
Sau khi vua Bảo Đại thoái vị, chính quyền về tay nhân dân, rất nhiều thành viên hoàng tộc đã đi theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia Cách mạng, sát cánh cùng đồng bào mình trong công cuộc giải phóng dân tộc. Nhiều người trong số đó đã trở thành Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nhiều người đã hy sinh…
Những người “hôm qua là hoàng tộc, hôm nay về với dân”
Theo nhà nghiên cứu, Tiến sĩ Phan Tiến Dũng (Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Huế), có rất nhiều thành viên hoàng tộc đi theo Cách mạng, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong số đó, tiêu biểu có thể kể đến các Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tôn Thất Cảnh, Bửu Đóa, các thành viên hoàng tộc khác như Miên Hường, Bửu Vĩnh, Vĩnh Mẫn, Vĩnh Tập… Sau thời điểm Vua Bảo Đại thoái vị, được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm cố vấn cho Chính phủ, nhiều người trong hoàng tộc đã đi theo cách mạng. “Ngày hôm qua là người có quan chức, là người trong hoàng tộc, ngày hôm nay về với dân” – Tiến sĩ Phan Tiến Dũng nói.
Theo tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, từ trước Cách mạng Tháng Tám, một số vị vua cuối Triều Nguyễn đã là những vị vua yêu nước, một số thân sĩ, trí thức trong Hoàng tộc đã chống lại chính quyền Pháp ở Đông Dương, ở Trung Kỳ. Trong phong trào Cần Vương, những ngày gian khổ ở miền tây Quảng Trị, Vua Hàm Nghi đã nói: "Đi đâu cũng được, sống thế nào cũng được, miễn là đuổi cho được giặc Pháp ra khỏi đất nước".
Theo thứ tự từ trái sang phải: Vua Hàm Nghi, vua Duy Tân, Kỳ ngoại hầu Cường Để
Theo thứ tự từ trái sang phải: Vua Hàm Nghi, vua Duy Tân, Kỳ ngoại hầu Cường Để
Vua Thành Thái từ lúc còn nhỏ tuổi, đã chung sống với nhân dân lao động, chia sẻ gian khổ với người lao động, người nghèo, đã từng đi cắt tóc, lái xe...
Vua Duy Tân, ở Cửa Tùng (Quảng Trị) khi rửa tay bẩn đã nói một câu đầy hàm ý: “Tay bẩn lấy nước mà rửa, nước bẩn lấy máu mà rửa". Vua tự nhủ: "Phải có chí, vượt gian khổ, khó khăn thì đời sống mới có ý nghĩa". Khi mẹ giục lấy vợ, Duy Tân thưa là xin phép được lấy con gái thầy dạy chữ, vì "Thầy Đôn dạy con biết thương Dân, thương Nước, trọng dụng trung thần, xa lánh nịnh thần".
Chắt trai của hoàng tử, con trai vua Minh Mạng là Nguyễn Phúc Bửu Đình (1898-1931), thông phán ngành bưu điện của Pháp tại Sài Gòn từng hô hào nhân dân chống Pháp, xóa bỏ chế độ Nam Triều, bị đày vào ngục Lao Bảo 9 năm rồi lại bị đày ra Côn Đảo...
Nguyễn Phúc Hồng Dân, tức Kỳ ngoại hầu Cường Để, cháu năm đời của Gia Long, cháu trực hệ của Hoàng tử Cảnh, Hội trưởng Hội Quang Phục, từng bôn ba Nhật, Xiêm (Thái Lan), Trung Quốc cùng Phan Bội Châu và các đồng chí của mình mưu toan việc nước dù không thành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ nhiều con cháu hoàng tộc nhà Nguyễn đã hăng hái tham gia Cách mạng, gia nhập quân đội, từ bỏ cảnh "lá ngọc cành vàng", hòa nhập với cuộc sống gian khổ cùng nhân dân, quân đội. Khi trường Võ bị Sơn Tây, Trần Quốc Tuấn khóa 1 năm 1946 khai mạc đã có nhiều thành viên hoàng tộc tham gia như Nguyễn Phước Hoàng (Tôn Thất Hoàng) làm giáo viên, có Tôn Thất Châu, Bửu Đích, Bửu Giai, Tôn Thất Khoa, Nguyễn Phước Vĩnh, Bửu Vĩnh Sách, Bảo Sàng (Quang Long), Nguyễn Phước Thức, Tôn Thất Thiện, Tôn Thất Xuân, Tôn Thất Vỹ, Tôn Thất Phúc... là học viên. Có những người đã hy sinh tính mệnh để góp phần cùng toàn dân giành Độc lập - Tự do.
Có thể kể đến rất nhiều người đã trở thành liệt sĩ, như Tôn Thất Hoàng, Tôn Thất Điệp, Tôn Thất Long, Tôn Thất Khoa, Tôn Thất Hiếu. Nhiều người cũng đã tham gia kháng chiến trên nhiều lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa… như nghệ sĩ Tôn Thất Dương Kỵ, nhà ngoại giao Tôn Thất Vỹ, giáo sư y khoa Công Tôn Nữ Ngọc Toản, các cán bộ quân sự như Vĩnh Mẫn, Tôn Thất Hoàng…
Trong tổng số 14 thanh niên hoàng tộc theo học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khóa đầu tiên, có 9 người đã hy sinh anh dũng từ năm 1946, trong số này có Tôn Thất Xuân, tại mặt trận Huế, đã diệt được nhiều địch và là người đầu tiên của thành phố Huế được thưởng Huân chương chiến công hạng Nhất.
Năm 1949, cụ Ưng Úy nguyên là Thượng Thư bộ Lễ của Triều đình Huế thời Bảo Đại đã rời Huế ra chiến khu tham gia kháng chiến, để phản đối thực dân Pháp lôi kéo Bảo Đại, thành lập chính phủ bù nhìn, thực hiện âm mưu “dùng người Việt trị người Việt”.
Trong dòng dõi hoàng tộc, đã có những trí thức lớn có nhiều cống hiến cho Cách mạng, cho dân tộc, như Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Cảnh …
Ông Bửu Dục (Thành phố Huế), vốn là sĩ quan quân đội, nay đã về hưu, là con của Thượng thư Ưng Tôn (cháu nội Tuy Lý Vương Miên Trinh) cũng từng theo lời hiệu triệu của Bác Hồ mà đi theo Cách mạng. Gia đình ông, các anh, chị em ruột là Bửu Kỳ, Như Hoành, Nam Mai, Bửu Hiến cùng trong số đó.
Những tấm gương tiêu biểu
Hoàng thân Vĩnh Tập
Hoàng thân Vĩnh Tập sinh ngày 4/4/1927, tại Thuận An (Thành phố Huế ngày nay), là chắt nội vua Hiệp Hòa (1846-1883) - vị vua thứ 6 của nhà Nguyễn.
Vĩnh Tập là con trai cả của con trai của Phó vương Bửu Trác thời vua Khải Ðịnh, là một người có lòng yêu nước, có tinh thần kháng Pháp, bị tước chức và đày đi Lao Bảo.
Cụ Bửu Trác -con của Hoàng tử trưởng Ưng Bá, từng giữ chức Thống chế nhất phẩm triều đình, là người có "tính hạnh tốt, chữ Pháp, chữ Hán đều khá thông hiểu", nhưng người đời thường nhớ đến và truyền tụng cho nhau nghe về tính cách ngang tàng không chịu luồn cúi thực dân đến mức bị đày đi Lao Bảo của cụ. Vị Phó vương ấy đã từng nổi tiếng với những câu thơ: "Ai về địa phủ hỏi Gia Long - Khải Ðịnh thằng này phải cháu ông - Chễm chệ ngai vàng tô tượng gỗ - vua thì còn đó nước thì không".
Ông hoàng Vĩnh Tập là anh trai của ông hoàng Vĩnh Mẫn, là thành viên của chuyến tàu Không số trên đường Hồ Chí Minh trên biển. Ông cũng chính là người đã dìu dắt em trai mình đi theo con đường Cách mạng.
Hai anh em Vĩnh Tập, Vĩnh Mẫn lớn lên trong một "nếp nhà" tạo nền móng đạo đức thanh bạch và hướng thiện. Thời đó, ở Huế, nhiều thanh niên trí thức, trong đó có Vĩnh Tập được giác ngộ cách mạng, tham gia Hội hướng đạo sinh Trung Kỳ \do thầy Tạ Quang Bửu làm huynh trưởng. Những người tham gia đều công khai nguyện trung thành với Tổ quốc, làm những việc có ích cho xã hội như đi lạc quyên cứu đói, hoạt động truyền bá quốc ngữ, giúp đỡ người nghèo...
Suốt thời gian hoạt động, hoàng thân Vĩnh Mẫn chỉ được gặp anh trai mình 2 lần. Ông từng kể về anh trai Vĩnh Tập: “Trước ngày khởi nghĩa ở Huế chừng dăm hôm, Vĩnh Tập về nhà mang theo một túi nhỏ đựng con dấu của Ủy ban khởi nghĩa thành phố Huế và một khẩu súng lục kiểu Unique. Trong thời gian ngắn Huế được hưởng độc lập, Vĩnh Tập hăng hái tham gia các hoạt động xã hội như quyên góp chống đói, truyền bá quốc ngữ. Trong "tuần lễ vàng", anh đã mang đi vật quý của bố là chiếc mũ Ðại triều hiến cho cách mạng.
Sau khi theo học một lớp học ngắn ngày ở Quảng Nam, anh được điều vào Kon Tum, hình như là đi tìm các kho súng của Nhật chôn giấu ở đó. Anh trở về trong bộ "xi-ta" tím nhạt, trông gầy đi nhiều, người đen đúa. Ðợt đó anh bị sốt nặng, phải nằm bệnh viện. Vừa bình phục anh được tuyển vào Tiếp phòng quân”.
Vĩnh Tập ở Trung đội 9, đơn vị đặc biệt của Tiểu đoàn Tiếp phòng quân Thuận Hóa. Đêm 2/1/1946, Trung đội trưởng Nguyễn Mạnh Giao và Chính trị viên Vĩnh Tập đã dẫn phân đội 9 gồm 17 chiến sĩ tấn công quân Pháp cố thủ trong nhà hàng Chaffanjon (số 5 đường Hà Nội, Huế bây giờ).
Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra vô cùng ác liệt. Trung đội cảm tử quân Vệ Quốc Đoàn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và đã tự nổ mìn đánh sập ngôi lầu trước khi rút. Nhưng cả trung đội đã bị giặc Pháp phun xăng thiêu cháy.
Năm 1992, khi đào móng xây nhà trên đường Hà Nội, người ta đã tìm thấy 17 bộ hài cốt cùng các kỷ vật Trung đội cảm tử quân 9, trong đó có khẩu súng lục ru-lô và con dao găm của hoàng thân Vĩnh Tập thường mang khi chiến đấu…

Hoàng thân Vĩnh Tập hồi nhỏ
Hoàng thân Vĩnh Tập hồi nhỏ

Tàu không số. Ảnh tư liệu
Tàu không số. Ảnh tư liệu
Hoàng thân Vĩnh Mẫn, thành viên Tàu không số của “đường Hồ Chí Minh trên biển”
Hoàng thân Vĩnh Mẫn sinh năm 1931, là em trai của hoàng thân Vĩnh Tập.
Gia đình hoàng thân Vĩnh Mẫn có 6 anh chị em, đi theo kháng chiến đã có 2 người hy sinh, trong đó chị ruột của ông là bà Băng Tâm đi kháng chiến chống Pháp thời kỳ đầu hy sinh vẫn chưa tìm được mộ.
Ông hoàng Vĩnh Mẫn đi theo Cách mạng từ năm 14 tuổi, 19 tuổi trở thành Đảng viên. Ông là cán bộ Tổng cục Chính trị, cán bộ tuyên huấn của Lữ đoàn vận tải Hồ Chí Minh trên biển với cái tên Phan Thắng.
Học xong khóa 5 Trường lục quân Trần Quốc Tuấn, ông được giữ lại trường dạy học. Năm 1951, được phân công Nam tiến, đi bộ 8 tháng vào miền Đông Nam Bộ, được anh Ba Trà (Trần Văn Trà) và Bảy Thuận (Nguyễn Đức Thuận) tin tưởng giao cho làm Đại đội phó, sau đó làm chính trị viên trưởng Đại đội. Đại đội này hoạt động cả ở chiến trường Campuchia, sau đó về Sa Đéc.
Năm 1954, Vĩnh Mẫn tập kết ra bắc, trở lại trường Lục quân học khóa 10. Cùng tập kết với ông còn có rất nhiều anh em Nam Bộ nên ông thấu hiểu được tâm trạng “ngày bắc, đêm nam” của anh em. Trong lòng họ luôn chất chứa một nỗi niềm canh cánh về miền nam ruột thịt.
Vì có kinh nghiệm ở miền nam và từng làm Trợ lý giáo dục Sư đoàn 338 nên ông được ở trong Ban Công tác đặc biệt: Ban đi B, tháng 2/1965, đi tàu Không số vào Nam Bộ công tác. Nhưng trên đường đi bị lộ, con tàu phải quay lại miền bắc. Vĩnh Mẫn được Tổng cục Chính trị điều luôn về làm Trưởng ban Tuyên huấn Đoàn tàu không số, làm nhiệm vụ đặc biệt, bí mật vận chuyển vũ khí bằng đường biển về chiến trường miền nam.
Khoảng năm 1973, Vĩnh Mẫn trở thành Chính ủy Trung đoàn Cửa Việt - tên một đơn vị trong lực lượng “Đường Hồ Chí Minh” trên biển nổi tiếng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với nhiều chiến công hiển hách.
Đất nước thống nhất, ông xin chuyển ngành về quê hương và lấy lại tên Vĩnh Mẫn. Ông được phân công làm Trưởng ban Hợp tác kinh tế văn hóa tỉnh Bình Trị Thiên và nhiều công tác khác với nước bạn Lào, Campuchia.
Người dân Thừa Thiên Huế tiến về sân vận động Huế Mùa thu tháng 8/1945. (Ảnh tư liệu)
Người dân Thừa Thiên Huế tiến về sân vận động Huế Mùa thu tháng 8/1945. (Ảnh tư liệu)
Cán bộ tiền khởi nghĩa Bửu Bá
Ông Bửu Bá là con trai thứ ba của Ngài Ưng Vũ (ông hoàng thứ 10), tham gia phong trào sinh viên, lập đội vũ trang tuyên truyền bảo vệ chính quyền cách mạng từ năm 1944. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông đứng trong lực lượng vũ trang của Đảng, tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn. Chỉ sau mấy tháng, Nam Bộ nổ ra chiến tranh, ông được bổ sung vào đội Tiếp Phòng quân, một mặt giao dịch thương thuyết với quân đội Pháp, mặt khác bảo toàn lực lượng chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Quân Pháp vi phạm nhiều điều khoản trong Hiệp định, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông và đội Tiếp Phòng quân được điều ra Khu 5. Ở đây Trung đoàn 178 được thành lập, ông là chính trị viên của một tiểu đoàn, ông trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản từ đó.
Sau Hiệp định Geneva, quân ta tập kết ra bắc, ông cùng Sư đoàn 305 về đóng quân ở Phú Thọ, Yên Bái. Ở đây ông được giao nhiệm vụ thành lập trường Hạ sĩ quan để đào tạo cán bộ cơ sở tiến lên chính quy hiện đại, đào tạo được hàng nghìn cán bộ tiểu đội và trung đội, được đánh giá là điển hình trong khối nhà trường toàn quân. Chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ lan ra miền bắc, ông được điều đi nghiên cứu tình hình tư tưởng và làm giáo trình giáo dục tư tưởng trong toàn quân.
Là một nhà giáo dục quân sự ông đi hầu khắp các chiến trường ở miền bắc, đặc biệt là Khu 4.
Mặt trận cần nhiều cán bộ, ông lại nhận chức Chính ủy trưởng Quân chinh Quân Khu 4 chuyên đào tạo trực tiếp những cán bộ bổ sung ngay cho các Binh đoàn "ngày bắc đêm nam”. Ở đây ông bị thương nặng, giấu vợ con, rồi đi tiếp chiến trường Đường 9 Nam Lào. Chiến thắng Quảng Trị thắng lợi, khu giải phóng được mở rộng, ông lại trở về Học viện Quân sự Chính trị Cao cấp.
Tại Hội nghị cán bộ Quân chính toàn quân tổng kết chiến dịch Hồ Chí Minh ông được tặng Huân chương Quân công Hạng Nhất, Huân chương Quân kỳ Quyết thắng với hơn 8 Huân Huy chương khác được thưởng từ trước.
Trở về quê hương vào năm 1977 sau bao năm xa cách ông lại tiếp tục công tác tại trường Đảng của tỉnh trong nhiều năm. Ông là một trong những người xúc tiến thành lập Hội Cựu chiến binh tỉnh Thừa Thiên - Huế, đứng trong Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh tỉnh trong nhiều năm, đồng thời cũng tham gia làm Bí thư Chi bộ đường phố, chỉ đến khi tuổi già, sức yếu ông mới xin nghỉ.
Anh hùng Lực lượng vũ trang Tôn Thất Cảnh
Liệt sĩ Tôn Thất Cảnh là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, cán bộ lão thành cách mạng, chính trị viên đầu tiên của Công an Thừa Thiên Huế (cũ), nay là Thành phố Huế.
Tiếp nối con đường mà cha mình là liệt sĩ Tôn Thất Cảnh đã chọn lựa, 2 người con của ông cũng tham gia cách mạng và hy sinh năm 1947. Vợ liệt sĩ Tôn Thất Cảnh là bà Nguyễn Thị Trân đã được Đảng, Nhà nước ta phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng. Gia đình liệt sĩ Tôn Thất Cảnh được Bác Hồ tặng 8 chữ vàng: "Một nhà Trung nghĩa - Muôn thuở thơm danh". Hiện, 8 chữ vàng được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Anh hùng Lực lượng vũ trang Bửu Đóa
Sinh năm 1920 tại Thừa Thiên - Huế trong một gia đình có truyền thống yêu nước, tới năm 1936, ông Bửu Đóa vào làm công nhân ở Nhà máy đèn Chụt (nay thuộc phường Vĩnh Nguyên) rồi tham gia Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám giành chính quyền tại Nha Trang.
Tháng 10/1945, sau khi đánh chiếm Nam Bộ, thực dân Pháp tấn công Nha Trang. Thời gian này, Ty Công an Khánh Hòa quyết định thành lập Ban Ám sát, sau đổi tên thành Đội Công an xung phong với nhiệm vụ luồn sâu vào lòng địch nắm tình hình, chiến đấu tiêu hao sinh lực quân Pháp, tiêu diệt tay sai ác ôn, mật thám nhằm bảo vệ cơ sở cách mạng và phong trào quần chúng, trong đó ông Bửu Đóa được cử làm Đội phó rồi Đội trưởng.
Chỉ trong 3 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã cùng đồng đội lập nhiều chiến công vẻ vang, được ghi vào trang vàng lịch sử Công an nhân dân. Ngày 1/5/1946, do Việt gian chỉ điểm, ông Bửu Đóa bị lính Pháp bắt. Tuy nhiên, với sự mưu trí, ông không những thoát khỏi tay giặc mà còn tiêu diệt một tên địch, rút về cứ an toàn. Khi giả thành người chăn vịt, khi đóng vai người đi buôn…, ông Bửu Đóa đã làm cho kẻ thù ở khắp Nha Trang và các khu vực lân cận nhiều phen khiếp sợ.
Từ cuối năm 1945 đến năm 1948, trong tổng số 22 trận đánh khi phối hợp cùng đồng đội, khi độc lập chiến đấu, ông Bửu Đóa đã tiêu diệt 11 tên Pháp, 9 tên Việt gian và ngụy binh, thuyết phục 10 ngụy binh trở về với cách mạng, phá hủy nhiều phương tiện, thiết bị hoạt động của quân Pháp tại Nha Trang…
Ông đã anh dũng hy sinh trong một trận đánh năm 1948 với giặc Pháp tại khu vực Cầu Đá khi mới ở tuổi 28.
Ngày 25/4/1949, ông là một số ít người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba. Nha Công an Trung ương cũng tặng ông tấm Huy hiệu công an đúc bằng vàng. Chiếc huy hiệu hiện được bảo quản tại Bảo tàng Công an nhân dân (Hà Nội). Năm 1995, ông Bửu Đóa được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Huy hiệu Công an bằng vàng, Nha Công an Trung ương tặng thưởng đồng chí Bửu Đóa - Đội trưởng Công an xung phong (Ty Công an Khánh Hòa). Ảnh: Báo Công an nhân dân)
Huy hiệu Công an bằng vàng, Nha Công an Trung ương tặng thưởng đồng chí Bửu Đóa - Đội trưởng Công an xung phong (Ty Công an Khánh Hòa). Ảnh: Báo Công an nhân dân)
Thu phục lòng người từ tinh thần đại đoàn kết toàn dân
Trong tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam có ghi:
Tôi là một trí thức thuộc hoàng tộc lại là người công giáo. Học xong trường Võ bị, năm 1948 được điều vào Quảng Bình chiến đấu ở địch hậu với chức vụ là Đại đội trưởng Đại đội độc lập. Tôi chưa vào Đảng, lại là họ nhà vua, nên có người không đồng ý để tôi chỉ huy bộ đội. Nhưng cấp trên vẫn giao nhiệm vụ cho tôi. Sự tin cậy của đồng chí chỉ huy phó Mặt trận của Chính phủ Hồ Chí Minh đã cổ vũ, động viên tôi hoàn thành nhiệm vụ".
Điều đó cho thấy, cùng với tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, thì chiến lược, đường lối, chính sách Đại đoàn kết của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được "con vua, cháu chúa" đi với nhân dân, với cách mạng.
Tư liệu trong cuốn “Những người trong hoàng tộc nhà Nguyễn đi theo Cụ Hồ” cho biết: Một trong những nét thiên tài Hồ Chí Minh và sự sáng suốt của Trung ương Đảng là sự nhạy cảm sâu sắc về đặc điểm, về lịch sử dân tộc mình; hiểu rõ khát vọng "không gì quý hơn độc lập tự do" được biểu hiện ở những mức độ khác nhau trong các tầng lớp xã hội khác nhau.
Hồ Chủ tịch bao giờ cũng rất trân trọng các ông vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Về vua Duy Tân, Người viết: "Một ông vua cũng có thể suy nghĩ và biết đau xót trước cảnh thống khổ chưa từng thấy của nhân dân mình".
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chủ tịch đã cử Bộ trưởng Tài chính Lê Văn Hiến vào Huế và căn dặn: "Chú vào Huế gặp bà Nam Phương, nói tôi gửi lời thăm và mời bà và các con của bà ra Hà Nội sống chung với ông cố vấn. Chính phủ sẽ lo chỗ ăn ở chu đáo cho ông, bà... Chú cùng với Ủy ban nhân dân Trung Bộ tìm cho được bà Thành Thái, Duy Tân. Hai bà hiện đang sống lẻ loi, không người để ý, chắc có khó khăn. Chú nói tôi có lời thăm và chúc hai bà mạnh khỏe. Chính phủ Việt Nam từ nay sẽ trợ cấp cho mỗi bà mỗi tháng một số tiền để giúp đỡ trong lúc khó khăn. Số tiền cụ thể là bao nhiêu, chú bàn với các đồng chí trong Ủy ban Trung Bộ rồi quyết định. Nếu mỗi bà được 500 đồng thì tốt".
Nam Phương hoàng hậu và năm người con.
Nam Phương hoàng hậu và năm người con.
Đầu năm 1948, từ Việt Bắc, Hồ Chủ tịch gửi thư cho cụ Ưng Úy, nguyên Thượng Thư bộ Lễ: "Xin gửi lời thăm sức khỏe của Cụ và quý gia quyến. Xin mời Cụ tham gia kháng chiến để chúng ta tiếp tục sự nghiệp bỏ dở của các vị tiền bối Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân...” (25/1/1948).
Trong bằng khen gửi tặng gia đình Anh hùng Lực lượng vũ trang Tôn Thất Cảnh, Hồ Chủ tịch viết: “Tặng khen - một nhà trung nghĩa, muôn thuở thanh danh” (11/8/1948).
Giữa rừng Việt Bắc thôi kháng chiến chống Pháp, tặng huân chương cho giáo sư Tôn Thất Tùng. Hồ Chủ tịch nói: “Chú là một Cidevant (danh từ mà cách mạng Pháp 1789 dành cho các nhà quý tộc) mà nay được Chính phủ trao tặng huân chương, chú phải cố gắng hơn nữa”.
Khi vợ giáo sư Đặng Văn Ngữ là bà Tôn Nữ Thị Cung, con gái quan Thượng thư Triểu đình Huế qua đời, Hồ Chủ tịch an ủi: “Bác khuyên chú (Đặng Văn Ngữ) chớ quá buồn rầu, lấy công tác mà làm khuây khỏa. Về việc cháu bé, Bác đã dặn chú Bảy: có dịp thì sắp xếp cho cháu đi học cùng các anh, chú không lo...”
Một mặt đoàn kết vững chắc trong nước, Hồ Chí Minh còn mở rộng mối đoàn kết với người nước ngoài có "tấm lòng với cách mạng Việt Nam" với các cơ sở bạn bè, đồng minh, với phong trào công nhân cộng sản quốc tế.
Tiến sĩ sử học Phan Tiến Dũng và nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hoa
Tiến sĩ sử học Phan Tiến Dũng và nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hoa
Nếu không có chính sách Đại đoàn kết, tinh thần thu hút, sử dụng người tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, Mặt trận Việt Minh trong Cách mạng Tháng 8 không thể nào tập hợp được các nhà tư sản dân tộc như Trịnh Văn Bô, Đỗ Đình Thiện... đã ủng hộ hàng nghìn lạng vàng cho Quỹ Độc lập. Nhiều quan lại triều đình như Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Phạm Phú Tiết, Tổng đốc Vi Văn Đình, Tri phủ Tạ Quang Đệ..., kể cả con cháu quan lại triều đình cũ vẫn một lòng với Cụ Hồ, với Đảng, với Tổ quốc như Giáo sư Phạm Khuê, nhạc sĩ Phạm Tuyên...
Chính sách đại đoàn kết dân tộc cũng đã thu hút những trí thức lớn như Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Hiến, Đào Duy Anh, Đặng Phúc Thông, Phan Anh, Vũ Đình Hòe, Trần Duy Hưng, Hoàng Đạo Thúy, Trần Văn Lai... ở trong nước lại có thể hợp tác ngay trong Cách mạng Tháng Tám trong khi họ chưa và không phải là đảng viên, mà lại giữ các trách nhiệm cao trong Chính phủ...
Tinh thần đại đoàn kết và mục tiêu thu phục người tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đưa về cho nước nhà hàng loạt trí thức, nhà khoa học tài năng, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống bình yên, ổn định để về “cùng xương thịt với nhân dân tôi. Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu”, chịu khó, chịu khổ giúp kháng chiến thành công, như Giáo sư Trần Đại Nghĩa, bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư Võ Quý Huân, kỹ sư Võ Đình Quỳnh từ Pháp, nhà nông học Lương Định Của, bác sĩ Đặng Văn Ngữ từ Nhật Bản.
Nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Văn Hoa (Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Huế) cho rằng, tư tưởng đại đoàn kết, chiến lược đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thuyết phục được những người trong hoàng tộc đứng lên và cùng nhân dân chiến đấu, sẵn sàng hy sinh lợi ích vì độc lập dân tộc.
Còn nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đắc Xuân nhấn mạnh: “Cách mạng tháng Tám của chúng ta có sự đồng tình lớn từ nhiều tầng lớp. Từ vua, hoàng hậu những người tầng lớp cao nhất, theo học ở Pháp, ăn sung mặc sướng nhưng từ bỏ hết tất cả để trở về làm dân thường và đi theo cách mạng, đó là ý nghĩa rất lớn của tinh thần đại đoàn kết mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời cụ Huỳnh Thúc Kháng (hàng đầu, bên phải) - một trí thức Hán học, từng là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ thời thuộc Pháp, một người ngoài Đảng tham gia Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, 1946.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời cụ Huỳnh Thúc Kháng (hàng đầu, bên phải) - một trí thức Hán học, từng là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ thời thuộc Pháp, một người ngoài Đảng tham gia Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, 1946.
E-Magazine | Nhandan.vn
Tổ chức sản xuất: TRƯỜNG SƠN - HỒNG VÂN
Nội dung: TUYẾT LOAN, CÔNG HẬU
Tài liệu, tư liệu: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, Tư liệu của nhà nghiên cứu NGUYỄN ĐẮC XUÂN, sách "Những người trong hoàng tộc nhà Nguyễn đi theo Cụ Hồ", Nhà xuất bản Lao động
Trình bày: VÂN THANH
