PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TIÊN TIẾN, HIỆN ĐẠI ĐỂ
VIỆT NAM VỮNG BƯỚC TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC
Trong nhiều bài phát biểu gần đây tại các hội nghị, diễn đàn quan trọng ở trong nước và nước ngoài, Tổng Bí thư Tô Lâm nhắc đến việc Việt Nam đang chuẩn bị bước vào một giai đoạn phát triển mới, một kỷ nguyên mới - “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Một trong những yêu cầu, nhiệm vụ để Việt Nam vững bước tiến vào “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là cần phải xác lập một phương thức sản xuất mới, trong đó phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại là nòng cốt; trên cơ sở đó, xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp để đưa nền kinh tế đất nước tiếp tục có những bước phát triển bứt phá.
Nội hàm của “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” và sự cần thiết phải phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại
Ngày 13/8/2024, trong bài phát biểu tại Cuộc họp thường trực Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, Đại hội XIV của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế giới trong thời kỳ thay đổi mang tính thời đại; thời cơ, thuận lợi đi liền với nguy cơ, thách thức. Với thế và lực đã tích lũy được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Việt Nam hội tụ đủ những điều kiện cần thiết để chuẩn bị bước vào một giai đoạn phát triển mới. Do đó, “cần thống nhất nhận thức về khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, từ đó có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về hình thức và nội dung các văn kiện”. Đây là chỉ đạo mang tính định hướng cho việc xây dựng các văn kiện Đại hội XIV, nhất là việc đổi mới nội dung, hình thức các văn kiện cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới.
Ngày 20/9/2024, trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII, khi nói về công tác chuẩn bị nội dung dự thảo các văn kiện, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định sự thống nhất của Trung ương khi đánh giá về thế và lực của đất nước sau 40 năm đổi mới: “Với thế và lực đã tích lũy được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”.
Từ nhận định của Tổng Bí thư về “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, có thể hiểu kỷ nguyên là một thời kỳ phát triển mới, khác biệt về chất so với thời kỳ trước đó; tạo ra những thay đổi căn bản, toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội. Kỷ nguyên mới của dân tộc là thời kỳ phát triển mới trong tiến trình lịch sử mà ở đó, những mục tiêu, nhiệm vụ đã được thực hiện, đã hoàn thành, tạo ra bước ngoặt cho tiến trình phát triển để dân tộc bước vào một thời kỳ phát triển mới. Với hàm nghĩa này, từ thế kỷ XX đến nay, có thể nhận định đã và đang có ba lần đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc được đánh dấu bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945; kỷ nguyên đổi mới đất nước được ghi dấu bằng những quyết sách quan trọng về đổi mới toàn diện đất nước ở Đại hội VI của Đảng (năm 1986) và hiện đang chuẩn bị bước vào kỷ nguyên phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc sau 40 năm đổi mới. Những kỷ nguyên đó đã mở ra một giai đoạn phát triển mới cho đất nước; trong đó, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” thể hiện sự bứt phá, khả năng trỗi dậy khi đã tích lũy, hội tụ được những điều kiện, tiền đề chín muồi để tiếp tục đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Nội hàm của “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” mà Tổng Bí thư Tô Lâm thường nhắc đến trong thời gian gần đây là sự xác lập Việt Nam chuẩn bị bước vào một giai đoạn phát triển mới, nâng tầm tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta lên một tầm cao mới. Đây không phải là nhận định mang tính chủ quan, nóng vội, mà dựa trên cơ sở nhận định, đánh giá những điều kiện, tiền đề đã được tích lũy được qua gần 40 năm đổi mới đất nước cùng những thời cơ, điều kiện thuận lợi mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên thế giới mang lại; đồng thời, thể hiện tầm nhìn chiến lược cũng như niềm tin vững chắc vào tương lai, vận mệnh của dân tộc trong thời đại mới.
Từ những nhận định đó, thời điểm bắt đầu của “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là từ khi bắt đầu nhiệm kỳ Đại hội XIV của Đảng với mục tiêu xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu chính đáng; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Mục tiêu cụ thể là đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao. Đây là mục tiêu rất rõ ràng, vừa trên cơ sở nhận định, đánh giá khách quan về những kết quả Việt Nam đã đạt được trong 40 năm đổi mới; đồng thời, cũng là sự kết tinh ý chí, khát vọng, niềm tin của cả dân tộc Việt Nam về một giai đoạn phát triển bứt phá của đất nước trong những năm tiếp theo.
Để định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ cần phải xây dựng một phương thức sản xuất mới, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại dựa trên quá trình chuyển đổi số quốc gia, cũng như chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phương. Tổng Bí thư chỉ rõ: “Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế-xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng”. Đây là một nhận định rất quan trọng, chỉ rõ nội hàm của phát triển lực lượng sản xuất mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo và dữ liệu trở thành một tư liệu sản xuất quan trọng.
Như vậy, theo quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là kỷ nguyên Việt Nam tập trung thúc đẩy năng lực sáng tạo, đưa khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực của phát triển đất nước nhanh và bền vững, bảo đảm phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; mở ra triển vọng phát triển mới của đất nước trong giai đoạn mới. Phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển con người toàn diện là hai trụ cột quan trọng, tạo động lực bứt phá cho Việt Nam tạo lập nên một phương thức sản xuất mới.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phương thức sản xuất tạo nên diện mạo của nền kinh tế, trong đó trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất vật chất. Sau gần 40 năm đổi mới, lực lượng sản xuất của Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc cả trên phương diện chủ thể của lực lượng sản xuất-người lao động và điều kiện, tiền đề phát triển lực lượng sản xuất-tư liệu sản xuất. Đến năm 2025, lực lượng lao động ước đạt 53,2 triệu người với cơ cấu chuyển dịch theo chiều hướng tích cực: Giảm mạnh tỷ lệ lao động nông nghiệp còn 25,8%; tăng nhanh tỷ lệ nguồn nhân lực đã qua với 70%. Nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong các lĩnh vực then chốt, như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin được tập trung phát triển, bước đầu hình thành đội ngũ lao động với tư duy số và kỹ năng số ngày càng được nâng cao. Ngoài ra, tư liệu sản xuất vô hình (dữ liệu số) ngày càng chiếm vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Điều này chính là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, là cơ sở để Việt Nam chuyển mạnh sang sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Do đó, lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay không chỉ đơn thuần là người lao động thủ công, mà còn là đội ngũ lao động có trình độ khoa học-công nghệ hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, góp phần làm thay đổi toàn bộ cấu trúc sức sản xuất trong lực lượng sản xuất mới. Đặc biệt, hiện nay trí tuệ nhân tạo đang dẫn đầu trong quá trình chuyển đổi số và ngày càng gia tăng qua từng năm.
Mặc dù lực lượng sản xuất mới đang dần hình thành, nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định, chất lượng và hiệu quả vẫn còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu của phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Về nguồn nhân lực, tính tới thời điểm hiện tại, “chỉ 28% lực lượng lao động Việt Nam có qua đào tạo có chứng chỉ, bằng cấp; ngành công nghiệp chế biến chế tạo chủ yếu do doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh; 72% xuất khẩu của Việt Nam là do các doanh nghiệp FDI thực hiện, 28% do doanh nghiệp trong nước, nhưng chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp và ngành lao động giản đơn; năng suất lao động bình quân của người lao động Việt Nam chỉ bằng 7,6% năng suất lao động của Singapore, 19,5% của Malaysia, 37,9% của Thái Lan, 45,6% của Indonesia”. Những hạn chế về trình độ của nguồn nhân lực đang tạo ra lực cản đáng kể để phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại, nhất là tạo ra những khó khăn trong sự kết hợp giữa người lao động và trí tuệ nhân tạo ở một số ngành sử dụng công nghệ hiện đại.
Về tư liệu sản xuất mới, với chủ trương chuyển đổi số của Chính phủ, mặc dù Việt Nam đang dần xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin quốc gia cũng như cơ sở dữ liệu thông tin của các bộ, ngành, địa phương; hình thành nên nguồn tư liệu sản xuất vô hình; tuy nhiên, “việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ người sử dụng chưa cao”. Do đó, chưa khai thác được tối đa lợi thế của nguồn dữ liệu phong phú để thúc đẩy phát triển kinh tế số, kinh tế chia sẻ.
Những hạn chế trên đòi hỏi cần phải có những định hướng, giải pháp tháo gỡ những nút thắt để nhanh chóng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển theo hướng tiên tiến, hiện đại nhằm xây dựng một phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất số để đưa Việt Nam tiến vào “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.
“Với thế và lực đã tích lũy được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”.
Tổng Bí thư Tô Lâm
Giải pháp phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại để Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Từ việc xác định nội hàm, mục tiêu của “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” cũng như đánh giá những thành tựu, hạn chế của phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam thời gian qua, để phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của “kỷ nguyên vươn mình dân tộc”, cần chú trọng đến những giải pháp cơ bản sau:
Một là, phát huy tối đa mọi nguồn lực xã hội thông qua việc hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động nguồn lực to lớn trong nhân dân, doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, nguồn lực từ đất đai, tài sản tích lũy trong nhân dân, biến những tiềm năng này thành động lực, thành tư liệu sản xuất để tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Phát huy tối đa nguồn lực con người - nhân tố quyết định phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại thông qua cơ chế thu hút nguồn lao động giỏi, có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trong những ngành sử dụng công nghệ cao, có sự liên kết với nước ngoài. Đặc biệt, có cơ chế để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực kinh tế công; đồng thời, hạn chế tình trạng “chảy máu chất xám” nguồn nhân lực sang nước ngoài.
Hai là, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là yêu cầu về sự phối hợp giữa người lao động với trí tuệ nhân tạo trong sản xuất. Trước mắt, cần đổi mới nội dung chương trình đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, như chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới trong các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề. Mở rộng các ngành nghề đào tạo về công nghệ hiện đại, như an toàn, an ninh mạng, công nghệ trí tuệ nhân tạo... Phát triển mô hình đào tạo phức hợp với sự liên kết của cơ sở đào tạo với các công ty, doanh nghiệp để tạo môi trường cho người học được rèn luyện kỹ năng, trải nghiệm thực tế và có nhiều cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp. Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo để dần tạo ra một thế hệ người lao động mới có khả năng làm việc ở các công ty đa quốc gia và các ngành sản xuất có sử dụng công nghệ cao, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ba là, tiếp tục kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật, tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho nền kinh tế số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo. Có cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy chuyển đổi số cả trên phương diện quốc gia cũng như ở các ban, bộ, ngành, địa phương và trong mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội, khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nhất là sở hữu nguồn dữ liệu thông tin để thúc đẩy tư liệu sản xuất phát triển. Thường xuyên rà soát, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới, như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... bảo đảm khung pháp lý không trở thành rào cản của sự phát triển; đồng thời, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp và người lao động trong kỷ nguyên số.
Bốn là, đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong kỷ nguyên số. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện các hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao để giải phóng sức lao động trực tiếp và hạn chế tối đa những tiêu cực, lãng phí trong lĩnh vực công. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp để tạo thành cơ sở dữ liệu dùng chung nhằm xây dựng nguồn tư liệu sản xuất mới thúc đẩy kinh tế số phát triển. Thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, mọi lĩnh vực để tạo ra các mô hình kinh doanh mới, có khả năng thích ứng với môi trường sản xuất mang tính cạnh tranh toàn cầu.
Năm là, hoàn thiện những quy định của pháp luật về sở hữu, sử dụng tài nguyên số với tính cách là tư liệu sản xuất mới cũng như những quy định về bảo mật và an toàn dữ liệu thông tin. Tăng cường đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng và các công cụ phần mềm chuyên biệt để triển khai và tích hợp trí tuệ nhân tạo vào quá trình sản xuất. Để con người và trí tuệ nhân tạo kết hợp hài hòa với nhau, một mặt, cần phải có nguồn nhân lực có chuyên môn cao, làm chủ công nghệ hiện đại; mặt khác, các doanh nghiệp phải có những thay đổi nhất định trong mô hình sản xuất kinh doanh, điều chỉnh quy trình làm việc và văn hóa doanh nghiệp để phù hợp với xu hướng mới.
Có thể khẳng định, quan niệm về kỷ nguyên mới - “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của người đứng đầu Đảng ta. Đó không phải là nhận định “nóng vội”, “mang tính chủ quan” như luận điệu sai trái, thù địch của các phần tử phản động, cơ hội chính trị thường rêu rao, quy chụp mà chính là sự hội tụ giữa “ý Đảng” và “lòng Dân”; giữa định hướng mang tầm chiến lược của Đảng với niềm tin, ý chí, khát vọng của cả dân tộc về một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc trong tương lai. Một trong những nấc thang quan trọng đưa Việt Nam vững bước tiến vào “kỷ nguyên vươn mình” chính là xác lập một phương thức sản xuất mới dựa trên nền tảng của chuyển đổi số, mà trước tiên là phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại.
Nguồn: Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc gia “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức ngày 15/11/2024.
Trình bày: Hạnh Vũ
Ảnh: TTXVN, Nhân Dân