Tây Bắc.
2. Phối hợp với Quân đội giải phóng Pathét Lào mở một chiến dịch tiến công nữa ở Trung Lào, tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng.
3. Dành một bộ phận quan trọng bộ đội chủ lực ở Bắc Bộ, bố trí ở một nơi cơ động, hết sức bí mật, giấu kín lực lượng và sẵn sàng hành động (có thể tổ chức chiến dịch tiến công hoặc chiến dịch phản công quy mô tương đối lớn), tùy theo diễn biến hoạt động của địch và ý định lúc đó của ta.
4. Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng Bắc Bộ sau lưng địch, hình thành các đợt hoạt động (đôi khi có tính chất chiến dịch của chiến tranh du kích) để phối hợp với các chiến dịch của bộ đội chủ lực, củng cố và phát triển các khu du kích, mở rộng vùng giải phóng ở sau lưng địch.
5. Chuẩn bị cho lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân ở vùng tự do Việt Bắc, Khu II, Khu IV... sẵn sàng đánh địch nếu chúng mở các cuộc tấn công vào vùng tự do.
6. Tập trung phần lớn chủ lực ở Trung Bộ, mở một chiến dịch tiến công lên vùng rừng núi bắc Tây Nguyên, tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai, đồng thời dành một phần nhỏ chủ lực cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân chuẩn bị sẵn sàng đánh địch để bảo vệ vùng tự do Liên khu V.
7. Đẩy mạnh chiến tranh du kích trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, tranh thủ tiêu diệt từng bộ phận nhỏ quân địch, mở rộng khu du kích và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng tự do ở Khu IX.
Có thể coi những nội dung trên đây là những bộ phận hợp thành của một cuộc tiến công chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở thời kỳ cuối của cuộc chiến tranh nhằm đánh bại kế hoạch Nava.
Trong cuộc tiến công chiến lược này, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra phương châm: Tích cực chủ động, cơ động linh hoạt... Nắm vững tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 1-1953, Bộ Chính trị nêu ra các nguyên tắc chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo tác chiến như sau:
- Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta.
- Đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt.
- Chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh.
- Giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng.
Giữa tháng 11-1953, bộ đội chủ lực của ta bắt đầu tiến quân theo hướng chiến lược đã lựa chọn: chiến trường rừng núi phía Tây. Ngày 10-12-1953, Đại đoàn 316 mở đầu chiến dịch tiến công trên hướng Lai Châu. Chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954 bắt đầu. Bằng đòn tiến công thứ nhất, các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam qua hơn 10 ngày đêm chiến đấu đã tiêu diệt trên 20 đại đội địch, giải phóng Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía Bắc. Đại đoàn 308 cấp tốc tiến quân tăng thêm lực lượng bao vây địch ở Điện Biên Phủ. Nava buộc phải điều thêm lực lượng lên Điện Biên Phủ. Đến cuối tháng 12, địch ở đây đã từ sáu tiểu đoàn, lên đến 12 tiểu đoàn. Sau đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ hai của địch. Kế hoạch tập trung binh lực của Nava bắt đầu bị phá vỡ.
Ngày 21-12, quân ta mở đầu chiến dịch tiến công ở hướng Trung Lào. Hai trung đoàn của Việt Nam phối hợp với lực lượng của Quân giải phóng Phathét Lào, qua năm ngày đêm chiến đấu trong cuộc tiến công thứ hai của chiến cục Đông Xuân, đã áp đảo quân địch, tiêu diệt bốn tiểu đoàn, giải phóng thị xã Thà Khẹt, cắt đường số 9, giải phóng hầu hết vùng Trung Lào rộng lớn. Bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp phải điều năm tiểu đoàn từ đồng bằng Bắc Bộ và các chiến trường khác lên để tổ chức Xênô (Xavannakhét) thành một tập đoàn cứ điểm mới. Xênô đã trở thành nơi tập trung binh lực thứ ba của địch.
Ngày 30-1, đòn tiến công thứ ba ở Hạ Lào bắt đầu. Liên quân Lào - Việt trong đó chỉ có một tiểu đoàn (tiểu đoàn 436 thuộc trung đoàn 101, Đại đoàn 325 của Quân đội nhân dân Việt Nam) đã tiêu diệt một tiểu đoàn địch, giải phóng cao nguyên Bôlôven và thị xã Atôpơ. Địch lại phải điều bốn tiểu đoàn lên tăng cường cho thị xã Pắc Xe. Sau đó, trung đoàn 101 đã tiến sâu xuống phía Nam, sang Campuchia, phối hợp cùng Quân giải phóng Itxarắc Campuchia giải phóng Vươn Xai, Xiêm Pang uy hiếp Strung Treng, tiến xuống sông Sơ Lông. Căn cứ miền Đông và Đông Bắc Campuchia được nối liền với vùng giải phóng Hạ Lào và Trung Lào.
Ngày 20-1-1954, Pháp huy động 15 tiểu đoàn mở chiến dịch Atlăng đánh vào phía nam Phú Yên (Trung Bộ). Đây là một chiến dịch tiến công đã được định trước trong kế hoạch Nava nhằm mục đích chiếm toàn bộ vùng tự do của Việt Nam ở miền Nam Trung Bộ. Tuy vậy, quân và dân Việt Nam vẫn chủ động tiếp tục thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược đã định sẵn của mình.
Ngày 26-1-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam mở đầu chiến dịch tiến công địch ở bắc Tây Nguyên. Đòn tiến công thứ tư của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm trung đoàn 108 và trung đoàn 803 đã giải phóng thị xã Kon Tum, quét sạch địch ở bắc Tây Nguyên, tràn xuống phía nam đến sát đường số 19, mở rộng vùng giải phóng 16.000 km2 với 20 vạn dân. Chiến dịch bắc Tây Nguyên của quân và dân Việt Nam đã bước đầu đánh bại chiến dịch Atlăng của địch. Nava buộc phải đình chỉ cuộc hành binh này và điều 14 tiểu đoàn lên giữ Tây Nguyên. Lực lượng địch bị phân tán trên chiến trường Nam Trung Bộ đã lên tới 30 tiểu đoàn. Plây Cu và một số điểm nam Tây Nguyên trở thành nơi tập trung binh lực thứ tư của địch.
Ngày 26-1-1954, đại đoàn 308 đang bao vây Điện Biên Phủ, được lệnh tiến quân cấp tốc đánh địch ở phòng tuyến sông Nậm Hu, mở đầu chiến dịch tiến công ở Thượng Lào. Bằng đòn tiến công thứ năm này, liên quân Lào - Việt đã tiến vào Mường Khoa, tiêu diệt 17 đại đội địch trong đó có một tiểu đoàn lính Âu - Phi, quét sạch quân địch ở lưu vực sông Nậm Hu, giải phóng Phong Sa Lỳ, bao vây Mường Xài, áp sát Luông Phabăng (thủ đô của Lào). Nava buộc phải điều hai binh đoàn cơ động và một tiểu đoàn bộ binh từ đồng bằng Bắc Bộ, một tiểu đoàn lính thuộc địa từ Xiêng Khoảng đổ quân xuống thành lập hai tập đoàn cứ điểm ở Mường Xài và ở Luông Phabăng. Luông Phabăng đã trở thành nơi tập trung binh lực thứ năm của địch.
Trong khi bộ đội chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam tới tấp tiến công địch ở mặt trận chính diện, khối chủ lực cơ động của địch bị phân tán trên nhiều khu vực, thì trên các chiến trường vùng sau lưng địch, đặc biệt ở đồng bằng Bắc Bộ, rồi Bình Trị Thiên, cực Nam Trung Bộ, Nam Bộ, chiến tranh du kích phát triển rất mạnh. Nhiều đường giao thông huyết mạch của địch bị cắt đứt. Căn cứ quân sự, sân bay, kho tàng... của chúng bị đánh phá. Hàng nghìn đồn trại, tháp canh của địch bị tiêu diệt hoặc bức rút. Vùng giải phóng mở rộng. Địch phải căng mỏng lực lượng ra đối phó khiến cho khả năng tăng viện cho chiến trường Điện Biên Phủ cũng như các nơi khác bị hạn chế nhiều.
Vào trung tuần tháng 3, địch tưởng rằng thời kỳ hoạt động tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam đã kết thúc. Ngày 12-3, chúng tập trung một bộ phận lực lượng, tiếp tục đợt hai của chiến dịch Atlăng đang bị bỏ dở, cho quân đổ bộ đánh lên Quy Nhơn (Trung Bộ).
Chúng không ngờ rằng, ngay ngày hôm sau, ngày 13-3-1954, các đơn vị chủ lực tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam bất ngờ nổ súng tiến công, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, quyết liệt, đến hết ngày 7-5, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954 kết thúc đại thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

Từ ý định chiến lược của Việt Nam cũng như của Pháp và qua diễn biến chiến sự trên chiến trường, có thể nêu lên mấy nhận xét sau đây về sự chỉ đạo chiến lược của phía Việt Nam:
1. Chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954 là một cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương của quân và dân Việt Nam và các lực lượng kháng chiến ở Đông Dương, nhằm đánh bại kế hoạch Nava, giành một thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Loại hoạt động tác chiến chiến lược này (cũng gọi là chiến dịch chiến lược) xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường, đánh dấu một bước phát triển mới trong sự chỉ đạo chiến lược quân sự của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến và của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đó là sự vận dụng chiến lược của chiến tranh nhân dân toàn dân và toàn diện, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích, tác chiến của các binh đoàn chủ lực cơ động với chiến tranh nhân dân địa phương và cuộc chiến đấu của toàn dân ở thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất kết thúc chiến tranh thắng lợi.
2. Cuộc tiến công chiến lược này - do vậy, trong khi vẫn tuân theo những quy luật chung của đấu tranh vũ trang trong các cuộc chiến tranh - mang những nội dung đặc trưng của chiến lược chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước ở Việt Nam.
3. Nó bao gồm chủ yếu là những chiến dịch tiến công và một số đòn tiến công trên các quy mô khác nhau của các binh đoàn chủ lực trên những hướng đã được lựa chọn ở vùng rừng núi - trong đó chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch tiến công lớn nhất - nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực của địch và giải phóng đất đai của Việt Nam. Những chiến dịch đó có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều đợt hoạt động mạnh mẽ của chiến tranh du kích, chủ yếu trong vùng đồng bằng sau lưng địch ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, trong đó có một số đợt hoạt động mang những yếu tố của một loại hình chiến dịch mà Việt Nam trước thường gọi là “chiến dịch du kích” - nhằm phân tán khối chủ lực cơ động của quân đội viễn chinh Pháp, đánh phá đường giao thông, sở chỉ huy, căn cứ quân sự, sân bay, kho tàng... của chúng, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch và mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam. Đồng thời lại còn có các đợt hoạt động mang tính chất phản công, kết hợp chiến đấu tiến công với chiến đấu phòng ngự của một bộ phận chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương nhằm bảo vệ các vùng tự do của Việt Nam - trong đó có đợt hoạt động đã hình thành chiến dịch phản công (của Đại đoàn 320 và các lực lượng vũ trang địa phương ở tây nam Ninh Bình, đánh bại chiến dịch Hải Âu của Pháp).
Để tổ chức và tiến hành thắng lợi cuộc tiến công chiến lược này, phía Việt Nam đã có sự đánh giá đúng về lực lượng, so sánh giữa ta và địch; thấy rõ cả chỗ mạnh và chỗ yếu của ta và địch trên chiến trường Việt Nam và Đông Dương, cũng như tình hình chính trị chung ở nước Pháp và trên thế giới. Từ đó, nhận định đúng là cuộc kháng chiến đã đứng trước thời cơ có thể và phải giành được thắng lợi quyết định đã hạ quyết tâm đúng giành thắng lợi quyết định đó và phát huy nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân giành cho kỳ được mục đích đề ra.
Trong quá trình cuộc tiến công chiến lược, phía Việt Nam đã theo sát sự diễn biến của tình hình, xử trí kiên quyết và linh hoạt trước các tình huống chiến lược xảy ra luôn luôn giữ vững và phát huy quyền chủ động chiến lược. Pháp muốn tập trung binh lực, tăng cường khối cơ động chiến lược để giành lại quyền chủ động chiến lược, chuẩn bị trận quyết chiến với Việt Nam trên một chiến trường do chúng lựa chọn. Tuy nhiên, chúng lại buộc phải phân tán cao độ lực lượng cơ động chiến lược của chúng trên nhiều hướng, bị động đối phó cả ở rừng núi, đồng bằng và thành thị, cả ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, cả ở Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào và miền Đông Campuchia. Kế hoạch Nava bị đảo lộn ngay từ đầu. Các chiến dịch tiến công, các đòn tiến công của bộ đội chủ lực Việt Nam, các đợt hoạt động của chiến tranh du kích trên khắp các chiến trường, đã phối hợp với nhau chặt chẽ, nhịp nhàng, theo một sự chỉ huy và chỉ đạo thống nhất, tạo điều kiện cho nhau giành thắng lợi, đẩy địch càng ngày càng lùi sâu vào thế bị động về chiến lược không sao thoát ra được.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã tập trung nỗ lực lớn nhất để giành thắng lợi bằng được cho chiến dịch quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ để giành toàn thắng cho cuộc tiến công chiến lược. Như đã nêu ở trên, ban đầu bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp không có ý định đưa quân chủ lực lên vùng rừng núi Tây Bắc; trận Điện Biên Phủ lúc đầu không nằm trong kế hoạch quân sự của Nava. Nhưng Việt Nam đã buộc Nava phải đưa chủ lực tinh nhuệ nhất của quân đội viễn chinh Pháp xuống lòng chảo Điện Biên Phủ. Việt Nam đã tạo được thời cơ và lập tức nắm lấy thời cơ đó, hạ quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ. Đến khi Nava chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết chiến chiến lược với Quân đội nhân dân Việt Nam, thì chúng ta chấp nhận cuộc chiến đấu đó và chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết chiến chiến lược với địch. Phía Việt Nam đã tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ nhất của mình trong chiến dịch này và quân dân ta với nỗ lực cao nhất đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
4. Cuộc tiến công chiến lược của quân và dân Việt Nam và các lực lượng kháng chiến ở Đông Dương đã diễn ra một cách nhịp nhàng và giành thắng lợi trên cả ba chiến trường Việt Nam, Lào và Campuchia trong điều kiện bộ đội chủ lực của phe kháng chiến ở Đông Dương số lượng không lớn, quy mô tổ chức các binh đoàn còn ở trình độ thấp, trang bị vũ khí kém cỏi, khả năng cơ động chủ yếu bằng đôi chân, phương tiện thông tin rất lạc hậu so với quân chủ lực của Pháp và ngụy có số lượng đông hơn, trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh cũng nhiều hơn và trình độ hiện đại hơn. Đó là do phe kháng chiến có lực lượng của toàn dân đánh giặc, có cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích rộng khắp, hình thành cả lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ, cả tác chiến của các binh đoàn chủ lực và chiến tranh nhân dân địa phương kết hợp chặt chẽ với nhau tạo nên một thế trận rất lợi hại vây hãm và tiến công quân thù. Quân và dân Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, lại dần dần tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm trong quá trình chiến tranh, luôn luôn chủ động tích cực đánh địch, chủ động mở rộng kết quả chiến đấu ngay cả khi những mệnh lệnh và chỉ thị của cấp trên chưa kịp xuống đến nơi. Đó còn là kết quả sinh động của tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân ba nước ở Đông Dương, sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc và của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có sự ủng hộ tích cực của Đảng Cộng sản và nhân dân tiến bộ Pháp.

Đại đội trưởng đại đội chủ công của Đại đoàn 312 nhận cờ Quyết Thắng trước khi đánh cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 13/3/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Đại đội trưởng đại đội chủ công của Đại đoàn 312 nhận cờ Quyết Thắng trước khi đánh cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 13/3/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Phút nghỉ ngơi giữa hai trận đánh. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Phút nghỉ ngơi giữa hai trận đánh. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Chiến dịch Điện Biên Phủ - Mấy vấn đề nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật
Điện Biên Phủ là một thung lũng lớn phía tây vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam; có cánh đồng Mường Thanh dài 18 km, rộng từ 6 đến 8km; có núi cao, rừng rậm bao bọc bốn phía. Điện Biên Phủ ở sát biên giới Việt - Lào, cách Luông Phabăng (Lào) 200km, cách biên giới các nước Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan từ 150 đến 300 km; cách hậu phương của cuộc kháng chiến ở chiến trường Bắc Bộ từ 300 đến 500 kilômét đường bộ. Đế quốc Pháp và Mỹ coi Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược quan trọng và có thể trở thành một căn cứ lục quân - không quân lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam Á.
Lực lượng địch ở Điện Biên Phủ từ sáu tiểu đoàn lúc đầu đã tăng dần lên đến 12 tiểu đoàn và sáu đại đội bộ binh, khi cuộc tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu. Trong quá trình chiến dịch, bộ chỉ huy Pháp tiếp tục tăng thêm bốn tiểu đoàn và 12 đại đội lính nhảy dù, cộng là 17 tiểu đoàn bộ binh. Phần lớn các lực lượng này là các đơn vị Âu - Phi và đơn vị nhảy dù tinh nhuệ nhất của quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Ngoài ra, còn có ba tiểu đoàn pháo binh 105mm và 155mm, một tiểu đoàn công binh, một đại đội xe tăng (10 chiếc M24), một đại đội vận tải 200 xe, một phi đội không quân thường trực 14 chiếc. Tổng số binh lực của địch là 16.200 tên.
Điện Biên Phủ được Pháp tổ chức thành một tập đoàn cứ điểm phòng ngự trận địa quy mô chiến dịch, gồm 49 điểm tựa hình thành những trung tâm đề kháng, những cụm điểm tựa, chia làm ba phân khu yểm trợ lẫn nhau: phân khu Bắc, phân khu Trung tâm và phân khu Nam. Phân khu Trung tâm là nơi tập trung lực lượng phòng ngự chủ yếu của địch, gồm những trung tâm đề kháng mạnh, nhất là các trung tâm đề kháng trên dãy đồi phía đông; có các lực lượng cơ động, các căn cứ pháo binh và cơ giới, các sở chỉ huy và sân bay. Toàn bộ tổ chức phòng ngự rộng lớn nói trên là một hệ thống công sự chiến đấu và hào giao thông chìm dưới mặt đất, hệ thống vật cản hỗn hợp dày đặc. Đế quốc Mỹ còn giúp bộ chỉ huy Pháp lập cầu hàng không nối liền Điện Biên Phủ với Hà Nội. Bọn chỉ huy cao cấp Pháp - Mỹ đánh giá rằng, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một pháo đài kiên cố, không một sức mạnh nào công phá được. Chúng còn huênh hoang cho rằng, nếu Quân đội nhân dân Việt Nam đánh vào thì chỉ có một kết quả là “đi vào con đường tự sát” và chắc chắn thất bại!
Lực lượng tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam có bốn Đại đoàn chủ lực: 308, 316, 312 và 304 (thiếu trung đoàn 66) gồm 11 trung đoàn bộ binh; Đại đoàn công pháo 351 gồm một trung đoàn lựu pháo (24 khẩu 105 mm), một trung đoàn sơn pháo (20 khẩu 75 mm), bốn đại đội súng cối (16 khẩu 120 mm), một trung đoàn công binh công trình, bốn tiểu đoàn pháo cao xạ (48 khẩu 37mm), hai tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7mm. Trong trận kết thúc chiến dịch, còn được tăng cường một đại đội pháo phản lực loại sáu nòng. Như vậy, so với các chiến dịch trước đó, phía Quân đội nhân dân Việt Nam có thêm một số vũ khí mới; đây cũng là một điều bất ngờ đối với địch.
Các lực lượng tham gia chiến dịch của Quân đội nhân dân Việt Nam đã tích cực tiến hành công tác chuẩn bị chiến dịch về mọi mặt trên quy mô lớn để bảo đảm thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và của Bộ Tổng tư lệnh. Mở đường vận chuyển tiếp tế và mở đường kéo pháo; xây dựng trận địa cho pháo binh và bộ binh; xây dựng sở chỉ huy kiên cố của các cấp; chuẩn bị về cung cấp, tiếp tế, bảo đảm kỹ thuật; tổ chức trinh sát theo dõi chặt chẽ tình hình địch... Các binh đoàn, binh đội đã dành thời gian để huấn luyện bổ sung về chiến thuật và kỹ thuật cho cán bộ chỉ huy và chiến sĩ. Ngay từ mùa hè, bộ đội đã rút kinh nghiệm đánh tập đoàn cứ điểm trong các trận ở Nà Sản và chiến dịch Sầm Nưa trước đó. Bộ Tổng Tham mưu đã đặt thành chuyên đề nghiên cứu và biên soạn tài liệu huấn luyện đánh tập đoàn cứ điểm và bồi dưỡng cho cán bộ chỉ huy. Các đơn vị bộ binh và binh chủng kỹ thuật huấn luyện bổ sung về xây dựng trận địa, về tác chiến hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh tiến công quân địch phòng ngự theo tập đoàn cứ điểm. Công tác chính trị tập trung vào việc giáo dục tinh thần quyết chiến quyết thắng cho bộ đội, xây dựng quyết tâm giành toàn thắng cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Lực lượng so sánh giữa hai bên trong chiến dịch, nhìn chung nghiêng về phía có lợi cho Quân đội nhân dân Việt Nam; tuy nhiên, ưu thế đó của bên tiến công cũng chỉ là tương đối. Về bộ binh, bên tiến công hơn bên phòng ngự gấp hơn hai lần số quân và số tiểu đoàn chiến đấu (36 tiểu đoàn/17 tiểu đoàn), về pháo binh, hai bên có số nòng pháo và nòng súng cối xấp xỉ ngang nhau, nhưng số lượng đạn thì địch nhiều hơn gấp bội. Còn về không quân, xe tăng, về khả năng cơ động, tiếp tế hậu cần và bảo đảm kỹ thuật, thì bên phòng ngự hơn hẳn.
Như đã nêu ở trên, căn cứ vào thế chủ động tiến công về chiến lược ngày càng phát triển thuận lợi trong Đông Xuân 1953 - 1954 và lực lượng so sánh hai bên cụ thể ở Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã hạ quyết tâm, chọn Điện Biên Phủ làm hướng chủ yếu của cuộc tiến công chiến lược, tập trung phần lớn các binh đoàn chủ lực tinh nhuệ, tiến hành một chiến dịch tiến công quy mô lớn nhất trong cuộc tiến công chiến lược đó, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm, lực lượng mạnh nhất của quân đội Pháp xâm lược ở Điện Biên Phủ, làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho quân và dân Việt Nam, giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là một quyết tâm chiến lược sáng suốt, kiên quyết và táo bạo.
Để thực hiện thắng lợi quyết tâm trên đây, Bộ Tổng tư lệnh (đồng thời là Bộ chỉ huy chiến dịch) đã giải quyết thành công và sáng tạo nhiều vấn đề nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật trong một chiến dịch tiến công trận địa quy mô lớn, trên chiến trường rừng núi. Trong đó, nổi lên vấn đề xác định đúng cách đánh chung của chiến dịch, các phương pháp tiến công tiêu diệt tập đoàn lớn quân địch trong hệ thống trận địa phòng ngự tương đối vững chắc có quy mô chiến dịch. Những cái đó thể hiện rõ rệt việc các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã biết tận dụng mọi trang bị vũ khí có trong tay, phát huy chỗ mạnh của mình, khoét sâu chỗ yếu của địch, để đánh bại một kẻ địch có trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại hơn.
Lúc đầu, vào tháng 12-1953, Bộ chỉ huy chiến dịch sơ bộ xác định phương châm, và cũng là cách đánh chung của chiến dịch là “Đánh nhanh, thắng nhanh”. Khi đó, lực lượng phòng ngự của địch chưa được tăng cường, hệ thống trận địa phòng ngự của chúng chưa được xây dựng hoàn chỉnh và chưa được củng cố. Bên tiến công có thể khoét sâu những hạn chế này của đối phương, thực hành tiến công đồng loạt các mục tiêu quan trọng trong khu phòng ngự chủ yếu của địch; phân tán, chia cắt lực lượng phòng ngự chủ yếu của chúng, rồi nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ lực lượng phòng ngự trong vài ngày đêm. Vận dụng cách đánh này, bên tiến công có lợi một số mặt, nhưng về toàn cục, lại không có lợi, khó có khả năng thực hiện được ý định chiến dịch đã đề ra. Ưu thế tương đối của phía Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến dịch không đủ tạo nên sức mạnh tiến công áp đảo đối với một tập đoàn phòng ngự lớn của địch trong hệ thống trận địa. Sức đột kích chủ yếu của bên tiến công vẫn là bộ binh. Đưa lực lượng lớn để tiếp cận và tiến công quân địch trên địa hình thung lũng trống trải thì dễ bị hỏa lực không quân, pháo binh của địch vốn chiếm ưu thế, làm tổn thất nặng. Không có không quân và xe tăng, hỏa lực pháo binh lại không nhiều, bộ binh của bên tiến công khó có thể đột phá nhanh chóng và liên tục các cụm cứ điểm của địch...
11 giờ sáng ngày 25-1-1954, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định thay phương châm “Đánh nhanh, thắng nhanh”, bằng phương châm “Đánh chắc, tiến chắc”... Đây là một quyết định rất khó khăn đối với người chỉ huy chiến dịch, nhưng là một quyết định đúng đắn, sáng suốt, có tầm quan trọng quyết định thắng lợi. Chủ trương vận dụng phương châm “Đánh chắc, tiến chắc” đã được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phê chuẩn.
Chiều ngày 25-1 năm 1954, toàn bộ lực lượng chiến dịch của phía Quân đội nhân dân Việt Nam được lệnh rút khỏi vị trí xuất phát tiến công, trở về nơi tập kết. Để đánh lạc hướng quân địch và bảo vệ cho cuộc tập kết lực lượng chiến dịch theo quyết định mới, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho Đại đoàn 308 phối hợp với Quân đội giải phóng Pathét Lào tiến công địch ở hướng Luông Phabăng (Lào) trên tuyến phòng thủ sông Nậm Hu, như đã nêu ở phần trên.
Vận dụng phương châm “Đánh chắc, tiến chắc”, các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia chiến dịch phải chuẩn bị lại chu đáo về mọi mặt; dần dần tạo nên các trận địa tiến công hình thành một thế trận tiến công vững chắc, bao vây, một hệ thống các trận địa chiến đấu tiến công lần lượt, nối tiếp nhau với sự tập trung cao lực lượng và phương tiện trong từng trận, bảo đảm tiêu diệt từng trung tâm đề kháng, từng cụm cứ điểm của địch, đi đôi với việc hạn chế và triệt nguồn tiếp tế, tiếp viện của chúng, tiến lên tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Công tác chuẩn bị phải làm lại, với quyết tâm rất cao của cán bộ, chiến sĩ, bằng những biện pháp cụ thể và kiên quyết. Phải khắc phục nhiều khó khăn, trở ngại do việc thay đổi phương châm chiến dịch và kế hoạch tác chiến chiến dịch mới đề ra. Xây dựng lại hệ thống trận địa tiến công của toàn chiến dịch, trong đó nổi lên việc xây dựng hệ thống trận địa pháo binh, đường vận chuyển cơ giới, trận địa xuất phát tiến công của các binh đoàn, binh đội. Bố trí lại đội hình chiến dịch, bố trí lại lực lượng, phương tiện trên các hướng tiến công. Giao nhiệm vụ và tổ chức hiệp đồng giữa các binh đoàn, binh đội bộ binh với pháo binh, phòng không, công binh, giữa các hướng tiến công. Soạn thảo các văn kiện chiến dịch, chiến đấu và phổ biến cho các người chỉ huy, cho các đơn vị. Tiến hành công tác giáo dục, động viên, làm cho bộ đội nhất trí với việc thay đổi cách đánh và kế hoạch chiến dịch, có quyết tâm cao thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của chiến dịch. Đặc biệt là, công tác chuẩn bị tập trung vào việc khắc phục những khó khăn của công tác vận tải, tiếp tế một khối lượng lương thực, vật chất lớn hơn nhiều lần so với dự kiến ban đầu, trong một chiến dịch dài ngày, ở xa hậu phương chiến lược, trên vùng rừng núi vào mùa mưa lũ.
Khi các lực lượng chiến dịch của Việt Nam đã hoàn thành tốt công tác chuẩn bị, còn bộ chỉ huy Pháp nghĩ rằng phía Việt Nam đã bỏ ý định tiến công vào Điện Biên Phủ, thì đợt tiến công thứ nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. 17 giờ ngày 13-3-1954, các đơn vị của Đại đoàn 308 và đại đoàn 312 phối hợp với nhau tiến công tiêu diệt trung tâm đề kháng đồi Độc Lập. Các đòn phản kích của địch đều bị đánh lui. Quân địch tại cứ điểm Bản Kéo ra hàng.
Qua năm ngày đêm, 2.000 tên địch tại phân khu Bắc bị tiêu diệt; cửa vào khu trung tâm phòng ngự Mường Thanh đã mở; sân bay địch bị cả hỏa lực pháo và hỏa lực bắn thẳng của Quân đội nhân dân Việt Nam uy hiếp; vòng vây quân địch đã được thắt chặt thêm.
Chính việc tiến hành xây dựng trận địa tiến công theo phương châm “Đánh chắc, tiến chắc” đã tạo ra điều kiện cho các đơn vị tiến công tiếp cận địch nhanh chóng, bí mật, bất ngờ, ít tổn thất. Pháo binh được bố trí trong hệ thống trận địa mới đã giữ được bí mật, bất ngờ khi chi viện cho bộ binh và chế áp pháo binh địch. Việc lần lượt tiến công từng trung tâm đề kháng, từng cụm cứ điểm của địch, đã cho phép bên tiến công tập trung được lực lượng và phương tiện, nhất là hỏa lực pháo binh, đủ sức tiêu diệt từng cụm quân địch trong công sự tương đối vững chắc.
Đợt tiến công thứ hai của chiến dịch bắt đầu vào đêm 30 tháng 3 năm 1954. Đây là đợt tiến công vào quân địch phòng ngự trên năm điểm cao phía đông phân khu Trung tâm Mường Thanh, một trong những cụm phòng ngự chủ yếu của địch. Đợt tiến công này được thực hiện bằng lực lượng của hai Đại đoàn 312 và 316. Đại đoàn 308 phối hợp hành động, kiềm chế địch tại phân khu Trung tâm. Đại đoàn 304 kiềm chế địch ở phân khu Nam, không cho chúng tiếp viện cho phân khu Trung tâm. Đợt tiến công này đã diễn ra quyết liệt, kéo dài đến gần cuối tháng 4 năm 1954. Quân địch đã phản ứng điên cuồng bằng các cuộc phản kích của bộ binh và hỏa lực mạnh của không quân, pháo binh. Có ngày địch dùng 250 lần chiếc máy bay ném bom và tiêm kích để bắn phá trận địa quân tiến công. Chúng tập trung lực lượng không quân đánh phá dữ dội tuyến vận tải, tiếp tế của phía Việt Nam. Các đơn vị tiến công chỉ chiếm được hoàn toàn ba điểm cao; còn hai điểm cao C1 và A1 thì mỗi bên chiếm giữ một nửa.
Bằng đợt tiến công thứ hai, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt hơn 2.500 tên địch, chọc thủng một mảng lớn bức tường bảo vệ phân khu Trung tâm của địch. Hệ thống trận địa tiến công và bao vây đã áp sát vào phân khu Trung tâm, đặt sở chỉ huy của tướng Đờ Cát vào tầm pháo bắn thẳng. Sân bay chính của địch bị đánh chiếm, cắt ngang bởi đường hào chiến đấu và lực lượng bộ binh của bên tiến công. Phân khu Trung tâm và phân khu Nam của địch bị chia cắt, bao vây hoàn toàn. Các cứ điểm ngoại vi của phân khu Trung tâm bị bao vây và uy hiếp dưới tầm hỏa lực của súng máy và súng trường của các đơn vị tiến công; một số cứ điểm bị tiêu diệt, bức hàng.
Việc xây dựng và phát triển hệ thống trận địa tiến công và bao vây trên quy mô chiến dịch đã bảo đảm cho quân Việt Nam đưa một lực lượng lớn tiếp cận, tiến công và bao vây chặt quân địch, chia cắt, cô lập từng bộ phận lực lượng, từng cụm cứ điểm của chúng cả về chiến dịch và chiến thuật, trên địa hình trống trải, trong điều kiện quân đội nhân dân Việt Nam không có không quân, còn quân đội viễn chinh Pháp thì có ưu thế áp đảo về hỏa lực. Nhờ hệ thống trận địa này, các lực lượng của chiến dịch đã cơ động dễ dàng, bí mật, an toàn cả ban ngày và ban đêm, giữ vững được sinh hoạt bình thường trong điều kiện chiến đấu dài ngày, giảm tỷ lệ thương vong nhiều lần; tiếp cận sát địch, có nơi chỉ cách chúng 10-15 m. Vì thế, sau đợt tiến công thứ hai, toàn bộ khu vực phòng ngự trung tâm Mường Thanh của địch bị thu hẹp chưa đầy bốn kilômét vuông và nằm dưới tầm hỏa lực của các loại súng của bên tiến công. Cuốc, xẻng được coi là vũ khí; đường hào là công cụ bảo vệ tính mạng cán bộ, chiến sĩ. Các đơn vị đã đào hàng trăm kilômét hào chiến đấu và hào giao thông ngay dưới hỏa lực pháo và bom napan của địch. Hệ thống trận địa tiến công và bao vây được xây dựng và phát triển dần trong quá trình chiến dịch và ngày càng hoàn chỉnh các thành phần, như các hỏa điểm, công sự chiến đấu, đường hào cơ động, hầm ngủ, nghỉ, hầm để đạn, hầm để thương binh... Đây là một công trình lao động sáng tạo, thể hiện ý chí, quyết tâm và trí tuệ của đông đảo cán bộ và chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến dịch này.
Hai đợt tiến công trước đã chuẩn bị cho đợt tiến công thứ ba, bắt đầu từ đêm 1-5-1954. Phía Quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh chiếm nốt các cứ điểm phòng ngự còn lại của địch ở phía đông, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch ở phía tây, rồi chuyển sang tổng công kích. Đúng 15 giờ ngày 7-5, các binh đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam từ hai phía đông và tây tiến công thẳng vào sở chỉ huy của tướng Đờ Cát ở Mường Thanh. Quân địch lúc này còn khoảng một vạn tên, nhưng tinh thần của chúng đã hoàn toàn suy sụp. Quân tiến công tiến đến đâu, địch mang cờ trắng ra hàng đến đó. 17 giờ 30, sở chỉ huy của địch bị đánh chiếm. Tướng Đờ Cát và toàn bộ bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống, số địch còn lại hạ súng đầu hàng. Ngay đêm đó, các đơn vị khác cũng bắt đầu cuộc tiến công vào phân khu Nam của địch ở khu vực Hồng Cúm. Hơn 2.000 tên địch ở đây đang trên đường rút chạy về Thượng Lào, nhưng đã bị chặn lại và bị bắt.
Toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng.
Một vấn đề chiến thuật có tác dụng quyết định đến việc thúc đẩy chiến dịch phát triển đã được đặt ra là tác chiến hiệp đồng giữa một số binh chủng của lục quân mà Quân đội nhân dân Việt Nam mới có lúc đó, là: bộ binh, pháo binh, phòng không và công binh, để tiến công tiêu diệt quân địch trên chiến trường rừng núi, trong những trung tâm đề kháng, những cụm cứ điểm lớn và đánh bại quân địch phản kích để thực hiện bao vây, phong tỏa đường không của địch và để phòng ngự giữ vững những khu vực mình đã chiếm được. Lần đầu tiên, các binh chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam đã giải quyết thành công vấn đề này trên quy mô chiến dịch.
Tác chiến hiệp đồng binh chủng đã được tổ chức và thực hành tốt trong từng trận đánh, với những nhiệm vụ, đối tượng cụ thể khác nhau. Nổi lên là những trận chiến đấu tiến công hiệp đồng giữa bộ binh, pháo binh, phòng không, công binh để tiêu diệt một hay nhiều tiểu đoàn quân địch phòng ngự trong những trung tâm đề kháng hoặc cụm cứ điểm lớn như đồi Độc Lập, cụm Him Lam, khu phòng ngự trên dãy đồi phía đông... Trong điều kiện không có xe tăng, không quân, hỏa lực pháo binh không nhiều, các trận đánh đã tạo nên sức đột kích mạnh bằng hỏa lực bắn thẳng của pháo đi cùng, hỏa lực bắn thẳng của bộ binh, thuốc nổ, để mở cửa qua hệ thống vật cản, đột phá vào trận địa địch, với sự chi viện có hạn của pháo binh. Các cách đánh gần, đánh đêm và việc sử dụng tốt đường hào tiếp cận đã rút ngắn khoảng cách vận động trên quãng trống dưới hỏa lực địch, và nhanh chóng đột phá vào trận địa địch.
Các cuộc phản kích của địch trong quá trình chiến dịch cũng bị đánh bại bằng sức mạnh chiến đấu hiệp đồng của các binh chủng, tiêu biểu là trận đập tan cuộc phản kích ngày 24-4-1954 của địch hòng chiếm lại sân bay. Các phân đội bộ binh đã chiếm lĩnh địa hình có lợi, phát huy đầy đủ hỏa lực có trong tay, kết hợp với pháo bắn thẳng vào xe tăng địch, đôi khi cả pháo phòng không cũng tham gia, với hỏa lực pháo từ trận địa che khuất bắn vào đội hình địch từ xa, kết hợp với công binh rải mìn chống bộ binh và xe tăng địch...
Tác chiến hiệp đồng còn được vận dụng để thực hiện bao vây, phong tỏa đường không, hạn chế, đi đến cắt đứt sự tăng viện, tiếp tế bằng đường không của địch. Pháo phòng không bắn máy bay địch, tiêu diệt chúng, hất chúng lên cao, không cho chúng thả dù chính xác. Pháo binh mặt đất (cả pháo bắn thẳng) phá hủy sân bay, phá hủy những máy bay đậu trên sân bay, những máy bay đang hạ cánh, ngăn cản chúng cất cánh và hạ cánh, bắn phá đài chỉ huy, bắn bọn địch sửa chữa sân bay và ra lấy hàng. Bộ binh đánh chiếm sân bay, bao vây chặt các cứ điểm, không cho chúng thả dù chính xác, bắn bọn địch ra lấy hàng do máy bay thả xuống...
Tác chiến hiệp đồng binh chủng trong chiến đấu tiến công, trong đánh địch phản kích, và cả trong chiến đấu phòng ngự, đã đánh dấu một bước tiến mới về chiến thuật của các binh đoàn chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến dịch này.
Phía Việt Nam đã giải qụyết thành công vấn đề cắt đứt nguồn tăng viện, tiếp tế bằng đường không của địch, đồng thời tổ chức tốt việc tăng cường lực lượng và vận chuyển, tiếp tế lương thực, đạn dược cho chiến dịch.
Quân địch ở Điện Biên Phủ dựa vào nguồn tăng viện, tiếp tế duy nhất là cầu hàng không. Cho nên, cần phải hạn chế đi đến cắt đứt nguồn tăng viện, tiếp tế hậu cần, kỹ thuật đó của chúng. Cuộc bao vây, phong tỏa đường không bằng hỏa lực phòng không, hỏa lực pháo binh mặt đất và cả bằng bộ binh, đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ đó. Nhất là trong đợt tiến công thứ hai, trận địa tiến công và bao vây của quân đội nhân dân đã tiến sát đến phân khu Trung tâm, đánh chiếm sân bay chính, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, thì về cơ bản, nguồn tiếp tế bằng đường không của chúng bị cắt đứt. Quân địch liều chết thả quân dù tăng viện, thả dù tiếp tế lương thực, đạn dược, nhưng vì khu vực do chúng kiểm soát quá hẹp, nên một phần đã rơi vào trận địa bên tiến công. Đạn dược thu được (5.500 đạn pháo) đã được sử dụng ngay để đánh địch. Lương thực chiếm được được bổ sung ngay vào khẩu phần ăn hàng ngày của các đơn vị. Các tổ thiện xạ bắn tỉa đã ngăn chặn có hiệu lực không cho binh lính địch nhặt đồ tiếp tế do máy bay của chúng thả xuống. Đường tiếp tế, tăng viện bị cắt, đã đẩy quân địch vào tình trạng hoang mang, hoảng loạn. Triệt phá hậu cần của địch, tranh đoạt tiếp tế của chúng, là một thành công lớn và cũng là một kinh nghiệm nổi bật của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Về phía Việt Nam, mặc dù bị địch tập trung đánh phá quyết liệt bằng không quân, lại phải khắc phục nhiều khó khăn do mưa lũ gây nên, tuyến vận tải, tiếp tế trên quãng đường dài, vẫn bảo đảm cung cấp kịp thời đạn dược, lương thực, thuốc men và lực lượng mới cho chiến dịch diễn ra dài ngày với lượng tiêu thụ, tiêu hao lớn chưa từng có. Ngày 19-4-1954, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết “Về tiếp tục thấu triệt phương châm đánh chắc, tiến chắc, đề cao quyết tâm tích cực giành toàn thắng cho chiến dịch Điện Biên Phủ”. Nghị quyết chỉ rõ “Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho Chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”. Địch phá đường, các lực lượng của Việt Nam: bộ đội, thanh niên xung phong, dân công làm lại đường, mở thêm đường mới, tận dụng cả đường bộ và đường sông, lại sử dụng mọi phương tiện vận chuyển từ hiện đại đến thô sơ, đặc biệt phát huy vai trò của vận tải cơ giới (lần đầu tiên, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khối lượng vận chuyển của chiến dịch - 85%). Nhờ vậy, đã làm tăng lên rất nhiều khả năng và khối lượng vận chuyển, tiếp tế. Sự kết hợp huy động khả năng hậu cần tại chỗ và đưa từ hậu phương chiến lược ra, đã góp phần cung cấp nhanh chóng các nhu cầu cho chiến dịch(!). Đặc biệt, việc tổ chức tốt cuộc chiến đấu chống không quân địch phá hoại đường, ngăn chặn sự vận chuyển, tiếp tế cho chiến dịch, cùng việc sửa chữa đường sá trên các đầu mối giao thông quan trọng, các đèo dốc hiểm trở, đã đạt kết quả tốt, làm cho công tác vận chuyển, tiếp tế thông suốt trong mọi tình hình. Đây là sự cố gắng rất cao của nhân dân ở hậu phương, của công tác bảo đảm hậu cần, tiếp tế của chiến dịch(!).
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như trong cả cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, ưu thế chính trị - tinh thần của quân và dân Việt Nam đã được phát huy đến cao độ, đồng thời chỗ yếu chí mạng về chính trị - tinh thần của quân đội xâm lược Pháp đã bị khoét sâu triệt để. Ưu thế chính trị - tinh thần của quân và dân Việt Nam đã trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi.
Các chiến sĩ và sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam đã nêu biết bao tấm gương sáng ngời về tinh thần chiến đấu anh dũng, kiên cường, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của một quân đội chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tinh thần chiến đấu đó đã biểu hiện thành những hành động cụ thể rất anh hùng và nhiều cách đánh sáng tạo: dũng mãnh xung phong tiêu diệt địch trong công sự; tích cực làm công sự để bao vây, chia cắt quân địch; tích cực đánh máy bay địch, giữ vững trận địa, đánh bại các đợt phản kích của địch... Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo, Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai... là những tấm gương tiêu biểu. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch đã khắc phục không biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ, lập nên những chiến công rực rỡ.
Nhân dân ở vùng tự do cũng như vùng tạm bị chiếm đã hết lòng phục vụ tiền tuyến, sát cánh chiến đấu với lực lượng vũ trang, thực hiện triệt để khẩu hiệu “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất ngay trong thời gian diễn ra cuộc đọ sức quyết liệt giữa hai bên ở Điện Biên Phủ, đã có tác dụng lớn lao, nâng cao tinh thần yêu nước, trình độ giác ngộ giai cấp của quân và dân Việt Nam, động viên sức người, sức của ở mọi miền của đất nước dồn cho chiến dịch Điện Biên Phủ và cả cuộc tiến công chiến lược.
Công tác đảng và công tác chính trị đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc động viên, nâng cao tinh thần chiến đấu của bộ đội, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của chiến dịch. Đã đi sâu đến từng cán bộ, chiến sĩ, từng chi bộ, từng đại đội, tập trung vào việc giáo dục, kiểm tra nhận thức và thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như: thực hiện nhiệm vụ chiến đấu; phát huy tính tích cực, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ tìm ra những cách đánh có hiệu quả; chấp hành kỷ luật chiến trường; chấp hành chính sách đối với thương binh và liệt sĩ, chính sách đối với tù binh và hàng binh; bảo đảm đời sống của bộ đội trong điều kiện chiến đấu phức tạp, gian khổ; qua chấp hành nhiệm vụ mà củng cố chi bộ đảng, giáo dục và phát triển đảng viên... Đặc biệt là, đã tiến hành một cuộc đấu tranh kiên quyết với những hiện tượng hữu khuynh, tiêu cực nảy sinh trong cuộc chiến đấu quyết liệt, dài ngày với địch. Cuộc đấu tranh đó đã trực tiếp góp phần nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, động viên bộ đội xông lên hoàn thành nhiệm vụ, giành toàn thắng cho chiến dịch.

Từ thắng lợi của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có thể nêu lên mấy nhận xét sau đây về chiến dịch, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật:
1. Chiến dịch Điện Biên Phủ phản ánh sự cố gắng cao nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu như cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 là sự nỗ lực cao nhất của nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược, thì chiến dịch Điện Biên Phủ là thể hiện tập trung sự nỗ lực đó. Chiến dịch này được tiến hành với mục đích rất kiên quyết, bằng những binh đoàn chủ lực tinh nhuệ nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam, sử dụng số lượng lớn vũ khí, trang bị kỹ thuật, có một số vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, áp dụng phương pháp tác chiến mới và tiên tiến. Chiến dịch đã được Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo và chỉ huy. Các chiến trường trên cả nước phối hợp rất chặt chẽ với chiến dịch Điện Biên Phủ. Đặc biệt là, nhân dân cả nước đã hướng về Điện Biên Phủ, động viên, cổ vũ mạnh mẽ “các chiến sĩ Điện Biên Phủ”, đóng góp đến mức cao nhất sức người, sức của bảo đảm cho chiến dịch, có đủ sức mạnh đánh thắng kẻ thù.
2. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một chiến dịch tiến công trận địa lớn nhất trên chiến trường rừng núi, giành được thắng lợi oanh liệt nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài chống quân đội Pháp xâm lược có Mỹ tiếp sức. Lần đầu tiên Quân đội nhân dân Việt Nam đã tổ chức và thực hành thắng lợi loại hình chiến dịch này trên quy mô lớn, trong một thời gian dài, bằng lực lượng các binh đoàn chủ lực lúc đó được tổ chức tương đối hoàn chỉnh. Đó cũng là một chiến dịch tiến công đạt hiệu suất tiêu diệt cao nhất, tiêu diệt gọn một tập đoàn lớn và mạnh nhất của quân địch; đập tan kiểu phòng ngự trận địa mới của chúng - tập đoàn cứ điểm - là hình thức tổ chức phòng ngự cao nhất của quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ. Chiến dịch Điện Biên Phủ cũng đã mang một số yếu tố của chiến dịch hiện đại, tác chiến hiệp đồng một số binh chủng của lục quân, trên chiến trường rừng núi. Đó là một bước phát triển mới của nghệ thuật chiến dịch của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
3. Chiến dịch Điện Biên Phủ tiêu biểu cho nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy đúng đắn, kiên quyết và linh hoạt, thể hiện trong việc tổ chức, sắp xếp các trận chiến đấu kế tục, xen kẽ và kết hợp với nhau một cách chặt chẽ, giải quyết các vấn đề cách đánh chung của chiến dịch và các vấn đề chiến thuật có ý nghĩa chiến dịch một cách sáng tạo. Như việc xác định đúng đắn phương châm “Đánh chắc, tiến chắc” nghệ thuật tiến công tiêu diệt lực lượng lớn quân địch trong hệ thống trận địa phòng ngự tương đối vững chắc trong điều kiện không có máy bay và xe tăng; sự chỉ đạo kịp thời về tư tưởng và hành động của bộ đội trong quá trình chiến dịch... Đó còn là việc lần đầu tiên đã tổ chức tốt tuyến cung cấp, vận tải quy mô lớn, bằng sự kết hợp các phương thức và phương tiện trên địa hình rừng núi, trong điều kiện không quân địch đánh phá quyết liệt, bảo đảm bổ sung lực lượng thường xuyên cho các đơn vị và cung cấp đầy đủ lương thực, vũ khí, đạn dược cho chiến dịch.
Từ Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh, quân và dân Việt Nam đã trải qua một phần năm thế kỷ trong cuộc chiến tranh yêu nước gian khổ và quyết liệt chống cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ.

Lính Pháp ở Điện Biên Phủ lũ lượt ra hàng, chiều 7/5/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Lính Pháp ở Điện Biên Phủ lũ lượt ra hàng, chiều 7/5/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Quân và dân Việt Nam đã đương đầu thắng lợi với những binh chủng và quân chủng rất hiện đại của quân đội Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, cả trong cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam và trong cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.

Các đơn vị xung kích của ta dưới sự chỉ huy của Anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị tấn công sân bay Mường Thanh, ngày 22/4/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Các đơn vị xung kích của ta dưới sự chỉ huy của Anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị tấn công sân bay Mường Thanh, ngày 22/4/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã toàn thắng. Nghệ thuật quân sự Việt Nam có thêm những bước phát triển mới, phong phú, mang tính chất nhân dân sâu sắc, đồng thời những yếu tố hiện đại cũng ngày càng tăng.

Ngày 31/3/1954, quân ta mở đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tập trung vào dãy cao điểm phía Đông, khu sân bay Mường Thanh. Trong ảnh: Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trên khu vực đồi C. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Ngày 31/3/1954, quân ta mở đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tập trung vào dãy cao điểm phía Đông, khu sân bay Mường Thanh. Trong ảnh: Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trên khu vực đồi C. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Trong sự nghiệp bảo vệ Tố quốc trong giai đoạn cách mạng mới, các tướng lĩnh, sĩ quan và chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đang tiếp tục phát triển và hoàn thiện nghệ thuật quân sự của mình, xây dựng nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hiện đại.

Nguồn: Sách "Điện Biên Phủ - Trận thắng thế kỷ " (NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2004) - trang 628. Trước đó, bài đã đăng trong sách: Chiến cuộc Đông Xuân 1953 -1954 một bước phát triển sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam - Nxb Quân đội nhân dân, 1984).
Ảnh: nhandan.vn, TTXVN
Trình bày: VŨ ANH TUẤN