ĐÀO MAI TRANG

“Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc, bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa, cờ in máu chiến thắng mang hồn nước… /Đoàn quân Việt Nam đi, sao vàng phấp phới…”. Văn Cao viết lời Tiến quân ca khi ông vừa qua tuổi 21, chưa từng tận mắt thấy lá cờ đỏ sao vàng; tất cả chỉ là từ trí tưởng tượng của ông qua lời kể của những người đồng chí về các hoạt động cách mạng của Việt Minh, của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, của những đội quân du kích mang tinh thần cách mạng như ở các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ năm nào.

1Trong Bảo tàng Lịch sử quốc gia, tại phần trưng bày về thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám, có phiên bản bức tranh sơn dầu, vẽ lại một cảnh Khởi nghĩa Nam Kỳ diễn ra ở Hóc Môn (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay). Bức tranh miêu tả từ phía sau một đoàn người như sóng cuộn đang tiến công một khu đồn trú của Pháp, từ cổng chính, trèo thang thẳng lên tầng hai của tòa nhà. Bay phấp phới phía trên đoàn người là rất nhiều lá cờ đỏ búa liềm và cờ đỏ sao vàng năm cánh.

Phiên bản bức tranh là hình ảnh trực quan sống động duy nhất về cuộc khởi nghĩa diễn ra cùng lúc tại nhiều tỉnh, thành phố miền nam, vào ngày 23/11/1940. Điều đặc biệt, nếu xếp theo trình tự thời gian, đây là hình ảnh trực quan đầu tiên ghi dấu sự hiện diện của lá cờ đỏ sao vàng trong số các hiện vật được chọn trưng bày tại khu vực này.

Bức tranh vẽ về Khởi nghĩa Nam Kỳ với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bên cạnh lá cờ búa liềm của Đảng. (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia)

Bức tranh vẽ về Khởi nghĩa Nam Kỳ với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bên cạnh lá cờ búa liềm của Đảng. (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia)

Hình ảnh ấy gợi nhắc đến bài hát Nam Bộ kháng chiến, có đoạn:

“Mùa thu rồi ngày hăm ba
Ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến…
Cờ thắm tung bay ngang trời
Sao vàng xao xuyến khắp nơi bưng biền…”.

Bài hát được người thanh niên 24 tuổi Tạ Thanh Sơn viết vào ngày 25/9/1945, gần 4 năm sau thời gian diễn ra cuộc khởi nghĩa tạo nên bước ngoặt lớn trong công cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc.

Rừng Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn), nơi thành lập Đội du kích Bắc Sơn (Đội Cứu quốc quân 1), ngày 14/2/1941.

Rừng Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn), nơi thành lập Đội du kích Bắc Sơn (Đội Cứu quốc quân 1), ngày 14/2/1941.

Hình ảnh thứ hai ghi dấu sự xuất hiện lá cờ đỏ sao vàng thiêng liêng, là một bức ảnh đen trắng, nổi bật hình ảnh lá cờ khổ lớn, được giương cao ở chính giữa ảnh. Bức ảnh có kèm dòng chú thích: Rừng Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn), nơi thành lập Đội du kích Bắc Sơn (Đội Cứu quốc quân 1), ngày 14/2/1941.

Cờ Tổ quốc treo tại Đại hội quốc dân Tân Trào, tháng 8/1945, trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Ảnh: An Trung

Cờ Tổ quốc treo tại Đại hội quốc dân Tân Trào, tháng 8/1945, trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Ảnh: An Trung

Hiện vật thứ ba chính là lá cờ mà “lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mang từ nước ngoài về treo trong ngày thành lập Mặt trận Việt Minh, tháng 5/1941” (chú thích của Bảo tàng), tại Pác Bó, tỉnh Cao Bằng. Hiện vật này, không phải ảnh hay tranh, tuy đã bị nhuốm màu thời gian nhưng chính vì thế, càng như làm lấp lánh hơn màu đỏ của nền, màu vàng của ngôi sao năm cánh trong mắt lớp hậu thế, khuyến dụ chúng tôi lật giở lại từng trang lịch sử thắm máu đào của bao lớp người đi trước.

2Khởi nghĩa Nam Kỳ diễn ra sau nhiều cuộc bàn thảo của Xứ ủy Nam Kỳ. Một trong những bàn thảo có tính chất quyết định là Hội nghị mở rộng của Xứ ủy tổ chức tại một nhà dân ở xã Tân Hương, địa phận tỉnh Mỹ Tho khi đó (sau, trực thuộc tỉnh Tiền Giang và nay, thuộc xã Tân Hương, tỉnh Đồng Tháp), trong vòng 1 tuần lễ, từ ngày 21-27/7/1940. Ngôi nhà, nơi tổ chức Hội nghị quan trọng này, đã được công nhận Di tích lịch sử cấp tỉnh (Tiền Giang) năm 1989: Di tích lịch sử Nhà bà Năm Dẹm.

Hội nghị quan trọng này đã đi tới quyết định chọn lá cờ đỏ sao vàng là biểu tượng, cờ hiệu của cuộc khởi nghĩa và sau khi khởi nghĩa thành công, sẽ lấy quốc hiệu là “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quốc”. Những điều này được khẳng định qua nhiều tham luận công bố tại hội thảo khoa học "Mỹ Tho - từ cuộc khởi nghĩa tháng 11/1940 đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945" do Tỉnh ủy Tiền Giang và Viện Lịch sử Đảng Trung ương phối hợp tổ chức vào tháng 11/2005, cùng các phần viết trong sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tiền Giang.

Phác thảo: Cách mạng Tháng Tám – Huy Toàn (Lê Huy Toàn).

Phác thảo: Cách mạng Tháng Tám – Huy Toàn (Lê Huy Toàn).

Thời điểm năm 2005 trở về trước, một số nhân chứng của cuộc khởi nghĩa vẫn còn sống, trong đó có những người từng tham gia Xứ ủy Nam Kỳ ngay từ lúc chuẩn bị cho khởi nghĩa. Vì vậy, những lời kể, thuật lại diễn tiến lịch sử của họ là vô cùng quan trọng, nhất là đặt trong bối cảnh lịch sử đương thời, các hội nghị, gặp gỡ của Xứ ủy đều diễn ra trong bí mật, tránh để lại dấu vết khiến kẻ địch dễ bề truy lùng; chưa kể, sau khởi nghĩa, những cuộc bắt bớ, khủng bố trắng đã diễn ra, bao tài liệu thành văn từ các cuộc họp, hội nghị của Xứ ủy cũng bị tiêu hủy, thất tán.

Cho đến nay, vẫn còn cần nhiều cứ liệu lịch sử để tham chiếu và minh định cá nhân nào là người trực tiếp nêu ý tưởng và thực hiện việc phác thảo hình ảnh lá cờ đỏ và ngôi sao năm cánh. Bởi lịch sử cần được nhìn nhận, soi rọi dưới góc nhìn của khảo cứu và phân tích khoa học mới bảo đảm xác tín trường tồn.

Lịch sử cần được nhìn nhận, soi rọi dưới góc nhìn của khảo cứu và phân tích khoa học mới bảo đảm xác tín trường tồn.

Song, có một điều không thay đổi ngay từ buổi đầu, chính là ý nghĩa của lá cờ gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng - màu đỏ của nền cờ cũng là màu nền lá cờ Đảng, cùng sự đoàn kết thống nhất một lòng của các tầng lớp nhân dân trong xã hội nhất tề đứng lên giành độc lập dân tộc, với năm thành phần đại diện: Sĩ-Nông-Công-Thương-Binh, thể hiện qua hình ảnh ngôi sao năm cánh.

Điều này cũng tương tự như việc Xứ ủy Nam Kỳ chọn quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quốc”, thể hiện sự tuân thủ tuyệt đối chỉ đạo, lãnh đạo của Trung ương Đảng trước những bước chuyển hóa của cách mạng gắn liền với sự vận động của xã hội, ý thức về đoàn kết, thống nhất, độc lập dân tộc của các tầng lớp nhân dân ngày càng sáng rõ. Nghị quyết của Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, ban hành sau cuộc họp từ ngày 6-8/11/1939, xác định: “… phải thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”.

Nghị quyết nêu rõ đặc điểm của Mặt trận “là hình thức liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương dưới nền thống trị đế quốc Pháp, tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng cho dân tộc, để tranh đấu chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát-xít, đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn tay sai của đế quốc, đòi hòa bình cơm áo, thực hiện nền độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương với quyền dân tộc tự quyết”.

Đêm 22, rạng sáng 23/11/1940, cả Nam Kỳ rung chuyển dưới sức nổi dậy của quần chúng cách mạng. (Ảnh: TTXVN)

Đêm 22, rạng sáng 23/11/1940, cả Nam Kỳ rung chuyển dưới sức nổi dậy của quần chúng cách mạng. (Ảnh: TTXVN)

Khởi nghĩa Nam Kỳ nhất loạt diễn ra tại hầu khắp Nam Bộ, là cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô nhất ở miền nam kể từ khi thực dân Pháp xâm lược. Khởi nghĩa đã có thắng lợi ban đầu điển hình là hơn 40 ngày vận hành thể chế dân chủ cộng hòa của chính quyền cách mạng tại Mỹ Tho, đã cho thấy sức mạnh của sự đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân.

Ngôi đình Long Hưng, thuộc quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc xã Long Hưng, tỉnh Đồng Tháp) chính là nơi mà Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Mỹ Tho đặt trụ sở chính quyền nhân dân cách mạng tỉnh, nơi trước nhất đồng thời tung bay lá cờ đỏ sao vàng bên cạnh quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quốc”.

Bia ghi dấu địa điểm xét xử đầu tiên ở Nam Bộ được đặt tại đình Long Hưng.

Bia ghi dấu địa điểm xét xử đầu tiên ở Nam Bộ được đặt tại đình Long Hưng.

Đây cũng là nơi diễn ra phiên xử án đầu tiên trong lịch sử tòa án cách mạng Việt Nam với sự tham gia của vị luật sư duy nhất, bà Nguyễn Thị Thập; đó là phiên tòa xử “bọn tay sai, ác ôn”, tối 29/11/1940, do Tòa án nhân dân tỉnh Mỹ Tho vừa được thành lập tiến hành.

Ngôi đình, chứng nhân của nhiều sự kiện lịch sử quan trọng nhường ấy, đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1995. Và nếu có dịp thăm Bảo tàng Lịch sử quốc gia, tại phần trưng bày về các triều đại phong kiến trong lịch sử, chúng ta sẽ không khỏi cảm thấy bồi hồi khi nhìn thấy bảng quốc hiệu Việt Nam lần đầu xuất hiện ở triều Vua Gia Long, cũng là triều đại thống nhất lãnh thổ từ bắc vào nam sau nhiều năm nội chiến.

3Từ cuộc khởi nghĩa đánh dấu bước chuyển mình quan trọng của cách mạng Việt Nam, ý nghĩa sâu xa của lá cờ thắm máu đồng bào và quốc hiệu - như lời hiệu triệu đoàn kết một lòng của cả dân tộc hướng đến vận hội mới của Tổ quốc độc lập đã được lan tỏa khắp bắc, trung, nam, dần in sâu trong lòng chúng dân yêu nước.

Tiếp nối với các quyết định sau này của Mặt trận Việt Minh về lá cờ hiệu của Mặt trận cùng thế phát triển không gì có thể đảo ngược của cách mạng Việt Nam, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng đã trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc thành một khối thống nhất, cổ vũ tinh thần chiến đấu, đấu tranh vì độc lập, tự do của mọi người con yêu nước mình.

Phải vậy chăng mà như chính lời tâm sự chân thành của tác giả Tiến quân ca, về sau là Quốc ca của Việt Nam, nhạc sĩ Văn Cao, dù chưa từng nhìn thấy tận mắt hình ảnh lá cờ nhưng khi nhận được đề nghị viết một ca khúc cho đội quân cách mạng, ngòi bút trên tay ông đã tuôn trào những lời ca trong dòng suối cảm xúc: Cờ in máu chiến thắng… sao vàng phấp phới...

Ngày đăng: 2/9/2025
Trình bày: NAM ĐÔNG-PHƯƠNG NAM