Những thời cơ, thách thức với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam được dự báo có nhiều biến chuyển nhanh chóng, khó lường, tạo ra những cơ hội, thuận lợi mới, chiến lược cho phát triển kinh tế-xã hội đất nước, nhưng cũng có nhiều thách thức. Để xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu, đòi hỏi chúng ta phải tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.
************
1. Về thời cơ
Thứ nhất, qua 40 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu rõ: Những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo[1]. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đời sống nhân dân cả về vật chất, tinh thần được cải thiện. Năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2022 đạt khoảng 4.110 USD/năm[2]. Kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Năm 2020, 2021, 2022 mặc dù kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới (với tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 2,91%; năm 2021 đạt 2,58%; năm 2022 ước đạt 8,02%; năm 2023: quý I tăng 3,28%, quý II tăng 4,05%, quý III tăng 5,33%; tính chung 9 tháng đầu năm - 4,24%)[3]. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2022 đã đạt khoảng 409 tỷ USD/năm[4].
Thành phố Hồ Chí Minh nỗ lực, sáng tạo để luôn trở thành động lực, đầu tàu trong nền kinh tế của đất nước. (Ảnh: Trần Quang Quý)
Thành phố Hồ Chí Minh nỗ lực, sáng tạo để luôn trở thành động lực, đầu tàu trong nền kinh tế của đất nước. (Ảnh: Trần Quang Quý)
Từ năm 2020, Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia, Thailand, Philippines). Sau nhiều năm phát triển, đã xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, sân bay, cảng biển, đường cao tốc, hệ thống điện, nước, công nghệ thông tin, viễn thông khá đồng bộ, hiện đại, kết nối quốc tế. Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có nhiều yếu tố của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập ngày càng phù hợp với các thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách các thủ tục hành chính được đẩy mạnh, các quy định về điều kiện kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh có điều kiện được thu hẹp, ngày càng công khai, minh bạch; môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, thông thoáng, được nâng bậc theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế có uy tín. Nền kinh tế năng động, đạt được tốc độ tăng trưởng hằng năm ở mức cao hàng đầu các quốc gia trên thế giới; dân số Việt Nam đông, gần 100 triệu người với mức thu nhập ngày càng được cải thiện, đang ở giai đoạn dân số vàng, là thị trường và địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam đang được cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh, bền vững trên nền tảng khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao... Những điều này tạo ra cơ hội lớn cho kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới.
Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV.
Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đồng chí lãnh đạo, các doanh nghiệp tại Lễ khánh thành Trung tâm Cách mạng công nghiệp 4.0 (C4IR) Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: Thanh Giang)
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đồng chí lãnh đạo, các doanh nghiệp tại Lễ khánh thành Trung tâm Cách mạng công nghiệp 4.0 (C4IR) Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: Thanh Giang)
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược giữa các doanh nghiệp ô-tô hai nước Việt Nam-Trung Quốc.
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược giữa các doanh nghiệp ô-tô hai nước Việt Nam-Trung Quốc.
Thứ hai, thời cơ từ vị trí địa - chiến lược, địa kinh tế
Việt Nam nằm trên tuyến đường biển huyết mạch của thế giới, nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu và Trung Đông. Việt Nam cũng nằm trên hệ thống kết nối đường bộ của các quốc gia Đông Nam Á và châu Á. Hơn 90% lượng vận tải thương mại thế giới thực hiện bằng đường biển thì có 45% trong số đó phải đi qua Biển Đông. Việt Nam cũng ở cạnh Trung Quốc, gần với Nhật Bản, Hàn Quốc là những quốc gia có tiềm lực kinh tế, thị trường lớn, có tiềm lực tài chính, khoa học - công nghệ mạnh... tạo cơ hội lớn cho Việt Nam mở rộng thị trường, xuất khẩu sản phẩm. Với vị trí địa chiến lược như trên, Việt Nam luôn có ý nghĩa chiến lược và được sự quan tâm của các nước, tạo lợi thế để Việt Nam phát huy thế mạnh, tiềm lực của mình, thu hút được nhiều sự quan tâm, đầu tư của các nước, đặc biệt là các nước lớn. Về vị trí địa - kinh tế, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á - khu vực có nhiều tiềm năng, động lực phát triển kinh tế và là khu vực phát triển nhanh, năng động nhất trên thế giới. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng khốc liệt, Việt Nam đang và sẽ trở thành điểm đến trong thu hút vốn đầu tư trên thế giới.
Thứ ba, thời cơ từ việc tích cực tham gia toàn cầu hóa, hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới
Toàn cầu hóa làm cho thị trường thế giới ngày càng rộng lớn về quy mô, hoàn thiện về cơ chế hoạt động, tạo điều kiện để học hỏi, nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý, thu hút nguồn vốn của thế giới, đặc biệt là tiếp thu tri thức để phát triển nền kinh tế, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu. Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, xây dựng mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam có quan hệ thương mại với 230 thị trường trên thế giới, đàm phán, ký kết nhiều FTA thế hệ mới, trở thành mắt xích quan trọng trong các liên kết khu vực. Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ thương mại tự do với gần 60 nền kinh tế (chiếm 59% dân số, 61% GDP và 68% thương mại thế giới) thông qua 16 FTA, bao gồm cả các FTA thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Việc hội nhập, sâu rộng vào nền kinh tế khu vực, thế giới tạo ra cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế; tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn, thu hút mạnh mẽ FDI và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào thị trường của các nước đối tác...
Thứ tư, thời cơ từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự hội tụ của công nghệ mới xuất hiện dựa trên nền tảng kết nối và công nghệ số, kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Cuộc cách mạng này tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng với chi phí thấp hơn, giúp nền kinh tế hiệu quả, thông minh và sử dụng nguồn lực tiết kiệm hơn. Việt Nam là quốc gia đi sau trong cuộc Cách mạng công nghiệp trước 4.0 nhưng đi cùng với thế giới trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam cũng có lợi thế là đã quan tâm đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia, chuyển đổi số. Việt Nam có tiềm năng về nhân lực công nghệ số. Do đó, Việt Nam có thể đi thẳng vào công nghiệp 4.0, mà mất ít chi phí chuyển đổi. Đặc biệt, nếu tận dụng cuộc cách mạng này, Việt Nam có thể phát triển bứt phá, nhảy vọt, rút ngắn, đi thẳng vào hiện đại, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến khác.
Thứ năm, thời cơ từ lợi thế từ cơ cấu dân số “vàng” và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu
Việt Nam đã bước vào giai đoạn cơ cấu dân số “vàng” từ năm 2006, với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động lớn, tỷ lệ người phụ thuộc thấp. Với khoảng 53 triệu người trong độ tuổi lao động, mỗi năm lại được bổ sung 1,5 triệu người nữa thì đây thực sự là tiền đề để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, lực lượng lao động tăng lên đồng nghĩa với việc năng suất lao động và khối lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên, tài sản xã hội và gia đình được bảo đảm. Dân số nhóm tuổi từ 0-15 tuổi giảm hơn một nửa trong 30 năm qua cũng đã tạo điều kiện tốt hơn cho công tác phòng chống suy dinh dưỡng, khám chữa bệnh, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, giảm bớt chi phí về y tế và an sinh xã hội. Bên cạnh đó, Việt Nam đang đứng trước thời cơ do tầng lớp trung lưu tăng nhanh. Năm 2000, chưa đầy 10% dân số Việt Nam nằm trong tầng lớp trung lưu; nhưng đến nay con số này đã tăng lên 40%. Đến năm 2030, dự kiến con số này có thể đạt gần 70%. Sự gia tăng tầng lớp trung lưu làm thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng, nhất là những hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao, an toàn.
Thứ sáu, thời cơ từ xu hướng tăng trưởng và phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng chuyển đổi xanh lớn nhất trong khu vực và sẽ là một trung tâm về năng lượng tái tạo tại Đông Nam Á. Nhà nước có cam kết và quyết tâm lớn trong việc giảm phát thải, khuyến khích phát triển xanh. Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xanh, Nhà nước đã đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước tiếp cận và áp dụng mô hình nông nghiệp xanh, phát triển công nghiệp xanh, đầu tư vào năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính. Tốc độ phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam hiện đứng thứ 4 trên thế giới. Hơn nữa, phát triển xanh đã tạo cơ hội cho nhiều doanh nghiệp trong nước đổi mới, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình theo chiều sâu, gắn với phát triển bền vững, thân thiện với môi trường. Trong nông nghiệp, có thể kể đến xu hướng sản xuất và xuất khẩu nông sản hữu cơ, đáp ứng xu hướng tiêu dùng của thế giới do những tác động tích cực mà sản phẩm hữu cơ mang lại cho sức khỏe con người, cho môi trường và hệ sinh thái.
Thứ bảy, thời cơ từ những lợi thế, dư địa phát triển của người đi sau
Việt Nam hiện là nước đang phát triển, có mức thu nhập trung bình, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh thời đại từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, có điều kiện để học hỏi và tận dụng tất cả các lợi thế của thời đại đem lại và tránh được các thất bại của các quốc gia đi trước, đặc biệt, những thất bại của các quốc gia rơi vào bẫy thu nhập trung bình; những thất bại của các quốc gia bị khủng hoảng nợ, khủng hoảng nợ công, khủng hoảng cơ cấu hay các cuộc tranh chấp thương mại.
Thứ tám, thời cơ xuất phát từ truyền thống, tiềm năng văn hóa của dân tộc, ý chí tự lực tự cường, khát vọng phát triển đất nước
Thực tiễn thế giới đang và sẽ ngày càng khẳng định rằng, sự thịnh vượng của một quốc gia không chỉ tùy thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, vào tiền vốn, mà tùy thuộc rất lớn vào nguồn lực văn hóa - con người, truyền thống dân tộc: trí tuệ, ý chí, nghị lực, đaọ đức, nhân cách, lối sống, kỹ năng sáng tạo của cá nhân, cộng đồng và dân tộc.
Dân tộc Việt Nam với truyền thống văn hóa qua hơn 4.000 năm lịch sử đã góp phần hình thành những đặc tính cơ bản của con người Việt Nam (với các đặc tính: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo), tạo lập ý chí tự lực tự cường của mỗi cá nhân và toàn dân tộc để vượt qua mọi chông gai, thử thách trong công cuộc dựng nước, giữ nước và kiến thiết, phát triển đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã đúc kết một bài học của cách mạng Việt Nam, đó là “Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại ”. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Nếu như trong những thời kỳ trước, tự lực, tự cường là để giành độc lập, tự do, thì trong thời đại ngày nay, trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, tự lực, tự cường là để xây dựng đất nước giàu mạnh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, Việt Nam đang có những thời cơ để tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
2. Về thách thức
Thứ nhất, Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào bẫy thu nhập trung bình
Giai đoạn đổi mới vừa qua, tăng trưởng mỗi một thập niên lại suy giảm so với thập niên trước. Trong 15 năm trở lại đây, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ tăng 1.600 USD, trong khi Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc tăng lần lượt là 3.600 USD, 6.500 USD và 16.000 USD. Xét về quy mô, tổng GDP của Việt Nam chỉ tăng 160 tỷ USD, trong khi Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc tăng tương ứng là 270, 200, 700 và 850 tỷ USD. Điều này cho thấy, mặc dù GDP tăng 6 - 7%, nhưng số tuyệt đối này rất nhỏ và khoảng cách của Việt Nam so với các nước ngày càng xa.
Ngoài ra, nền kinh tế Việt Nam chất lượng tăng trưởng thấp, năng lực cạnh tranh yếu, nguồn lực, động lực của giai đoạn trước đang cạn dần. Kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo chiều rộng, dựa vào vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông; chuyển dịch sang phát triển theo chiều sâu dựa trên khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao còn chậm. Bên cạnh đó, tăng trưởng năng suất trên đà giảm xuống. Năng suất lao động của Việt Nam thấp so với các nước Đông Nam Á. Năng suất lao động trong khu vực nhà nước thấp hơn nhiều khu vực khác, trong khi năng suất lao động trong khu vực kinh tế tư nhân còn thấp hơn.. Nợ công, thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài. Nợ xấu của nền kinh tế cũng đã chạm trần, cho nên khả năng cung ứng vốn từ ngân sách cho đầu tư phát triển từ năm 2020 trở đi sẽ hạn chế. Xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp trong nước 95 - 96% là doanh nghiệp nhỏ, trình độ công nghệ thấp.
Thứ hai, nguy cơ lệ thuộc vào bên ngoài và mất độc lập, tự chủ về kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế
Những năm tới, khi các cam kết quốc tế có hiệu lực, thực hiện đầy đủ việc mở cửa nền kinh tế, Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường thế giới. Các tác động tiêu cực từ bên ngoài gồm khủng hoảng kinh tế; giá dầu, lạm phát cao, dịch chuyển dòng vốn đầu tư... đối với kinh tế Việt Nam cũng sẽ ngày càng sâu sắc hơn. Hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho các chủ thể, doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập vào nền kinh tế, chiếm lĩnh, thao túng thị trường trong nước, làm phá sản những doanh nghiệp trong nước để độc quyền, làm cho nền kinh tế trong nước bị phụ thuộc, bị điều khiển bởi các chủ thể nước ngoài, đặc biệt là các nước lớn, làm giảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Trong hội nhập quốc tế, khi bị phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến trường hợp doanh nghiệp Việt Nam bị sức ép cạnh tranh, dễ bị thua thiệt, bị thâu tóm. Việc gia tăng các chủ thể đầu tư nước ngoài cũng có thể gây ra nguy cơ về chính trị, xã hội, ô nhiễm môi trường... Hội nhập quốc tế làm cho việc quản lý, kiểm soát nền kinh tế và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế khó khăn, phức tạp hơn; làm mất quyền chủ động trong xây dựng, ban hành pháp luật, chính sách, bị phụ thuộc vào các thông lệ, điều ước quốc tế đã ký kết và tạo ra sự khó kiểm soát về thông tin kinh tế, gây nguy cơ đe dọa đến độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Thứ ba, thách thức đối với việc bắt kịp và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra trên rất nhiều bình diện với trình độ rất cao, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế. Để nắm bắt được cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu, đòi hỏi phải đáp ứng được các điều kiện và yêu cầu đặt ra. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hệ thống thể chế cho các hoạt động, các lĩnh vực, các mô hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, xử lý tranh chấp,... việc quản lý các hoạt động kinh tế, sinh hoạt xã hội trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư một số nội dung còn chưa hình thành, còn nhiều bất cập; việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển khoa học - công nghệ, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. chưa đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế đất nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Do đó, theo kịp tốc độ phát triển của cuộc cách mạng này không phải là nhiệm vụ đơn giản, dễ dàng của Việt Nam. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng gây ra những thách thức do việc phải tái cơ cấu nền kinh tế trên diện rộng, làm giảm mạnh lợi thế lao động giá rẻ, ảnh hưởng đến việc làm của nhân viên trong các ngành, như ngân hàng, may mặc, vận tải... do ứng dụng công nghệ số. Sức ép cạnh tranh đối với doanh nghiệp vừa và nhở ở Việt Nam, doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình truyền thống càng thêm khốc liệt do sự phát triển của các công ty công nghệ mới nổi, các công ty công nghệ siêu nhỏ...
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển của công nghệ số, xã hội số, văn hóa số,... tạo ra thách thức mới trong quản lý phát triển xã hội. Trong những thập niên gần đây, bất bình đẳng về thu nhập đã có xu hướng tăng nhanh ở Việt Nam, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư lại càng làm khuyếch đại thêm xu hướng này do nhờ có ý tưởng liên quan đến công nghệ và đổi mới sáng tạo, nên đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp, tỷ phú công nghệ giàu lên nhanh chóng, trong khi đó nhóm lao động giản đơn, ít kỹ năng bị mất việc làm, giảm thu nhập do dễ bị thay thế bởi người máy, bởi tự động hóa, ứng dụng công nghệ số, từ đó dẫn đến sự gia tăng bất bình đẳng, làm chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các nhóm trong xã hội.


Ô nhiễm không khí tại Hà Nội. (Ảnh: Thành Đạt)
Ô nhiễm không khí tại Hà Nội. (Ảnh: Thành Đạt)
Thứ tư, thách thức từ ô nhiễm môi trường ở Việt Nam
Ở Việt Nam đã có nhiều khu vực bị ô nhiễm, suy thoái môi trường, trong đó có những điểm đáng chú ý sau đây: Lưu vực một số con sông gần thành phố lớn được đánh giá ở mức xấu và kém do tiếp nhận một lượng lớn nước thải sinh hoạt từ các đô thị, làng nghề chưa qua xử lý. Hiện tượng ô nhiễm môi trường nước dưới đất đã và đang diễn ra ở một số khu vực trên khắp cả nước. Hàm lượng chất hữu cơ và dầu mỡ trong nước biển ven bờ cũng có xu hướng tăng theo thời gian tại các khu vực cảng biển. Vấn đề ô nhiễm bụi, đặc biệt là bụi mịn (PM2.5) tại một số đô thị lớn, nhất là tại thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp trong những năm gần đây. Ô nhiễm đất gia tăng chủ yếu do hoạt động phát triển công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt, dịch vụ,... do chất thải, nước thải chưa được xử lý và phân bón hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật chưa được quản lý, kiểm soát, xả thải vào môi trường đất. Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ suy thoái đa dạng sinh học và sự mất cân bằng sinh thái. Một loạt các sự cố môi trường nghiêm trọng vẫn còn xảy ra, gây thiệt hại lớn về kinh tế, cũng như ảnh hưởng mạnh mẽ đến môi trường, các hệ sinh thái tự nhiên và sức khỏe của người dân. Những vấn đề về môi trường, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam gây ra các thách thức như: Suy thoái chất lượng rừng và mất chức năng phòng hộ; thách thức đối với vấn đề an toàn thực phẩm; cạn kiệt nguồn tài nguyên và gia tăng xung các đột môi trường; thách thức về xâm lược sinh thái và an ninh môi trường xuyên biên giới; gia tăng tai biến thiên nhiên và sự cố môi trường; ảnh hưởng đến sức khỏe con người; suy thoái đa dạng sinh học và mất cân bằng sinh thái; suy giảm chất lượng đất và đe dọa đến nền nông nghiệp. Ô nhiễm môi trường tác động tiêu cực đến sức khỏe của người dân; làm gia tăng áp lực lên hệ thống y tế, hệ thống an sinh xã hội.
Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập nghiêm trọng hơn tại các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long. (Ảnh: Viết Chung)
Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập nghiêm trọng hơn tại các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long. (Ảnh: Viết Chung)
Thứ năm, thách thức do tác động của biến đổi khí hậu
Trong những năm gần đây, Việt Nam là quốc gia bị tổn thương nhất bởi tác động của khí hậu. Sự thay đổi và các hiện tượng liên quan của nó, bao gồm cả thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Trong vòng 50 năm qua, nhiệt độ và lượng mưa có sự khác biệt lớn giữa các vùng của Việt Nam, nhiệt độ tăng, lượng mưa giảm ở phía Bắc và tăng ở phía Nam. Theo báo cáo Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2020 (Global Climate Risk Index 2020) của Tổ chức Tham vấn môi trường đã chỉ ra Việt Nam đứng thứ sáu trong số 10 quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi thiên tai xét trong giai đoạn 1999 - 2018. Điều này cho thấy Việt Nam chịu tác động lớn từ thiên tai và mức độ tổn thất và thiệt hại đáng kể do các hiện tượng thời tiết cực đoan. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam được thể hiện qua các chỉ số về lượng khí thải CO2, nhiệt độ, lượng mưa, mực nước biển, xoáy thuận nhiệt đới, hạn hán và lũ lụt. Biến đổi khí hậu có những ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Những ngành bị tổn thương lớn nhất là nông nghiệp, thủy sản, du lịch...; đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất là người dân ở khu vực miền núi và ven biển, nhất là người nghèo, phụ nữ và trẻ em. Cụ thể: Làm giảm tổng sản lượng nền kinh tế; làm giảm sản lượng nông nghiệp và thủy sản; ảnh hưởng đến sản lượng công nghiệp và dịch vụ; gây ra thách thức đến năng suất lao động, an ninh năng lượng; ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sinh kế, di cư và các vấn đề đô thị, xã hội; làm giảm tính truyền dẫn của mạng lưới sản xuất; gây ra các thách thức, rủi ro về kinh tế vĩ mô; làm suy giảm các tài nguyên thiên nhiên, ảnh hướng tới hệ thống kết cấu hạ tầng.
Biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế, thu nhập, việc làm, an ninh lương thực, hệ thống kết cấu hạ tầng. của người dân và cộng đồng và gây ra các vấn đề xã hội như di cư, giảm sút chất lượng giáo dục đào tạo, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Thứ sáu, thách thức từ già hóa dân số nhanh và chất lượng dân số thấp ở Việt Nam
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, từ năm 2017, dân số từ 65 tuổi của nước ta đã chiếm 7,15% tổng dân số và nước ta chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số. Già hóa dân số ở Việt Nam có các đặc điểm: Diễn ra nhanh và nhanh hơn nhiều so với nhịp độ tăng dân số; già hóa dân số cũng diễn ra với nhịp độ khác nhau theo giới tính và theo vùng, miền; già hóa dân số đi kèm với nhu cầu tiếp tục làm việc gia tăng; già hóa dân số chưa gắn với cải thiện sức khỏe người già; người già chủ yếu sống ở nông thôn, chất lượng cuộc sống đã được cải thiện, nhưng còn chưa cao, đời sống nhìn chung còn nhiều khó khăn, bất cập; trong cơ cấu người cao tuổi, tỷ lệ người cao tuổi trong nhóm tuổi cao nhất và các cụ bà tăng nhanh; việc bảo đảm tài chính của người cao tuổi còn gặp nhiều khó khăn. Già hóa dân số có tác động ngày càng mạnh đối với nền kinh tế Việt Nam trong cả ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, già hóa dân số ảnh hưởng đến cơ cấu lực lượng lao động, và từ đó, đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong dài hạn, già hóa dân số tạo ra các tác động đa chiều, nhiều lĩnh vực từ kinh tế đến an sinh xã hội và cả văn hóa.
Chất lượng dân số ở Việt Nam thấp, thể hiện ở các nội dung: Chất lượng dân số Việt Nam mặc dù đã có sự cải thiện, nhưng chưa đáng kể so với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới; mật độ dân số cao, phân bố dân số không đều; cơ cấu dân số theo giới tính dần cân bằng nhưng lại mất cân bằng nghiêm trọng ở nhóm tuổi trẻ và nhóm tuổi cao; cơ cấu dân số theo dân tộc cũng có điểm hạn chế; chất lượng dân số về trí lực và năng lực còn thấp, tỷ lệ lao động được đào tạo thấp, năng suất lao động chưa cao, chỉ học vấn của Việt Nam thấp trong các chỉ số cấu thành chất lượng dân số Việt Nam; chất lượng dân số Việt Nam khác biệt giữa các khu vực, các vùng, địa phương; tỷ lệ bệnh, tật bẩm sinh của thai nhi, trẻ sơ sinh cao; tỷ lệ suy dinh dưỡng, béo phì, tỷ trẻ em rối nhiễu tâm trí còn cao; thể lực, tầm vóc, sức bền của con người Việt Nam chậm được cải thiện và còn yếu so với nhiều nước khác trên thế giới, kể cả các nước đang phát triển; tỷ lệ khuyết tật, thương tích cao, sức khỏe tâm thần chưa tốt. Chất lượng dân số Việt Nam thấp gây ra các thách thức đối với phát triển kinh tế: Chất lượng dân số thấp gây tổn thất kép về lao động, hạn chế tăng trưởng kinh tế; gánh nặng về chi phí khám, chữa bệnh cao, cản trở chương trình xóa đói, giảm nghèo và nâng cao hạnh phúc nhân dân; tỷ lệ tăng năng suất lao động thấp, tăng trưởng kinh tế sẽ không bền vững; lợi thế của dân số vàng chưa được khai thác hiệu quả và rơi vào tình trạng “già trước khi giàu”; chất lượng dân số khác biệt giữa các vùng, địa phương dẫn đến bất bình đẳng, phân hóa, phân cực trong xã hội ngày càng sâu sắc, khó thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, bao trùm.
Thứ bảy, các thách thức đến từ đô thị hóa
Tốc độ đô thị hóa nhanh dẫn đến tình trạng hạ tầng đô thị không đáp ứng được nhu cầu, mất cân đối, quá tải và sức ép lên hệ thống hạ tầng thiết yếu (y tế, giáo dục, môi trường...) tại các đô thị.
3. Định hướng giải pháp
Để tận dụng được các thời cơ, vượt qua các thách thức nêu trên trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, trong đó tập trung vào một số định hướng giải pháp chủ yếu như sau:



Một là, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tháo gỡ điểm nghẽn thể chế; tập trung rà soát, sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa hợp lý trong hệ thống luật pháp, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện pháp luật; đẩy mạnh cải cách hành chính. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy định kinh doanh. Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ chủ trương, đường lối, nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Đảng. Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, hoàn thiện quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để việc phân bổ các nguồn lực của Nhà nước được thực hiện theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, xóa bỏ cơ chế xin - cho; hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường; huy động, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để đổi mới, xây dựng quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; chú trọng quản lý phát triển xã hội; phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả bộ máy Nhà nước ở trung ương, địa phương, kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức. Đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số. Xây dựng khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách cho đổi mới sáng tạo, các mô hình kinh tế, kinh doanh mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo...
Hai là, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số. Khơi dậy khát vọng, quyết tâm, hành động phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý; đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được; đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của cán bộ, xác định đúng tiêu chuẩn từng loại cán bộ, mở rộng diện tham gia đánh giá, kênh đánh giá cán bộ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá cán bộ, đánh giá cán bộ thường xuyên, liên tục...; xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trên cơ sở phân định rõ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung với người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông, không thực tế; chú trọng phát hiện bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia cả trong và ngoài nước, hoàn thiện cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài; tạo môi trường khoa học cho nhân lực khoa học và công nghệ hoạt động, cống hiến, sáng tạo; hoàn thiện chính sách thu hút, đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh đội ngũ nhân lực khoa học - công nghệ; phát triển đội ngũ doanh nhân ở Việt Nam, chú trọng đội ngũ doanh nhân của các doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; cần phải “đẩy nhanh”, “tạo đột phá” trong đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; đồng thời, phải giải quyết dứt điểm những điểm nghẽn hiện nay trong giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, gắn với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển. Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao, đổi mới sáng tạo; đồng thời, có cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực xã hội, nhất là các doanh nghiệp vào hoạt động đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học - công nghệ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế cho hoạt động, phát triển thị trường khoa học và công nghệ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ với các sản phẩm khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. Có cơ chế, chính sách tạo động lực để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu phát triển, nhất là đầu tư đổi mới công nghệ, tiếp thu và làm chủ công nghệ hiện đại, phát huy sáng kiến, cải tiến, đầu tư vào các lĩnh vực mới, sản phẩm mới, công nghệ cao; khuyến khích, tạo thuận lợi, hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, phát triển doanh nghiệp ứng dụng các thành tựu mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hình thành các quỹ tài chính hỗ trợ cho các tổ chức khoa học, các doanh nghiệp nghiên cứu và đổi mới công nghệ.
Ba là, tập trung phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, nhất là hệ thống đường cao tốc, nâng cấp các sân bay, bến cảng, hạ tầng đô thị, hạ tầng liên vùng. Rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, bảo đảm hiệu quả tổng hợp và tính hệ thống, nhất là mạng lưới giao thông, điện, nước, thủy lợi, giáo dục, y tế, hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin, thu gom và xử lý chất thải rắn, quy hoạch bảo vệ môi trường; rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch hạ tầng kỹ thuật đô thị;... tiếp tục rà soát, tháo gỡ các rào cản trong các thể chế, quy định của pháp luật để đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh việc huy động và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Phát triển kết cấu hạ tầng đô thị thông minh. Phát triển kết cấu hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu. Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số.
TS. Nguyễn Mạnh Hùng, Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương
và nhóm tác giả:
GS, TS. Nguyễn Quang Thuấn, Trưởng Tiểu ban Kinh tế Hội đồng Lý luận Trung ương
PGS, TS. Đoàn Xuân Thủy, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
PGS, TS. Trần Kim Chung, Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương
(Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc gia “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức ngày 15/11/2024)
Xuất bản: Tháng 11/2024
Trình bày: Phương Trang
Ảnh: Báo Nhân Dân